intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đồ án môn học: Giới thiệu về bãi chôn lấp rác thải sinh hoạt hợp vệ sinh cho một đô thị 750 nghìn dân

Chia sẻ: Cao Nguyen Cao | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:50

171
lượt xem
44
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong xu thế phát triển kinh tế xã hội, với vận tốc đô thị hóa ngày càng tăng và sự phát triển mạnh mẽ của các ngành công nghiệp, dịch vụ, du lịch… kéo theo mức sống của người dân ngày càng cao đã làm nảy sinh nhiều vấn đề mới, nan giải trong công tác bảo vệ môi trường và sức khỏe cộng đồng dân cư. Xuất phát từ thực tế đó mà "Đồ án môn học: Giới thiệu về bãi chôn lấp rác thải sinh hoạt hợp vệ sinh cho một đô thị 750 nghìn dân" đã được thực hiện.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đồ án môn học: Giới thiệu về bãi chôn lấp rác thải sinh hoạt hợp vệ sinh cho một đô thị 750 nghìn dân

  1. MỤC LỤC MỞ ĐẦU Trong xu thế phát triển kinh tế xã hội, với vận tốc đô thị hóa ngày càng tăng và   sự  phát triển mạnh mẽ  của các ngành công nghiệp, dịch vụ, du lịch… kéo theo mức   sống của người dân ngày càng cao đã làm nảy sinh nhiều vấn đề  mới, nan giải trong  công tác bảo vệ môi trường và sức khỏe cộng đồng dân cư. Lượng chất thải phát sinh  từ  những hoạt động sinh hoạt của người dân ngày một nhiều hơn, đa dạng hơn về  thành phần và mức độ nguy hại về tính chất. Một trong những phương pháp xử  lý chất thải rắn được coi là kinh tế  nhất cả  về đầu tư cũng như chi phí vận hành là xử lý chất thải rắn theo phương pháp chôn lấp  hợp vệ sinh. Đây là phương pháp xử lý chất thải rắn phổ biển nhất ở các quốc gia đang  phát triển và thậm chí đối với nhiều quốc gia phát triển. Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay   1
  2. nhiều bãi chôn lấp vẫn chưa được thiết kế và xây dựng theo đúng yêu cầu của một bãi   chôn lấp hợp vệ sinh. Các bãi này đều không kiểm soát được khí độc, mùi hôi và nước   rỉ rác là nguồn lây nhiễm tiềm tàng cho môi trường đất, nước và không khí, do vậy chưa   được coi là bãi chôn lấp hợp vệ sinh. Với nhiệm vụ môn học đề  ra, đồ  án này sẽ  giới thiệu về  bãi chôn lấp rác thải  sinh hoạt hợp vệ sinh cho một đô thị 750 nghìn dân. CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CHẤT THẢI RẮN SINH HOẠT VÀ CÁC KỸ  THUẬT XỬ LÝ I.1. Đặc trưng chất thải rắn sinh hoạt ở đô thị I.1.1. Định nghĩa Theo điều 3, chương I của Luật BVMT 2014, thuật ngữ  chất thải  được định  nghĩa như sau: “Chất thải là vật chất được thải ra từ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh   hoạt hoặc các hoạt động khác”. 2
  3. Theo điều 3, chương I của Nghị  định số  59/2007/NĐ­CP về  quản lý chất thải  rắn thì: “Chất thải rắn là vật chất  ở  thể  rắn được thải ra từ  quá trình sản xuất, kinh   doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc các hoạt động khác. Chất thải rắn bao gồm chất thải rắn  thông thường và chất thải rắn nguy hại. Chất thải rắn phát thải trong sinh hoạt cá nhân,   hộ gia đình, nơi công cộng được gọi chung là chất thải rắn sinh hoạt”.  I.1.2. Các nguồn phát sinh chất thải rắn sinh hoạt ở đô thị - Các hộ gia đình - Các khu tập thể - Chất thải đường phố, chợ - Các khu trung tâm thương mại - Các văn phòng, sở nghiên cứu, trường học I.1.3. Lượng phát sinh chất thải rắn sinh hoạt ở đô thị Tổng lượng CTR sinh hoạt  ở các đô thị  phát sinh trên toàn quốc tăng trung bình  10­16% mỗi năm. Tại hầu hết các đô thị, khối lượng CTR sinh hoạt chiếm khoảng 60­ 70% tổng lượng CTR đô thị (một số đô thị tỷ lệ này lên đến 90% ). Năm 2007, chỉ  số  CTR sinh hoạt phát sinh bình quân đầu người tính trung bình   cho các đô thị  trên phạm vi toàn quốc vào khoảng 0,75 kg/người/ngày. Năm 2008, theo  Bộ Xây dựng thì