intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đổi mới chương trình đào tạo giáo viên theo định hướng phát triển năng lực

Chia sẻ: ViSasuke2711 ViSasuke2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

87
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đổi mới chương trình đào tạo giáo viên theo định hướng phát triển năng lực là một trong những nhiệm vụ rất quan trọng và cấp bách đối với Trường Đại học Sư phạm Hà Nội trong giai đoạn mới nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục Việt Nam trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đổi mới chương trình đào tạo giáo viên theo định hướng phát triển năng lực

JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE<br /> Educational Sci., 2016, Vol. 61, No. 8A, pp. 60-68<br /> This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br /> <br /> DOI: 10.18173/2354-1075.2016-0130<br /> <br /> ĐỔI MỚI CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN<br /> THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC<br /> Đặng Văn Đức<br /> <br /> Khoa Địa lí, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội<br /> Tóm tắt. Đổi mới chương trình đào tạo giáo viên theo định hướng phát triển năng lực là<br /> một trong những nhiệm vụ rất quan trọng và cấp bách đối với Trường Đại học Sư phạm<br /> Hà Nội trong giai đoạn mới nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới căn bản và toàn<br /> diện nền giáo dục Việt Nam trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc<br /> tế.<br /> Từ khóa: Đổi mới, Chương trình đào tạo, giáo viên, năng lực sư phạm.<br /> <br /> 1.<br /> <br /> Mở đầu<br /> <br /> Trong những thập kỉ gần đây, đổi mới chương trình đào tạo giáo viên theo định hướng phát<br /> triển năng lực đang được nghiên cứu và triển khai mạnh mẽ ở nhiều quốc gia trên thế giới. “Giáo<br /> dục dựa trên năng lực đã trở thành một chủ đề nóng trong giáo dục đại học và ngày càng trở nên<br /> phổ biến như là tìm kiếm cách để cải thiện khả năng hoàn thành và đo lường chính xác hơn kết quả<br /> học tập của sinh viên. Nó có vẻ đáng giá để xác định những gì dựa trên năng lực học tập và làm<br /> thế nào nó có thể đem lại lợi ích cho giáo dục đại học” (Dr. Robert Mendenhall).<br /> Nghị quyết số 29-NQ/TW của Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương khóa XI về<br /> đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa<br /> trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế: “Tiếp tục đổi<br /> mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển<br /> phẩm chất, năng lực của người học”.<br /> Trong thời gian qua Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã có nhiều đổi mới về chương trình,<br /> nội dung, phương pháp dạy học, kết hợp chặt chẽ với các trường phổ thông qua các đợt thực tế,<br /> thực tập sư phạm nhằm nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên, góp phần tích cực vào quá trình đổi<br /> mới nền giáo dục nước nhà. Tuy nhiên, quá trình đổi mới phương pháp giáo dục của nhà trường<br /> vẫn chưa tiến kịp yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kì công nghiệp hoá,<br /> hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.<br /> Vì vậy, đổi mới đào tạo giáo viên theo định hướng phát triển năng lực sư phạm nhằm đáp<br /> ứng yêu cầu xã hội và đổi mới giáo dục phổ thông là nhiệm vụ rất quan trọng và cấp thiết đối với<br /> Trường Đại học Sư phạm Hà Nội trong giai đoạn mới.