intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ebook Lịch sử Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì (1947-2017): Phần 1

Chia sẻ: Hoangnhanduc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:57

13
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ebook Lịch sử Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì (1947-2017): Phần 1 gồm các nội dung chính như sau: Hoàng Su Phì - mảnh đất, con người; nhân dân các dân tộc huyện Hoàng Su Phì thời kỳ đấu tranh giành chính quyền và kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954); đảng bộ huyện Hoàng Su Phì lãnh đạo nhân dân các dân tộc trong huyện đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội (1954 - 1965). Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ebook Lịch sử Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì (1947-2017): Phần 1

  1. ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ GIANG BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ HUYỆN HOÀNG SU PHÌ *** LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ HUYỆN HOÀNG SU PHÌ (1947 - 2017) ---o0o--- Hoàng Su Phì, xuất bản năm 2020 1
  2. LỜI GIỚI THIỆU Hoàng Su Phì là huyện vùng cao biên giới. Từ bao đời nay, nhân dân các tộc ở Hoàng Su Phì luôn luôn cần cù lao động xây dựng quê hương, đất nước và đã anh dũng trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc. Để giữ vững và phát huy phẩm chất quý báu đó của đồng bào dân tộc ở Hoàng Su Phì, nhất là trong điều kiện hiện nay, công tác giáo dục truyền thống cách mạng, xây dựng tình yêu quê hương, đất nước cho mọi người dân, đặc biệt là thanh thiếu niên là việc làm hết sức cần thiết và có tầm quan trọng đặc biệt. Đã hơn một thập kỷ trôi qua kể từ khi cuốn sách Lịch sử Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì (1947 - 2007) được xuất bản, để tiếp tục tuyên truyền truyền thống cách mạng của Đảng bộ huyện, Ban Thường vụ Huyện ủy Hoàng Su Phì đã quyết định tái bản có chỉnh lý, bổ sung và xuất bản cuốn sách Lịch sử Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì (1947 - 2017). Cuốn sách này được biên soạn trên cơ sở kế thừa cuốn sách Lịch sử Đảng bộ Hoàng Su Phì, sơ thảo (1947 - 1987) xuất bản năm 1988, cuốn Lịch sử Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì (1947 - 2000), xuất bản bản năm 2000, cuốn Lịch sử Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì (1947 - 2007) xuất bản năm 2007 và được biên soạn bổ sung giai đoạn tiếp theo từ năm 2007 đến năm 2017. Nội dung cuốn sách gồm 6 chương đã tái hiện một cách trung thực quá trình xây dựng và bảo vệ quê hương. Những thành quả mà Đảng bộ và nhân dân huyện Hoàng Su Phì giành được đã khẳng định sự đúng đắn của con đường cách mạng mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch ra. Đường lối đó đã được Đảng bộ tỉnh Hà Giang, Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì quán triệt thực hiện linh hoạt, sáng tạo phù hợp với điều kiện cụ thể trên địa bàn huyện. Truyền thống và kinh nghiệm là những