chỉ số  này là 1,45 kg/người/ngày, lớn hơn nhiều so với  ở nông thôn là   0,4 kg/người/ngày. Tuy nhiên, theo Báo cáo của các địa phương năm 2010 thì chỉ số phát   sinh CTR sinh hoạt đô thị  trung bình trên đầu người năm 2009 của hầu hết các địa   phương đều chưa tới 1,0 kg/người/ngày. Các con số  thống kê về  lượng CTR sinh hoạt   đô thị  không thống nhất là một trong những thách thức trong việc tính toán và dự  báo   lượng phát thải CTR đô thị ở nước ta. Kết quả  điều tra tổng thể  năm 2006­2007 đã cho thấy, lượng CTR đô thị  phát   sinh chủ yếu tập trung  ở hai đô thị  đặc biệt là Hà Nội và TP. Hồ  Chí Minh, chiếm tới  45,24% tổng lượng CTR sinh hoạt phát sinh từ  tất cả  các đô thị  tương  ứng khoảng  8.000 tấn/ngày (2,29 triệu tấn/năm) (Biểu đồ  1.1). Tuy nhiên, chỉ số phát sinh CTR sinh  hoạt tính bình quân trên đầu người lớn nhất xảy ra  ở  các đô thị  phát triển du lịch như  các thành phố: Hạ  Long, Hội An, Đà Lạt, Ninh Bình,... Các đô thị  có chỉ  số  phát sinh  CTR sinh hoạt tính bình quân đầu người thấp nhất là  ở  Tp. Đồng Hới (Quảng Bình),  Thị xã Gia Nghĩa, Thị xã Kom Tum, Thị xã Cao Bằng (Bảng 1.2). Bảng 1.1. Lượng CTR sinh hoạt phát sinh ở các đô thị Việt Nam năm 2007 [1] 3
  4. Biểu đồ 1.1: Tỷ lệ phát sinh CTR sinh hoạt tại các đô thị Việt Nam năm 2007 [1] Nguồn: Dự án “Xây dựng mô hình và triển khai thí điểm việc phân loại, thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt  cho các khu đô thị mới”. Cục BVMT, 2008. Bảng 1.2: Chỉ số phát sinh CTR sinh hoạt bình quân đầu người của các đô thị năm  2009 [1] 4
  5. I.1.4. Thành phần chất thải rắn sinh hoạt ở đô thị Thành phần CTR sinh hoạt phụ thuộc vào mức sống ở một số đô thị. Mức sống,  thu nhập khác nhau giữa các đô thị  đóng vai trò quyết định trong thành phần CTR sinh   hoạt (Bảng 1.3). Bảng 1.3: Thành phần CTR sinh hoạt tại đầu vào của các bãi chôn lấp của một số  địa phương Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, TP. HCM (1) và Bác Ninh (2) năm  2009­2010 [1] 5
  6. I.1.5. Chất thải nguy hại trong sinh hoạt Theo thống kê, CTNH còn bị thải lẫn vào chất thải sinh hoạt mang đến bãi chôn   lấp là 0,02­0,82%. CTNH trong sinh hoạt thường là: pin, ắc quy, đèn tuýp, nhiệt kế thủy  ngân vỡ, bao bì chất tẩy rửa, vỏ hộp sơn, vec­ny, vỏ hộp thuốc nhuộm tóc, lọ sơn móng   tay, vỏ bao thuốc trừ sâu, chất thải y tế lây nhiễm của các cơ  sở khám chữa bệnh nhỏ  lẻ, các bơm kim tiêm của các đồi tượng nghiện chích ma túy,... Pin thải và  ắc quy thải: theo điều tra của đề  tài rác thải pin­ắc quy  ở  Hà Nội  năm 2004 cho thấy: Mức tiêu thụ pin R6 Zn­C ở khu vực nội thành là 5­8 cái/người/năm,   6
  7. khu vực ngoại thành là 3­5 cái/người/năm.  Ước tính lượng pin thải R6 Zn­C  ở Hà Nội  năm 2004 là 200­350 tấn/năm (con số tương  ứng năm 2010 có thể  đạt tới 750 tán). Ắc­ quy chạy xe gắn máy chủ  yếu là loại  ắc­quy chì­axit, tuổi thọ  trung bình là 5 năm/cái   với trọng lượng 2,5 kg/ắc­quy.  Ước tính lượng  ắc­quy xe máy năm 2004  ở  Hà Nội là   580 tấn/năm (con số tương ứng cho năm 2010 có thể đạt trên 1.200 tấn). Hiện tại, CTNH trong sinh hoạt vẫn chưa được thu gom và xử lý riêng và bị thải  lẫn với CTR sinh hoạt để đưa đến bãi chôn lấp. Việc chôn lấp và xử lý chung sẽ gây ra  nhiều tác hại cho những người tiếp xúc trực tiếp với rác, ảnh hưởng tới quá trình phân  hủy rác và hòa tan các chấ nguy hại vào nước rỉ rác. Do vậy, các cơ quan quản lý cần có   kế hoạch thu gom riêng biệt CTNH trong CTR sinh hoạt.      