<br /> Ngày nhận bài: 15/7/2016. Ngày nhận đăng: 20/9/2016<br /> Liên hệ: Đặng Văn Đức, e-mail: dangvanduchnue@gmail.com<br /> <br /> 60<br /> <br /> Đổi mới chương trình đào tạo giáo viên theo định hướng phát triển năng lực<br /> <br /> 2.<br /> 2.1.<br /> <br /> Nội dung nghiên cứu<br /> Khái niệm năng lực và năng lực sư phạm<br /> <br /> 2.1.1. Khái niệm năng lực<br /> Năng lực là một thuật ngữ được sử dụng cả trong khoa học và trong ngôn ngữ hàng ngày.<br /> Khái niệm năng lực (Competency) có nguồn gốc tiếng la tinh “Competentia”. Ngày nay khái niệm<br /> năng lực được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Năng lực được hiểu như sự thành thạo, khả năng<br /> thực hiện của cá nhân đối với một công việc.<br /> - Theo John Erpenback, “Năng lực được tri thức làm cơ sở, được sử dụng như khả năng,<br /> được quy định bởi giá trị, được tăng cường qua kinh nghiệm và được hiện thực hóa qua ý chí”.<br /> - Năng lực là những kĩ năng và kĩ xảo học được hoặc sẵn có của cá thể nhằm giải quyết các<br /> tình huống xác định, cũng như sự sẵn sàng về động cơ, xã hội... và khả năng vận dụng các cách<br /> giải quyết vấn đề một cách có trách nhiệm và hiệu quả trong những tình huống linh hoạt (Weinert<br /> 2001).<br /> - Ủy ban châu Âu (Cedefop 2008) định nghĩa kĩ năng và năng lực như sau: kĩ năng là khả<br /> năng thực hiện nhiệm vụ và giải quyết các vấn đề trong khi năng lực là khả năng áp dụng kết quả<br /> học tập. Do đó, năng lực là một khái niệm rộng lớn hơn mà thực sự có thể bao gồm các kĩ năng<br /> (cũng như thái độ, kiến thức v.v. . . ), kĩ năng và năng lực thế kỉ XXI là những yêu cầu đối với người<br /> trẻ tuổi phải có để làm việc hiệu quả của một công dân trong xã hội tri thức của thế kỉ XXI [16].<br /> - Có nhiều loại năng lực khác nhau: Năng lực chuyên môn; năng lực phương pháp; năng lực<br /> xã hội; năng lực cá thể. Các thành phần năng lực này “gặp” nhau tạo thành năng lực hành động.<br /> <br /> Hình 1. Mô hình năng lực [5]<br /> Từ cấu trúc của khái niệm năng lực cho thấy giáo dục định hướng phát triển năng lực không<br /> chỉ nhằm mục tiêu phát triển năng lực chuyên môn bao gồm tri thức, kĩ năng mà còn phát triển<br /> năng lực phương pháp, năng lực xã hội và năng lực cá thể. Những năng lực này không tách rời<br /> nhau mà có mối quan hệ chặt chẽ. Năng lực hành động được hình thành trên cơ sở có sự kết hợp<br /> các năng lực này.<br /> Năng lực hành động là khả năng thực hiện có hiệu quả và có trách nhiệm các hành động<br /> giải quyết các nhiệm vụ, vấn đề thuộc các lĩnh vực nghề nghiệp, xã hội hay cá nhân trong những<br /> tình huống khác nhau trên cơ sở hiểu biết, kĩ năng, kĩ xảo và kinh nghiệm cũng như sự sẵn sàng<br /> hành động. Dưới đây là mô hình bốn thành phần năng lực phù hợp với bốn trụ cột giáo dục của thế<br /> kỉ XXI theo UNESCO:<br /> 61<br /> <br /> Đặng Văn Đức<br /> <br /> Hình 2. Mô hình bốn thành phần năng lực<br /> <br /> 2.1.2. Khái niệm về năng lực sư phạm<br /> Năng lực sư phạm là một khái niệm quan trọng trong đào tạo giáo viên ở các trường Đại<br /> học và Cao đẳng sư phạm.<br /> "Năng lực sư phạm là khả năng và ý chí của giáo viên thường xuyên áp dụng kiến thức, kĩ<br /> năng và thái độ để phát huy học tập của học sinh trong các cách tốt nhất. Điều này sẽ diễn ra theo<br /> các mục tiêu đang được nhắm vào các khuôn khổ hiện tại, bao hàm sự phát triển liên tục các năng<br /> lực của giáo viên vào thiết kế khóa học" (Giertz, 2003, p.94).