tài sản tinh thần quý giá đối với quá trình phát triển trong sự nghiệp cách mạng của Hoàng Su Phì hôm nay và mai sau. Trong quá trình sưu tầm tài liệu, nghiên cứu, biên soạn cuốn sách, chúng tôi luôn nhận được sự quan tâm giúp đỡ của các đồng chí lão thành cách mạng, các đồng chí lãnh đạo các cấp, các ngành trong và ngoài huyện. Đến nay cuốn sách Lịch sử Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì (1947 - 2017) đã hoàn thành và ra mắt bạn đọc. Mặc dù tiểu ban nghiên cứu biên soạn đã có nhiều cố gắng, song do thời gian có hạn, việc sưu tầm tài liệu gặp khó khăn nên cuốn sách không sao tránh khỏi những thiếu sót. Ban Thường vụ Huyện ủy Hoàng Su Phì mong cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc trong huyện, cùng bạn đọc xa, gần đóng góp ý kiến để khi tái bản cuốn sách được hoàn chỉnh hơn. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc. T/M BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ HUYỆN HOÀNG SU PHÌ Bí thư VŨ MẠNH HÀ 2
  3. CHƯƠNG MỞ ĐẦU HOÀNG SU PHÌ MẢNH ĐẤT, CON NGƯỜI I. ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN Hoàng Su Phì là huyện vùng cao biên giới của tỉnh Hà Giang, cách thành phố Hà Giang 100 km về phía Tây. Phía Bắc giáp Trung Quốc; phía Tây giáp tỉnh Lào Cai (1945 - 1965), từ năm 1965 đến nay giáp huyện Xín Mần; phía Đông giáp huyện Vị Xuyên; phía Đông Nam và Nam giáp huyện Bắc Quang (1945 - 2003), từ năm 2004 đến nay giáp 2 huyện Bắc Quang và Quang Bình. Chiều dài của huyện từ thôn Giáp Trung, xã Thàng Tín đến thôn Nậm Mon, xã Thông Nguyên là 35,25 km; chiều rộng từ thôn Chà Hồ, xã Tả Sử Choóng đến thôn Hoàng Là Chải (Hoàng Lao Chải), xã Nàng Đôn là 21,6 km (tính theo đường chim bay)(1). Độ cao trung bình của huyện so với mặt biển là 900 m. Núi cao nhất là ngọn Tây Côn Lĩnh (2.427 m), núi Chiêu Lầu Thi (2.402 m). Huyện Hoàng Su Phì có 4 xã giáp với biên giới Trung Quốc đó là Bản Máy, Thàng Tín, Pố Lồ, Thèn Chu Phìn, với chiều dài 40,185 km (trong đó 36 cột mốc có 35 cột mốc chính và 1 cột mốc phụ trải dài từ điểm cao 1.660 xã Bản Máy đến điểm cao 2.047 xã Thèn Chu Phìn)(2). Địa hình của huyện có độ dốc lớn, tổng diện tích toàn huyện là 63.238,06 ha, chiếm 7,98% diện tích tự nhiên của tỉnh Hà Giang. Trong đó, đất nông nghiệp là 17.679,86 ha(3); đất lâm nghiệp 33.192,40 ha (rừng tự nhiên 17.771,19 ha, rừng trồng 15.421,20 ha); đất chuyên dùng 939,74 ha(4). Hoàng Su Phì nằm trên thượng nguồn sông Chảy và sông Bạc. Hệ thống lưu vực sông Chảy gồm các con suối chính: Hồ Thầu (đầu nguồn), Nặm Ai, Nặm Song, Nặm Dịch, Túng Sán, Thèn Chu Phìn, Nắm Ản, Bản Luốc, Sán Sả Hồ, Pờ Ly Ngài và Suối Đỏ. Tất cả các con suối hợp lại thành thượng nguồn sông Chảy, chảy theo hướng Tây sang Đông (Hồ Thầu - Nậm Dịch), Nam lên Bắc (Nậm Dịch - Vinh Quang), Đông sang Tây (Vinh Quang - Cốc Pài). Hệ thống lưu vực sông Bạc có các con suối: Nặm Ong, Tân Minh, Nặm Khòa (Hoàng Su Phì), Tiên Nguyên và Xuân Minh (Quang Bình) hợp lại thành sông Bạc chảy qua xã Tân Trịnh, huyện Quang Bình. Ngoài