I.1.6. Phân loại và thu gom CTR sinh hoạt ở đô thị I.1.6.1. Phân loại tại nguồn 3R (viết tắt của 3 từ Reduce­Giảm thiểu, Recyle­ Tái chế, Reuse­Tái sử  dụng),   với nền tảng là hoạt động phân loại tại nguồn. Phân loại chất thải tại nguồn sẽ  giúp   giảm thiểu lượng rác thải chôn lấp; rác thải hưu cơ  được tái chế  thành sản phẩm có  ích, các chất thải như nhựa, giấy, kim loại được tái chế thành nguyên liệu đầu vào hoặc  sản phẩm tái chế. Đây là cơ  sở  để  hình thành và phát triển thị  trường tái sử  dụng, tái   chế chất thải. Hiện nay, chương trình phân loại rác tại nguồn vẫn chưa được áp dụng, triển   khai rộng rãi vì nhiều lý do như chưa đủ nguồn lực tài chính để mua sắm trang thiết bị,   đầu tư  cơ  sở  hạ  tầng cũng như  nguồn nhân lực thực hiện, đặc biệt là thói quen của  người dân. I.1.6.2. Hình thức thu gom Công tác thu gom thông thường sử dụng 2 hình thức - Thu gom sơ cấp: người dân tự thu gom vào các thùng rác đẩy tay cỡ nhỏ - Thu gom thứ  cấp: rác các hộ  gia đình được công nhân thu gom vào các xe đẩy sau đó   chuyển đến các xe ép rác chuyên dụng và chuyển đến các khu xử  lý hoặc tại các chợ/   khu dân cư có đặt con­tainer chứa rác, công ty môi trường đô thị có xe chuyên dụng chở  container đến khu xử lý 7
  8. I.1.6.3. Tỷ lệ thu gom Tỷ lệ thu gom trung bình ở các đô thị từ 72% năm 2004 tăng lên khoảng 80­82%   năm 2008 và đạt 83­85% cho năm 2010. Mặc dù tỷ  lệ  thu gom có tăng nhưng vẫn còn  khoảng 15­17% CTR đô thị  bị  thải ra môi trường vứt vào bãi đất, hố  đất, ao hồ, hoặc  đốt lộ thiên gây ô nhiễm môi trường. Bảng 1.4: Tỷ lệ thu gom CTR sinh hoạt của một số đô thị năm 2009 [1] 8
  9. I.1.7. Ảnh hưởng của chất thải rắn tới môi trường và sức khỏe cộng đồng - Ảnh hưởng tới môi trường:  + Là nơi dễ phát sinh các ổ dịch bệnh do CTR bị phân hủy thiếu kiểm soát. + Chát lượng đất bị giảm sút. + Ảnh hưởng tới các nguồn nước, đặc biệt là nước mặt. - Ảnh hưởng tới sức khỏe cộng đồng: + Bệnh tật: gia tăng tỷ lệ mắc bệnh do môi trường. + Khả năng lây nhiễm: do các loài côn trùng, gặm nhấm phát triển nhanh. + Các loại bệnh mới: dị ứng da,... I.2. Giới thiệu các công nghệ xử lý chất thải rắn sinh hoạt ở Việt Nam I.2.1. Chôn lấp rác hợp vệ sinh Theo quy định của TCVN 6696­2000, bãi chôn lấp CTR hợp vệ sinh là: khu vực  được quy hoạch thiết kế xây dựng để  chôn lấp các chất thải rắn phát sinh từ  các khu   dân cư, khu đô thị  và các khu công nghiệp, bãi chôn lấp chất thải rắn bao gồm các ô   chôn lấp chất thải, vùng đệm, công trình phụ trợ khác như trạm xử lý nước, trạm xử lý  khí thải, trạm cung cấp điện nước, văn phòng làm việc.  Các kiểu phân loại bãi chôn lấp: - Bãi chôn lấp khô: là bãi chôn lấp các chất thải thông thường (rác thải sinh   hoạt, rác thải đường phố  và rác thải công nghiệp). Chất thải được chôn lấp  ở  dạng khô hoặc  ướt tự  nhiên trong đất khô và có độ   ẩm tự  nhiên. Đôi khi còn  phải tưới nước cho chất thải khô để tránh bụi khi vận chuyển và tạo độ ẩm cần  thiết. Bãi chôn lấp được xây dựng ở nơi khô ráo. - Bãi   chôn   lấp   ướt:   là   một   khu   vực   được   ngăn   để   chôn   lấp   chất   thải   thường là tro hoặc các phế thải khai thác mỏ  dưới dạng bùn nhão. Phương tiện   vận chuyển thường là đường  ống, vì nước chảy ra thường bị  nhiễm bẩn nên   cần được tuần hoàn trở lại. - Bãi chôn lấp hỗn hợp khô  ướt: là nơi dùng để  chôn lấp chất thải thông  thường và bùn nhão. Điều cần lưu ý là đới với các ô dùng để chôn lấp ướt và kết  hợp, bắt buộc không cho phép nước rác thấm đến nước ngầm trong bất cứ  trường hợp nào. - Bãi chôn lấp nổi: là bãi chôn lấp xây nổi trên mặt đất ở những nơi có địa   hình bằng phẳng hoặc không dốc lắm, chất thải được chất thành đống cao đến  15m. Trong trường hợp này xung quanh bãi phải có các đê và đê phải không thấm  để ngăn chặn quan hệ nước thải với nước mặt xung quanh. 9