<br /> "Năng lực sư phạm ngụ ý rằng các giáo viên từ các mục tiêu rõ ràng và các khuôn khổ,<br /> thông qua phát triển liên tục của việc dạy và phát triển nghề nghiệp cá nhân, hỗ trợ và tạo điều<br /> kiện học tập của học sinh một cách tốt nhất. Năng lực sư phạm này cũng phản ánh năng lực của<br /> giáo viên liên quan đến sự hợp tác, nhìn toàn diện và đóng góp vào sự phát triển của phương pháp<br /> sư phạm cho giáo dục đại học" (Ryeg˚ard, 2008, p. 9).<br /> Cả hai định nghĩa thể hiện giá trị nền tảng phổ biến và khao khát bao trùm sự phức tạp của<br /> năng lực sư phạm. Những gì họ thể hiện như là rõ ràng những yêu cầu đối với khả năng của giáo<br /> viên để phát triển với sự hỗ trợ của lí thuyết và thực tiễn giảng dạy của họ.<br /> Tuy nhiên, trong cả hai trường hợp, nó có thể được hiểu từ các tiêu chí mà giáo viên phải<br /> có một thái độ học thuật hướng tới việc dạy và học. Các tiêu chí năng lực sư phạm của giáo viên<br /> được đánh giá trên các mặt: 1. Thái độ; 2. Kiến thức; 3. Khả năng; 4. Thích ứng với tình hình; 5.<br /> Nỗ lực; 6. Liên tục phát triển; 7. Một tích hợp toàn bộ [4, 5, 15].<br /> <br /> 2.2.<br /> <br /> Chương trình giáo dục định hướng phát triển năng lực [1, 3, 13]<br /> <br /> Chương trình giáo dục định hướng phát triển năng lực, còn gọi là dạy học định hướng kết<br /> quả đầu ra được bàn đến từ những năm 90 của thế kỉ XX và ngày nay đã trở thành xu hướng giáo<br /> dục quốc tế. Giáo dục định hướng năng lực nhằm mục tiêu phát triển năng lực người học.<br /> Giáo dục định hướng năng lực nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra của việc dạy học, thực hiện<br /> mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú trọng năng lực vận dụng tri thức trong<br /> 62<br /> <br /> Đổi mới chương trình đào tạo giáo viên theo định hướng phát triển năng lực<br /> <br /> những tình huống thực tiễn nhằm chuẩn bị cho con người năng lực giải quyết các tình huống của<br /> cuộc sống và nghề nghiệp. Chương trình này nhấn mạnh vai trò của người học với tư cách chủ thể<br /> của quá trình nhận thức.<br /> Khác với chương trình định hướng nội dung, chương trình dạy học định hướng năng lực tập<br /> trung vào việc mô tả chất lượng đầu ra, có thể coi là “sản phẩm cuối cùng” của quá trình dạy học.<br /> Việc quản lí chất lượng dạy học chuyển từ việc điều khiển “đầu vào” sang “điều khiển đầu ra”, tức<br /> là kết quả học tập của học sinh.<br /> Chương trình dạy học định hướng năng lực không quy định những nội dung dạy học chi tiết<br /> mà quy định những kết quả đầu ra mong muốn của quá trình giáo dục, trên cở sở đó đưa ra những<br /> hướng dẫn chung về việc lựa chọn nội dung, phương pháp, tổ chức và đánh giá kết quả dạy học<br /> nhằm đảm bảo thực hiện được mục tiêu dạy học tức là đạt được kết quả đầu ra mong muốn. Trong<br /> chương trình định hướng năng lực, mục tiêu học tập, tức là kết quả học tập mong muốn thường<br /> được mô tả chi tiết và có thể quan sát, đánh giá được thông qua hệ thống các năng lực. Học sinh<br /> cần đạt được những kết quả yêu cầu đã quy định trong chương trình. Việc đưa ra các chuẩn đào tạo<br /> cũng là nhằm đảm bảo quản lí chất lượng giáo dục theo định hướng kết quả đầu ra. Ưu điểm của<br /> chương trình giáo dục định hướng năng lực là tạo điều kiện quản lí chất lượng theo kết quả đầu ra<br /> đã quy định, nhấn mạnh năng lực vận dụng của học sinh. Tuy nhiên nếu vận dụng một cách thiên<br /> lệch, không chú ý đầy đủ đến nội dung dạy học thì có thể dẫn đến các lỗ hổng tri thức cơ bản và<br /> tính hệ thống của tri thức. Ngoài ra chất lượng giáo dục không chỉ thể hiện ở kết quả đầu ra mà<br /> còn phụ thuộc quá trình thực hiện.