ra còn có rất nhiều khe suối nhỏ cứ bình quân 1.000 ha có 12 con suối với tổng chiều dài 717 km. Những con suối này hầu hết có độ dốc lớn, dòng chảy mạnh, cùng các hiện tượng thời tiết cực đoan đã tạo ra sự công phá ghê gớm. Do kết cấu kém bền vững của đất, kết hợp với địa hình có độ dốc cao nên hiện tượng xói mòn bào mặt đá, rãnh sâu là hiện tượng khá phổ biến. Hàng năm cứ 1 ha có 50 tấn đất bị cuốn trôi. Khí hậu của huyện được chia làm 2 mùa rõ rệt: Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau với hạn hán, rét đậm kéo dài, thỉnh thoảng có mưa tuyết. Sự khắc nghiệt của điều kiện tự nhiên đã trực tiếp gây khó khăn lớn và lâu dài cho nhân dân các dân tộc trong huyện trên các mặt sản xuất, sinh hoạt, an ninh, văn hóa... Đất đai, khí hậu Hoàng Su Phì phù hợp với một số cây trồng như chè, đậu tương, cây trúc và chăn nuôi đại gia súc. Cây ăn quả có cả loại ở vùng nhiệt đới lẫn ôn đới như: Lê, mận, đào, thảo quả... (1) . Theo số liệu năm 2017. (2) . Theo Quyết định số 225/QĐ-BCH ngày 11/2/2018 của Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Hà Giang. 3 Trong đó đất trồng cây hàng năm là 13.264,83ha, đất trồng cây lâu năm4.415,03 ha. (4) . Theo số liệu năm 2017. 3
  4. và cây dược liệu quý như tam thất, trong rừng còn có mộc nhĩ, nấm hương. Hoàng Su Phì còn có sản phẩm mật ong thơm ngon và hấp dẫn. Đầu những năm 2000, ở huyện Hoàng Su Phì vẫn còn một số động vật quý hiếm như gấu nhỏ, sơn dương, hươu, nai... Tuy nhiên, những năm gần đây do tác động từ môi trường, nhiều loài động vật trên đã không còn. Tại thị trấn Vinh Quang và xã Thông Nguyên có nguồn suối nước nóng có tác dụng điều trị và dưỡng bệnh. Ngoài sự trở ngại lớn cho giao thông, sản xuất, những con suối nhỏ đã góp phần tạo nên những thắng cảnh ở địa phương phù hợp với sự phát triển thủy điện nhỏ. Có thể nói, bên cạnh rất ít những thuận lợi, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt của Hoàng Su Phì gây nên trở ngại, khó khăn rất lớn cho huyện. Những khó khăn đó chính là những thử thách khốc liệt tạo nên nhiều tính cách đáng quý riêng biệt của người Hoàng Su Phì đã bao năm bám trụ nơi đây trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. II. TÌNH HÌNH XÃ HỘI Từ xa xưa, vùng đất huyện Hoàng Su Phì là đất thuộc huyện Bình Nguyên (Tuyên Quang). Đến cuối thời Lê, châu Bình Nguyên đổi là châu Vị Xuyên thuộc phủ Tương Yên, tỉnh Tuyên Quang. Đến năm Minh Mệnh thứ 16, chia phía tay phải đến Sông Lô làm huyện Vị Xuyên với 5 tổng, 31 xã. Dưới thời Pháp thuộc, ngày 20/8/1891, thực dân Pháp chia đạo quan binh thứ hai thành ba tỉnh: Hà Giang, Lạng Sơn, Cao Bằng. Ngày 24/5/1892, theo nghị định của Toàn quyền Đông Dương, thành lập Tiểu quân khu Hoàng Su Phì và được sáp nhập vào Đạo quan binh 3. Từ đây, Hoàng Su Phì chính thức có tên trên bản đồ Việt Nam. Ngày 5/5/1900, Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer lại ban hành một nghị định khác nhằm sửa đổi tổ chức các đạo quan binh: - Đạo quan binh 3 chỉ còn gồm 2 Tiểu quân khu là: Tiểu