  10. - Bãi chôn lấp chìm: là loại bãi chìm dưới mặt đất hoặc tận dụng điều  kiện địa hình tại các khu vực có ao hồ  tự  nhiên, các mỏ  khai thác, các hào rãnh   hay thung lũng có sẵn. Trên cơ sở đó kết cấu các lớp lót đáy bãi và thành bãi có  khẳ năng chống thấm. Rác thải sẽ được chôn lấp theo phương thức lấp đầy. - Bãi chôn lấp kết hợp chìm nổi: là loại bãi xây dựng nửa chìm nửa nổi,   chất thải không chỉ  được chôn lấp đầy hố  mà sau đó tiếp tục được chất đống  lên trên. Bãi chôn lấp dạng này tiết kiệm nhiều diện tích và có nhiều ưu điểm.  Nguyên tắc vận hành - Toàn bộ  rác chôn lấp được đổ  thành từng lớp riêng rẽ. Độ  dày của mỗi  lớp không quá 60 cm - Khi các lớp rác đã  dầm nén xong và gò rác đạt được độ cao thích hợp thì  phủ một lớp đất hoặc vật liệu tương tự khác dày khoảng 10­15 cm. - Rác cần được phủ  đất sau 24 tiếng vận hành, không được để  quá thời   gian quy định - Tiến hành những biện pháp phòng ngừa để  đảm bảo sâu bọ  không thể  sống trong bãi được. - Cần đào tạo và có được đầy đủ số lượng công nhân.  Phương pháp vận hành bãi chôn lấp Thực tế việc đổ rác, đầm nén và phủ bãi có thể được tiến hành theo một  vài   cách.   Sự   quyết   định   áp   dụng   phương   pháp   vận   hành   bãi   phụ   thuộc   vào  phương pháp chôn lấp, phụ  thuộc vào khả  năng tiếp cận vùng đổ  của phương  tiện đổ rác và thiết bị đang được sử dụng tại bãi.  Ở  những bãi áp dụng phương pháp mương rãnh, xe ô tô có thể  đi trên   những ô rác đã được đầm nén và đổ rác xuống bề mặt noi làm việc. Việc phát triển hệ thống ô rác phải theo ý đồ thiết kế ban đầu và sau đó   thực hiện từng bước sao cho toàn bộ kế hoạch được thực hiện đầy đủ. Khi công  việc trong ngày kết thúc bề mặt đổ rác sẽ được đầm nén và phủ một lớp đất và  sau đó đầm nén lần nữa. Ngày hôm sau, ô rác tạo thành từ ngày hôm trước có thể  đóng vai trò như một bức tường riêng rẽ cho bề mặt làm việc mới. I.2.2. Thiêu đốt Quá trình chuyển đổi được sử dụng để thu giảm thể tích và khối lượng của chất  thải, thu hồi các sản phẩm chuyển đổi và thu hồi năng lượng. Các thành phần hữu cơ  của chất thải  đô thị  có thể  chuyển  đổi bằng nhiều  phương pháp, cả  hóa học và sinh học. Phương pháp chuyển đổi chung nhất được sử  dụng là thiêu đốt và phương pháp này có thể làm giảm thể tích của chất thải xuống từ  85­95%, thậm chí tới 99%. Các quá trình chuyển đổi chất thải bằng phương pháp thiêu đốt: 10
  11. Mô tả quá trình thiêu đốt: Trước hết, chất thải được đổ từ  các xe thu gom vào khoang chứa chất thải của   lò đốt. Thông thường, khoang chứa chất thải có thể chứa đủ cho 2 ngày làm việc của lò.   Cầu trục có nhiệm vụ  cấp chất thải theo mẻ  vào khoang đốt của lò. Chất thải được  đưa tới ghi lò và được đốt cháy tại đó. Các chất khí có chứa các hạt bụi hữu cơ tiếp tục   được đốt trong buồng thứ  cấp tới nhiệt độ  1600oC. Nhiệt được thu hồi qua hệ  thống   trao đổi nhiệt của lò hơi.Các thiết bị xử lý khí bao gồm vòi phun NH 3 để  khử  NOx, bộ  lọc khô cho SO2 và thiết bị lọc túi. Khói lò sau khi đã được lọc sẽ được quạt hút ra ngoài   qua ống khói. Tro và xỉ được thải qua ghi lò. I.2.3. Phương pháp vi sinh Mục đích chung của quá trình sản xuất phân vi sinh: - Chuyển đổi các chất hữu cơ dễ phân pủy bằng sinh học thành các chất ổn định sinh học  và làm giảm thể tích ban đầu của chất thải. - Tiêu diệt các tác nhân bệnh, các trứng côn trùng, các sinh vật không mong muốn và các   hạt cỏ dại. - Duy trì hàm lượng chất dinh dưỡng tối đa N, P, K. - Sản xuất ra các sản phẩm sử  dụng giúp cho cây trồng trưởng thành và đất thêm màu  mỡ. Mô tả quá trình: Quá trình chế biến phân vi sinh luôn xuất hiện trong thiên nhiên. Phương pháp đơn giản nhất là ủ thành luống dưới độ sâu từ  2 đến 3 ft cùng với  phân súc vật, đất, cỏ,... Trong suốt quá trình ủ chỉ  đảo 2 lần. Thời gian cho mỗi mẻ có  thể  kéo dài từ  6 tháng hoặc lâu hơn. Thông thường, thời gian  ủ  phân vi sinh theo công  nghệ  hiện đại kéo dài khoảng 4 đến 5 tuần. Thời gian đảo trộn 2 lần trong 1 tuần.   Trong thời gian này, thành phần dễ phân hủy sinh học sẽ được phân hủy bởi nhiều loại   vi sinh vật khác nhau. I.3. Các ưu, nhược điểm của phương pháp chôn lấp rác hợp vệ sinh Phương pháp chôn lấp rác hợp vệ sinh có ưu điểm: - Chi phí đầu tư thấp so với các phương pháp xử lý chất thải rắn - Sau một thời gian 5­10 năm lúc đất được lấp đầy có thể xây dựng các công trình trên đó. Nhược điểm của phương pháp là: 11