<br /> Sau đây là bảng so sánh một số đặc trưng cơ bản của chương trình định hướng nội dung và<br /> chương trình định hướng năng lực:<br /> Các yếu tố<br /> Mục tiêu<br /> giáo dục<br /> Nội dung<br /> giáo dục<br /> <br /> Chương trình định hướng nội dung<br /> Mục tiêu dạy học được mô tả không<br /> chi tiết và không nhất thiết phải quan<br /> sát, đánh giá được.<br /> Việc lựa chọn nội dung dựa vào các<br /> khoa học chuyên môn, không gắn<br /> với các tình huống thực tiễn. Nội<br /> dung được quy định chi tiết trong<br /> chương trình.<br /> <br /> Phương<br /> pháp dạy<br /> học<br /> <br /> Giáo viên là người truyền thụ tri<br /> thức, là trung tâm của quá trình dạy<br /> học. Học sinh tiếp thu thụ động<br /> những tri thức được quy định sẵn.<br /> <br /> Hình thức<br /> dạy học<br /> <br /> Chủ yếu dạy học lí thuyết trên lớp<br /> học.<br /> <br /> Đánh giá<br /> kết quả học<br /> tập của học<br /> sinh<br /> <br /> Tiêu chí đánh giá được xây dựng chủ<br /> yếu dựa trên sự ghi nhớ và tái hiện<br /> nội dung đã học.<br /> <br /> Chương trình định hướng năng lực<br /> Kết quả học tập cần đạt được mô tả chi tiết và có<br /> thể quan sát, đánh giá được; thể hiện được mức độ<br /> tiến bộ của học sinh một cách liên tục<br /> Lựa chọn những nội dung nhằm đạt được kết quả<br /> đầu ra đã quy định, gắn với các tình huống thực<br /> tiễn. Chương trình chỉ quy định những nội dung<br /> chính, không quy định chi tiết.<br /> - Giáo viên chủ yếu là người tổ chức, hỗ trợ học<br /> sinh tự lực và tích cực lĩnh hội tri thức. Chú trọng<br /> sự phát triển khả năng giải quyết vấn đề, khả năng<br /> giao tiếp,. . .<br /> - Chú trọng sử dụng các quan điểm, phương pháp<br /> và kĩ thuật dạy học tích cực; các phương pháp dạy<br /> học thí nghiệm, thực hành.<br /> Tổ chức hình thức học tập đa dạng; chú ý các hoạt<br /> động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học, trải<br /> nghiệm sáng tạo; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ<br /> thông tin và truyền thông trong dạy và học.<br /> Tiêu chí đánh giá dựa vào năng lực đầu ra, có tính<br /> đến sự tiến bộ trong quá trình học tập, chú trọng<br /> khả năng vận dụng trong các tình huống thực tiễn.<br /> <br /> 63<br /> <br /> Đặng Văn Đức<br /> <br /> 2.3.<br /> <br /> Đặc điểm chính của chương trình giáo dục phát triển năng lực [6, 7, 13]<br /> <br /> Giáo dục dựa trên năng lực kết hợp một cách tiếp cận có chủ định và minh bạch để thiết kế<br /> chương trình đào tạo với một mô hình học tập trong đó thời gian cần để chứng minh năng lực khác<br /> nhau và những kì vọng về việc học tập được tổ chức liên tục. Sinh viên tiếp thu và thể hiện kiến<br /> thức, kĩ năng của mình bằng cách tham gia vào các hoạt động học tập và kinh nghiệm phù hợp với<br /> kết quả chương trình xác định rõ ràng. Sinh viên được đánh giá dựa trên hiệu quả thực hiện mục<br /> tiêu của các chương trình. Sinh viên nhận được sự hướng dẫn chuyên sâu hơn và hỗ trợ từ giảng<br /> viên và các cố vấn, cũng như được tùy chọn tăng tốc nghiên cứu của họ để tiết kiệm thêm thời gian<br /> và tiền bạc. Các chương trình dựa trên năng lực được tạo ra làm tăng và nâng cao nhận thức trong<br /> giáo dục đại học.