quân khu Hà Giang cũ, không có phân khu Hoàng Su Phì, nhưng sáp nhập thêm phân khu Làng Thát. Tiểu quân khu Bắc Quang: Tiểu quân khu Vĩnh Tuy cũ, sáp nhập thêm phân khu Hoàng Su Phì (không còn phân khu Vĩnh Tuy và các phân khu Làng That và Lục Yên Châu)(1). - Đạo quan binh 2 gồm có Tiểu quân khu Cao Bằng và Tiểu quân khu Bảo Lạc(2). Đến ngày 28/11/1905, Quyền Toàn quyền Đông Dương ban hành nghị định kể từ ngày 01/01/1906 thiết lập các trung tâm hành chính tại các Đạo quan binh 2,3 và 4. Theo đó, tại Đạo quan binh thứ 3 có thêm 4 trung tâm hành chính mới: 1. Đồng Văn (các tổng Đông Minh và Quang Mậu). 2. Quản Bạ (tổng Yên Bình). 3. Bắc Quang (các tổng Bằng Hành, Trinh Tương, Mục Hà và Tiên Yên). 4. Hoàng Su Phì (tổng Tụ Nhân). Về sau huyện Vị Xuyên lại được chia thành hai huyện: huyện Vị Xuyên và huyện Hoàng Su Phì. Từ năm 1925, Thống sứ Bắc Kỳ3 ra nghị định ngày 27/6/1925 gọi Hoàng 1 Ngày 28/2/1904, Toàn quyền Đông Dương lại ra nghị định xóa bỏ Tiểu quân khu Bắc Quang và sáp nhập vào Tiểu quân khu Hà Giang. Do đó, Đạo quan binh 3 chỉ còn 1 Tiểu quân khu Hà Giang bao gồm huyện Bắc Quang (vốn là huyện Vĩnh Tuy cũ ) và huyện Vị Xuyên. 2 Tiểu quân khu Bảo Lạc: Bao gồm bộ phận đất đai còn lại của phủ Tương Yên (sau khi lập lại tỉnh Tuyên Quang và tách huyện Vị Xuyên ra để thành lập Tiểu quân khu Hà Giang) và châu Chợ Rã tách từ tỉnh Bắc Cạn sang (3) . Chính quyền của Pháp 4
  5. Su Phì là châu Hoàng Su Phì; đồng thời lập thêm 2 xã: Bản Máy và Xín Mần thuộc châu Hoàng Su Phì. Trong danh mục làng xã Bắc Kỳ của Ngô Vi Liễn xuất bản năm 1928 thì Hà Giang có 2 châu và 2 đại lý sau: 2 châu: Bắc Quang và Vị Xuyên; 2 đại lý: Hoàng Su Phì (Hoàng Thu Bì), Đồng Văn và Hoàng Su Phì. Đại lý Hoàng Su Phì có 2 tổng: - Tổng Tụ Nhân: Bản Luốc, Ho Tao, Trung Thịnh, Tụ Nhân. - Tổng Xín Mần (Thành Môn): có Hữu Yên và Man Mây(1). Dưới chế độ mới của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 30/4/1962, một số xã của Huyện Hoàng Su Phì được chia thành nhiều xã nhỏ, trong đó xã Tụ Nhân được chia thành 5 xã (Tụ Nhân, Đản Ván, Thèn Chu Thùng, Pố Lồ, Chiến Phố), xã Bản Máy được chia thành 5 xã (Bản Phùng, Bản Máy, Bản Pắng, Nàn Xỉn, Thằng Tín), xã Chí Cà được chia thành 2 xã (Chí Cà, Pà Vầy Sủ). Đến ngày 13/12/1962, xã Thèn Chu Thùng được đổi tên thành xã Thèn Chu Phìn và chia các xã Trung Thịnh thành 6 xã (Việt Thái, Trung Thịnh, Ngán Chiên, Thu Tà, Nàng Đôn, Pờ Ly Ngài), xã Chế Là thành 4 xã (Cốc Rế,Tả Nhìu,Chế Là, Nắm Dẩn), xã Cốc Pài thành 3 xã (Cốc Pài, Nàn Ma, Bản Ngò). Tiếp đó, ngày 01/4/1965, huyện Hoàng Su Phì được chia thành 2 hai huyện: Hoàng Su Phì gồm 21 xã và huyện Xín Mần gồm 18 xã. Thực hiện Nghị quyết số 136/HĐBT ngày 18/11/1983, của Hội đồng bộ trưởng, xã Nàng Đôn, Trung Thịnh của huyện Hoàng Su Phì được tách ra,nhập vào huyện Xín Mần; xã Bản Máy (huyện Xín Mần), xã Thông Nguyên, xã Tiên Nguyên (huyện Bắc Quang) nhập vào huyện Hoàng Su Phì và thành lập xã Xuân Minh, nâng tổng số đơn vị hành chính của huyện là 23 xã. Năm 