  12. - Đòi hỏi diện tích đất nhiều hơn so với các phương pháp khác - Có thể gây ô nhiễm nước ngầm - Khi rác không được kiểm soát thoát khỏi bãi gây mùi hôi. Sản sinh khí metan từ quá trình  phân giải yếm khí các chất hữu cơ. Khí này có thể thoát ra và gây nổ. - Nhân dân địa phương có thể phản đối việc xây dựng bãi chôn lấp gần nơi họ sinh sống. Ngày nay, nhiều công nghệ  được sử  dụng nhằm hạn chế  các nhược điểm của   phương pháp này như: Hút rác bằng chân không kết hợp với phân loại để tái chế, giảm  bớt diện tích chưa rác; đặt các ống khí thoát khí metan ra khí quyển, hoặc thu gom làm  nhiên liệu cho các nhà ở gần. CHƯƠNG II: KỸ THUẬT CHÔN LẤP RÁC HỢP VỆ SINH VÀ CÁC YẾU TỐ CẦN  XEM XÉT KHI LỰA CHỌN BÃI CHÔN LẤP II.1. Kỹ thuật chôn lấp rác hợp vệ sinh II.1.1. Khái niệm Chôn lấp rác hợp vệ  sinh là một phương pháp kiểm soát sự  phân hủy của chất   thải rắn khi chúng được chôn nén và phủ lấp bề mặt. Chất thải rắn trong bãi chôn lấp  sẽ bị tan rữa nhờ quá trình phân hủy sinh học bên trong để tạo ra sản phẩm cuối cùng là  các chất giàu dinh dưỡng như axit hữu cơ, nito, các hợp chất amon và một số  khí như  CO2, CH4. Như  vậy về  thực chất chôn lấp hợp vệ  sinh chất thải rắn vừa là phương   pháp tiêu hủy sinh học vừa là biện pháp kiểm soát các thong số chất lượng môi trường   trong quá trình phân hủy chất thải khi chôn lấp. [2] II.1.2. Điều kiện chôn lấp các loại chất thải rắn tại bãi chôn lấp Chất thải rắn được chấp nhận chôn lấp tại bãi chôn lấp hợp vệ  sinh là tất cả  các loại chất thải không nguy hại, có khả  năng phân hủy tự  nhiên theo thời gian bao  gồm: - Rác thải gia đình - Rác thải chợ, đường phố - Giấy, bìa, cành cây nhỏ và lá cây - Tro, củi gỗ mục, vải, đồ da (trừ phế thải da có chứa crom) - Rác thải từ văn phòng, khách sạn, nhà hang ăn uống 12
  13. - Phế  thải sản xuất không nằm trong danh mục rác thải nguy hại từ  các  ngành công nghiệp (chế  biện lương thực, thực phẩm, thực sản, rượu bia giải   khát, giấy, giày, da…) - Bùn sệt thu được từ các trạm xử lý nước (đô thị và công nghiệp) có cặn  khô lớn hơn 20%. - Phế thải nhựa tổng hợp - Tro xỉ không chứa các thành phần nguy hại được sinh ra từ quá trình đốt  rác thải. - Tro xỉ từ quá trình đốt nhiên liệu II.1.3. Trình tự thiết kế bãi chôn lấp II.1.3.1. Các tài liệu cần thiết cho công việc thiết kế Các tài liệu ban đầu cần thiết cho công việc thiết kế bao gồm: - Các tài liệu về quy hoạch đô thị - Các tài liệu về  dân số, điều kiện tự  nhiên – xã hội hiện trạng và định   hướng phát triển trong tương lai - Các tài liệu về địa hình, địa chất công trình, thủy văn, điều kiện khí hậu  của khu vực - Các tài liệu có lien quan khác II.1.3.2. Các công trình chủ yếu Các công việc thiết kế  cơ  bản của một bãi chôn lấp chất thải rắn của bất kỳ  một đô thị nào cũng phải bao gồm : - Dọn mặt bằng - Định hướng nước chảy - Lót đáy (lớp chống thấm) - Đường ra vào - Rào chắn, biển hiệu - Hình thành đê, kè - Hệ thống thu gom nước rác và khí ga - Nơi vệ sinh gầm xe 13