<br /> Đặc điểm quan trọng nhất của giáo dục dựa trên năng lực là biện pháp học tập chứ không<br /> phải là thời gian. Sinh viên tiến bộ bằng cách chứng minh năng lực của họ có nghĩa là họ chứng<br /> minh rằng họ đã làm chủ được kiến thức và kĩ năng (gọi là năng lực) cần thiết cho một khóa học<br /> đặc biệt bất kể phải mất bao lâu. Trong khi mô hình truyền thống có thể và thường xuyên đo lường<br /> năng lực của họ dựa trên thời gian đào tạo, các khóa học kéo dài khoảng bốn năm và sinh viên có<br /> thể được công nhận chỉ sau khi họ đã thực hiện đủ thời gian quy định. Trong khi giáo dục dựa trên<br /> năng lực là tốt hơn cho tất cả sinh viên, bởi vì nó cho phép họ nghiên cứu và học tập theo tốc độ<br /> của riêng mình. Nói một cách khác, giáo dục dựa trên năng lực sử dụng các chiến lược giảng dạy<br /> và học tập thuận lợi cho việc phát triển và trình diễn của năng lực.<br /> Deb Everhart (2014) đã chỉ ra ba đặc điểm chính của học tập dựa trên năng lực là:<br /> - Đặc điểm thứ nhất là lấy người học làm trung tâm: Đầu tiên và trước hết học tập dựa trên<br /> năng lực tập trung vào người học. Nó cung cấp cơ hội cho mỗi cá nhân để phát triển các kĩ năng<br /> theo tốc độ của riêng mình, cộng tác với những người khác thu thập chứng cứ của việc học và trở<br /> thành người học thành công suốt đời. Học tập dựa trên năng lực trao quyền cho người học.<br /> - Đặc điểm thứ hai là dựa trên kết quả học tập (kết quả đầu ra): Học tập dựa trên năng lực<br /> bắt đầu với kết quả học tập được xác định rõ.<br /> - Đặc điểm thứ ba là sự khác biệt: Sự khác biệt của học tập dựa trên năng lực đề cập đến<br /> thực hành nhận biết và điều chỉnh để đáp ứng nhu cầu của cá nhân người học. Sự khác biệt là đa<br /> dạng và áp dụng đối với người học hỗ trợ thông tin liên lạc và can thiệp quá trình học tập.<br /> Để thực thi có hiệu quả giáo dục dựa trên năng lực có thể cải thiện chất lượng và giảm chi<br /> phí, rút ngắn thời gian cần thiết để tốt nghiệp và cung cấp các biện pháp thực sự hiệu quả cho học<br /> tập của sinh viên. Chúng ta cần phải:<br /> 1. Chú ý đến biện pháp học tập của sinh viên chứ không phải là thời gian.<br /> 2. Khai thác sức mạnh của công nghệ thông tin để giảng dạy và học tập. Máy tính trung<br /> gian hướng dẫn cho chúng ta khả năng cá nhân hóa học tập cho mỗi sinh viên. Bởi vì mỗi sinh<br /> viên học với một tốc độ khác nhau và đến với đại học có những hiểu biết khác nhau đây là một yêu<br /> cầu cơ bản của giáo dục dựa trên năng lực.<br /> 3. Thay đổi cơ bản về vai trò giảng viên. Khi giảng viên là người tổ chức các lớp học theo<br /> lịch trình với tốc độ chung cho tất cả sinh viên thì đây sẽ là tốc độ không phù hợp, một số sẽ cần<br /> phải đi chậm hơn; những người khác sẽ có thể đi nhanh hơn nhiều. Học tập dựa trên năng lực làm<br /> thay đổi vai trò của các giảng viên từ chỗ của "một nhà hiền triết trên sân khấu" cho một "hướng<br /> dẫn trên lớp học" Giảng viên làm việc với sinh viên, hướng dẫn học tập trả lời câu hỏi thảo luận là<br /> chính, giúp sinh viên tổng hợp và áp dụng hiểu biết.<br /> 4. Xác định năng lực và phát triển đánh giá đáng tin cậy hợp lệ. Những tiền đề cơ bản của<br /> 64<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2