1986, thành lập xã Nậm Khòa trên cơ sở tách từ xã Thông Nguyên, tổng số 24 xã. Năm 1994, thành lập xã Nậm Ty trên cơ sở tách từ xã Thông Nguyên; sáp nhập xã Nàng Đôn, Bản Phùng của huyện Xín Mần vào Hoàng Su Phì, tổng số là 27 xã. Tháng 8/1999, xã Vinh Quang được công nhận là thị trấn Vinh Quang. Ngày 01/12/2003, tách các xã: Xuân Minh, Tiên Nguyên về huyện Quang Bình. Hiện nay, huyện Hoàng Su Phì có tổng số 24 xã và 1 thị trấn. Hoàng Su Phì là một huyện giáp với biên giới Trung Quốc, trước đây kẻ thù và giặc giã luôn nhòm ngó, xâm lược, quấy phá nơi đây. Nhân dân các dân tộc không chỉ bị đè nén, áp bức bóc lột bởi chế độ thổ ty, địa chủ phong kiến, mà còn phải đương đầu với các cuộc xâm chiếm, giết người, cướp của của các thế lực phong kiến phương Bắc cùng bọn thổ phỉ gây ra. Với điều kiện tự nhiên không thuận lợi đã ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế- xã hội của Hoàng Su Phì. Nền kinh tế của Hoàng Su Phì trước đây kém phát triển, trình độ sản xuất lạc hậu, sống du canh, du cư. Sản xuất chủ yếu là hái lượm, săn bắn, khai thác lâm thổ sản và sản xuất nông nghiệp chủ yếu cấy trồng lúa nước và nương rẫy. Trong cuộc đấu tranh với thiên nhiên để duy trì sự sống suốt hàng ngàn năm, nhân dân Hoàng Su Phì đã thể hiện đậm nét tính cần cù, thông minh, sáng tạo trong lao động sản xuất, dũng cảm trong chiến đấu. Với những lớp ruộng bậc thang xoáy tạc trên những sườn núi. Đặc biệt là ruộng của đồng bào La Chí, Dao, Tày, Nùng, Mông vừa đồ sộ, bền vững, vừa bảo đảm vẻ đẹp hài hòa làm tôn thêm cảnh hùng vĩ vốn có của núi rừng. Cũng giống như nhiều địa phương vùng cao ở Hà Giang, trước khi thực dân Pháp xâm lược, Hoàng Su Phì tồn tại chế độ phong kiến thổ ty. Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng mở đầu cho cuộc tấn công xâm lược Việt Nam. Triều đình nhà Nguyễn đã bất lực (1) . Theo Hà Giang 110 năm đấu tranh, xây dựng và phát triển (1891 - 2001), Nxb Chính trị quốc gia, HN, 2001, tr 91 - 93. 5
  6. trước sứ mệnh lịch sử của dân tộc và nhu nhược ký hiệp ước dâng nước ta cho thực dân Pháp. Sau khi ký Hiệp ước Pa-tơ-nốt (ngày 06/6/1884), thực dân Pháp mở rộng chiếm đóng toàn quốc. Năm 1887, thực dân Pháp sử dụng một lực lượng quân sự lớn đánh chiếm toàn bộ tỉnh Hà Giang. Sau khi đánh chiếm Hà Giang chúng tổ chức bộ máy cai trị theo chế độ quân quản. Hà Giang thuộc Đạo quan binh thứ hai, rồi Đạo quan binh thứ ba, đứng đầu là một viên công sứ Pháp, đồng thời chúng nắm lấy thổ ty và những phần tử phản động để lập bộ máy thống trị từ tỉnh xuống các châu, xã. Hoàng Su Phì là một trong 5 châu thuộc Đạo quan binh thứ ba, đứng đầu châu là tri châu dưới sự chỉ đạo và giám sát tên đại uý chỉ huy đại đội Hoàng Su Phì đã áp bức, bóc lột nhân dân thậm tệ. Để dễ cai trị, bóc lột nhân dân ta, thực dân Pháp áp dụng chính sách chia để trị chia rẽ các dân tộc ít người như Tày có Chánh, Phó tổng, Lý trưởng, Phó lý, tổng xã đoàn, hội đồng kỳ mục. Người Dao có Động trưởng, Quản mán, Chánh phó Quản chiểu. Người H’Mông chia thành