  14. - Các công trình phục vụ : văn phòng, nhà kho, hệ  thống điện nước, công  trình phong hỏa, trạm máy phát, nơi bảo dưỡng thiết bị, trạm cân… II.1.4. Kỹ thuật vận hành bãi chôn lấp II.1.4.1. Phương pháp bề mặt Bản chất của phương pháp này là trải những lớp rác dày 40­80 cm lên mặt đất  phẳng, đầm nén nó và tiếp tục trải những đợt khác lên trên. Cuối ngày hoặc khi lớp rác  dày 2­2,2m thì phủ một lớp đất dày từ 10­60cm lên trên rồi lại đầm nén. Một lớp hoàn  chỉnh như  vậy gọi là ô rác. Thông thường một con đập bằng đất được làm để  rác đổ  xuống tỳ vào và để dễ dàng đầm nén rác sau đó. Phương pháp đổ  bề  mặt thường được sử  dụng  ở  những nơi có địa hình bằng  phẳng và ít nguy hiểm đến nguồn nước ngầm. Phương pháp này là phương pháp kinh tế  nhất chỉ yêu cầu đào để có đủ lượng đất phủ. Phương pháp bề mặt thường sử dụng bờ,   đập nhân tạo để rác tỳ vào. Với phương pháp này, sự di chuyển của xe thu gom và thiết   bị  bãi dễ  dàng và an toàn. Các gò rác của phương pháp này thường có độ  cao 15m, dễ  dàng cho việc thoát tán khí metan qua bề mặt nên có thể  không cần có thiết bị  thu gom  khí ga. II.1.4.2. Phương pháp mương rãnh Rác được đổ  vào những mương đào. Vật liệu phụ  lấy từ  đất đào mương lên.  Phương pháp này được vận hành cho đến khi đạt được độ  cao mong muốn (thường la   đến đỉnh của mương đào) mương phải đủ  dài cho xe có thể  đi lại và rác được đổ  dễ  dàng và đủ hẹp để có thể đổ rác được đầy mương vào cuối ngày Nếu các mương được đào thành các hang vuông góc với hướng gió thì sẽ  làm   giảm lượng rác thải bay bừa bãi bởi gió. Đất đào có thể sử dụng làm bờ thềm tạm thời   trên mặt mương để  định hướng dòng nước chảy bề  mặt. Đất có sét không thấm nước   và mạch nước ngầm thấm là thích hợp đối với phương pháp mương rãnh. Độ  sâu của  mương  tùy thuộc vào các   điều kiện  địa  chất của  đất và  mạch  nước ngầm. Thông  thường độ sâu của mương khoảng 4­5m. Quá trình vận hành của phương pháp mương rãnh đắt hơn nhiều so với phương   pháp bề mặt do chi phí do việc đào mương và sử dụng thiết bị chuyên dung. Một chi phí   khác nữa là việc vận chuyển đất thừa được đào lên (cứ  1000m2 đất được đào thì phải  chuyên chở đi 800m3 đất thừa). 14
  15. II.1.4.3. Phương pháp hồ chứa (lợi dụng hiện tượng sụt lún) Đây là phương pháp sử  dụng những hố  nhân tạo hoặc tự  nhiên cho hoạt động  chôn lấp rác (Ví dụ: hố đã khai thác đất, khai thác mỏ…). Phương pháp hồ chứa thường   sử dụng bề mặt đất tự nhiên. Việc đổ  rác bắt đầu từ  độ  cao của hố  và kết thúc  ở  đầu thấp để  tránh ứ  đọng   nước và tạo một đập tự  nhiên cho đống rác tỳ  vào để  bắt đầu đầm nén. Hố  đổ  rác   thường thấp hơn so với địa hình xung quanh nên gặp rất nhiều khó khăn cho việc kiểm  soát nước bề  mặt. Các hố  khai thác thường thiếu vật liệu phủ nên sự  có sẵn vật liệu   phủ là mối quan tâm chính khi chọn bãi chôn lấp phế thải theo phương pháp này. II.2. Các yếu tố cần xem xét khi lựa chọn bãi chôn lấp II.2.1. Quy mô bãi Quy mô bãi chôn lấp chất thải phụ  thuộc vào quy mô của đô thị  như  dân số,   lượng rác thải phát sinh, đặc điểm rác thải… Có thể  căn cứ  vào đặc điểm đô thị  Việt   Nam có tính đến khả năng phát triển đô thị để phân loại quy mô bãi và có thể tham khảo   theo bảng 2.1. Bảng 2.1: Phân loại quy mô bãi chôn lấp chất thải rắn đô thị [2] Dân số Lượng chất thải  Diện tích  Thời hạn sử  T Quy mô bãi chôn  (ngàn  rắn bãi dụng T lấp người) (tấn/ năm) (ha) (năm) 1 Loại nhỏ 5­10 20.000 5  1.000 > 200.000 > 50 Nguồn: Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT­BKHCNMT­BXD, ngày 18/01/2001 hướng dẫn các quy định về bảo vệ  môi trường đối với việc lựa chọn địa điểm, xây dựng và vận hành chất thải rắn II.2.2. Vị trí 15
  16. Vị trí bãi chôn lấp phải gần nơi sản sinh chất thải, nhưng phải có khoảng cách   thích hợp với những vùng dân cư gần nhất. Các yếu tố ảnh hưởng đến các vùng dân cư  này là loại chất thải (mức độ độc hại), điều kiện hướng gió, nguy cơ gây lụt lội… Cần   lưu ý thêm là bãi chôn lấp rất hấp dẫn với chim muông, một nguy cơ tiềm tàng đối với   máy bay thấp. Vì vậy, địa điểm các bãi chôn lấp cần phải xa các sân bay, là các nơi có   các khu vực đất trống vắng, tính kinh tế không cao. Vị trí bãi chôn lấp phải nằm trong tầm khoảng cách hợp lý, nguồn phát sinh rác   thải. Điều này tùy thuộc vào bãi đất, điều kiện kinh tế, địa hình, xe cộ thu gom rác thải.   Đường xá đi đến nơi thu gom rác thải phải đủ tốt và đủ chịu tải cho nhiều xe tải hạng   nặng đi lại trong cả  năm. Tác động của việc mở  rộng giao thông cũng cần được xem  xét. Bảng 2.2: Khoảng cách thích hợp khi lựa chọn bãi chôn lấp [3] Đặc điểm và quy  Khoảng cách tối thiểu từ vành đai công trình tới các bãi  Các công trình mô công trình chon lấp (m) Bãi chôn lấp vừa  Bãi chôn lấp rất  Bãi chôn lấp lớn và nhỏ lớn 1 2 3 4 5 Các thành phố, thị  Đô thị 3000­5000 5000­15000 15000­30000 xã, thị trấn, thị tứ… Sân bay, các khu  Từ quy mô nhỏ đến  công nghiệp, hải  1000­2000 2000­3000 3000­5000 lớn cảnh Cụm dân cư ở  đồng bằng và  ≤15 hộ trung du Cuối hướng gió  ≤1000 ≤1000 ≤1000 chính Các hướng khác ≤300 ≤300 ≤300 Cụm dân cư ở  Theo khe núi (có  3000­5000 >5000 >5000 miền núi dòng chảy xuống) Không cùng khe núi Không quy định Không quy định Không quy định Công trình khai  Công suất 100 >500 thác nước ngầm m3/ng Q 100 >500 >1000 Q >10.000 m3/ng >5000 >1000 >5000 Nguồn: Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT­BKHCNMT­BXD, ngày 18/01/2001 hướng dẫn các quy định về bảo vệ  môi trường đối với việc lựa chọn địa điểm, xây dựng và vận hành chất thải rắn 16
  17. Cần đặc biệt lưu ý các vẫn đề sau: - Bãi chôn lấp chất thải hợp vệ sinh không được đặt tại các khu ngập lụt. - Không được đặt vị  trí bãi chôn lấp chất thải hợp vệ  sinh  ở  những nơi có tiềm năng  ngước ngầm lớn. - Bãi chôn lấp chất thải hợp vệ sinh phải có một vùng đệm rộng ít nhất 50m cách biệt   với bên ngoài. Bao bọc bên ngoài vùng đệm hàng rào bãi. - bãi chôn lấp chất thải hợp vệ  sinh phải hòa nhập với cảnh quan môi trường tổng thể  trong vòng bán kính 1.000m.  II.2.3. Địa chất công trình và thủy văn Địa chất tốt nhất là có lớp đã nền chắc và đồng nhất, nên tránh vùng đá vôi và   tránh các vết nứt kiến tạo, vùng đất dễ bị rạn nứt. Nếu lớp đã nền có nhiều vết nứt và  vỡ tổ ong thì điều cực kỳ quan trọng là đảm bảo lớp phủ bề mặt phải dày và thẩm thấu   chậm. Việc lựa chọn vật liệu phủ bề mặt phù hợp là rất cần thiết trong suốt thời gian   hoạt động của bãi thải. Đất cần phải mịn để  làm chậm quá trình rò rỉ. Hàm lượng sét   trong đất càng cao càng tốt để  tạo ra khả  năng hấp thụ  cao và thẩm thấu chậm. Hỗn  hợp giữa đất sét bùn và cát là lý tưởng nhất. Không nên sử dụng cát sỏi và đất hữu cơ.   Dòng chảy nước mặt cần tập trung tại một nơi. Cần kiểm soát sự  chuyển dịch của   mạch nước ngầm và biết chắc chắn tất cả các giếng sử dụng làm nước uống khu vực. Khi xem xét cần sử  dụng bản đồ  địa chất, thủy văn, địa hình đồng thời tham  khảo ý kiến của cơ quan địa phương đang hoạt động trong lĩnh vực này. II.2.4. Những khía cạnh môi trường Quá trình phân hủy các hợp chất hữu cơ  tại bãi chôn lấp có thể  gây ra một số  nguy hại cho môi trường. Các nguy hại này bao gồm: - Tạo ra một số vật chủ trung gian gây bệnh như ruồi, muỗi, các loại côn trùng có cánh và  các loài gặm nhấm - Mang rác rưởi cuốn theo gió gây ô nhiễm cho các khu vực xung quanh - Gây các vụ cháy, nổ - Gây ô nhiễm nguồn nước 17
  18. Ngoài những yếu tố  đã nêu, cần xem xét thêm các tác động môi trường. Ví dụ  một bãi chôn lấp sẽ tạo ra bụi do xử lý và vùi lấp chất thải, chất thải tươi và sự  phân   hủy của nó tỏa ra mùi hôi thối. Gió có thể cuốn theo rác rưởi rơi vãi ra ngoài khu vực và   các phương tiện chuyên chở  cũng làm rơi vãi rác trong quá trình vận chuyển đến nơi  chôn lấp. Lưu lượng xe cộ tăng lên có thể gây ách tắc. Tiếng ồn và khí xả gây xáo trộn.   Điều quan trọng để chấp nhận đối với một bãi chôn lấp là cố  gắng bố trí bãi chôn lấp  xa khỏi tầm nhìn và xa các khu vực giải trí, địa điểm nên khuất gió và có hướng gió xa   hẳn khu dân cư. Một điều quan trọng nữa là bãi chôn lấp không ở gần các ngã tư đường  hoặc gìn giữ  khu vực sạch sẽ, đây là khả  năng đạt được kết quả  tốt nhất về  chi phí,   hiệu quả và làm giảm bớt sự phản kháng của công chúng. II.2.5. Các chỉ tiêu kinh tế Lựa chọn bãi chôn lấp phế thải còn phải chú ý đến kinh tế, cố  gắng giảm mọi  chi phí có thể được để đạt được yêu cầu về vốn đầu tư hợp lý nhưng không được giảm   nhẹ lợi ích công cộng và hiệu quả xã hội.   18
  19. CHƯƠNG III: TÍNH TOÁN, THIẾT KẾ BÃI CHÔN LẤP III.1. Tính toán lượng rác thải và quy mô bãi chôn lấp III.1.1. Dự đoán tốc độ tăng dân số Dựa vào tốc độ tăng dân số bình quân của Thành phố Đà Nẵng, đánh giá mức độ  tăng dân số của khu vực này. Dự báo tốc độ tăng dân số tự nhiên khoảng 2,96%/ năm [4]   và dân số thành thị  trung bình năm 2009 của Đà Nẵng là 777 nghìn người [4], phù hợp   với quy mô dân số theo đề tài đồ án được giao Dân số được dự báo theo công thức sau: Nn = Nn­1+Nn­1*K Trong đó: Nn: dân số dự báo ở năm cần tính Nn­1: số dân năm trước đó K: tỷ lệ tăng dân số bình quân III.1..2. Dự báo khối lượng chất thải rắn sinh hoạt bình quân đầu người Trong tương lai, việc dự  báo lượng rác bình quân của một người thải ra trong   ngày sẽ  dựa vào thu nhập bình quân trên đầu người của thành phố  Đà Nẵng. Với xu  19
  20. hướng phát triển như vậy, tương lai lượng rác thải phát sinh của thành phố  Đà Nẵng sẽ  giống với thành phố Hồ Chí Minh. Do đó, thành phố Hồ Chí Minh được chọn để so sánh  và tính toán dự báo lượng rác bình quân của một người thải ra trong ngày của thành phố  Đà Nẵng cho tương lai. Thu nhập bình quân hàng tháng của lao động khu vực Đà Nẵng năm 2010 là  2315,6 nghìn đồng tương đương với thu nhập bình quân hàng tháng của lao động khu  vực Hồ Chí Minh năm 2007 là 2415,2 nghìn đồng. Với sự so sánh trên, phương pháp tính   toán lượng rác bình quân của một người thải ra trong ngày trong tương lai của thành phố  Đà Nẵng như sau: - Trong năm 2007  ở  thành phố  Hồ  Chí Minh thu nhập bình quân trên đầu   người   là   2315,6   nghìn   đồng   và   lượng   rác   thải   sinh   hoạt   bình   quân   0,96   kg/người/ngày (bảng 1.1).   - Năm 2007 khối lượng rác thải sinh hoạt bình quân tại Đà Nẵng là 0,84   kg/người/ngày (bảng 1.1). Kết quả dự báo đến năm 2010 thu nhập bình quân trên   đầu người của thành phố Đà Nẵng sẽ 2315,6 nghìn đồng/tháng tức 3 năm sau sẽ  gần bằng với thu nhập bình quân của thành phố Hồ Chí Minh.  - Vậy 3 năm sau (năm 2010), lượng rác bình quân của một người thải ra   trong ngày của thành phố  Đà Nẵng sẽ  gần bằng với thành phố  Hồ  Chí Minh.   Lượng rác bình quân của một người thải ra của thành phố  Đà Nẵng tăng bình   quân 1 năm là: (0,96 – 0,84)/3 = 0,04 kg/người/ngày. Kết quả dự báo khối lượng   rác cho thấy khối lượng rác thải hằng năm càng tăng lên cùng với sự  phát triển   của xã hội. Do đó, đòi hỏi phải có cái nhìn khác về rác thải và sự quan tâm đầu  tư đúng mức của các cấp chính quyền. III.1.3. Tính toán diện tích bãi chôn lấp Theo Báo cáo Môi trường Quốc gia 2011 (bảng1.4), tỷ lệ thu gom CTR sinh hoạt   tại Đà Nẵng là 90%.  Dựa vào tốc độ tăng dân số là khối lượng rác bình quân đầu người tại thành phố  Đà Nẵng, ta tính được tổng lượng rác thải phát sinh trong một năm theo công thức: Lượng rác thải một năm = số dân*lượng rác phát thải Tổng lượng rác 20 năm sẽ bằng tổng lượng rác qua các năm (2016­2035) 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2