giáp do bọn Tổng giáp, Mã phài nắm dưới sự kiểm soát của Bang tá người H’Mông. Người Hoa chúng đặt chức Bang trưởng ở cấp cơ sở. Người Kinh bị chia thành phường, đứng đầu là Phường trưởng. Trong thời kỳ thực dân, phong kiến, xã hội Hoàng Su Phì đã hình thành hai giai cấp chính, đó là giai cấp phong kiến quý tộc gồm: Thổ ty, địa chủ, phú nông, các chức dịch và giai cấp nông dân bao gồm nông dân tự do, nông dân bán tự do, một bộ phận nông dân mất quyền tự do phải làm người ở cho giai cấp bóc lột. Với âm mưu “chia để trị” thực dân Pháp thực hiện chính sách chia rẽ các dân tộc, chúng lợi dụng sự hạn chế về trình độ sản xuất, kinh tế, văn hóa - xã hội giữa các dân tộc của đồng bào các dân tộc để khoét sâu sự xích mích, hận thù, miệt thị giữa các dân tộc dẫn đến chém giết lẫn nhau gây nên sự phân biệt sâu sắc giữa các dân tộc. Với chính sách chia rẽ này, thực dân pháp nhằm mục đích phá hoại truyền thống đoàn kết giữa các dân tộc trong huyện nói chung và từng xã nói riêng; làm cho nhân dân các dân tộc hận thù, oán ghét lẫn nhau mà không thấy được kẻ thù nguy hiểm, trực tiếp của mình là thực dân Pháp và bọn tay sai của chúng. Chúng duy trì sự lạc hậu, yếu kém ở miền núi, kìm hãm sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Ngoài thuế đinh, thuế điền, thuế thổ canh chúng còn đặt ra hàng chục thứ thuế. Từ khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, thực dân Pháp càng đẩy mạnh hơn nữa chính sách vơ vét, bóc lột sức người, sức của của đồng bào. Nhân dân trong huyện đau ốm không có thuốc men, không có nơi để chữa bệnh. Các căn bệnh do thiếu iốt khá phổ biến, nhất là ở phụ nữ, có người bị tàn tật về trí tuệ, song vô phương cứu chữa... nhân dân ốm đau chủ yếu tự chạy chữa bằng thuốc nam, cúng bái. Vệ sinh phòng bệnh không được chú ý do vậy nhiều loại dịch bệnh xảy ra như thương hàn, đậu mùa, kiết lỵ, sốt rét... cướp đi sinh mạng của nhiều người. Cả châu chỉ có vài người biết chữ. Ngược lại, thực dân Pháp và bè lũ tay sai ra sức duy trì các tệ nạn xã hội mê tín dị đoan, cờ bạc, nghiện hút, tảo hôn nhằm làm ngu muội và suy kiệt giống nòi của nhân dân ta. Để độc chiếm quyền lợi và đàn áp các cuộc nổi dậy của đồng bào các dân tộc địa phương chống lại chúng, thực dân Pháp tổ chức lực lượng quân sự “dùng người địa phương trị người địa phương” ở Hoàng Su Phì, chúng đặt bang tá để kiểm soát khu vực. Mạng lưới cảnh sát, mật thám, nhà tù giăng khắp nơi, mỗi châu đều có một trại giam, còn ở tỉnh lỵ có một nhà tù lớn. Tổ chức tòa án từ tỉnh xuống các châu cho đến các đồn lẻ đều do bọn chỉ huy quân sự nắm. Cùng với những thủ đoạn về chính trị và đàn áp quân sự, thực dân Pháp, bọn thổ ty và địa chủ ra sức bóc lột của cải của nhân dân địa phương. Do vị trí đặc biệt về chính trị và quốc phòng của Hà Giang nên thực dân Pháp bắt nhân dân ta xây dựng nhiều 6
  7. đường thành đồn bốt kiên cố, trong đó có cả Hoàng Su Phì. Nhiều người đi phu do lao động quá sức, bệnh tật nên bị chết sớm. Tóm lại, trước cách mạng tháng Tám năm 1945, nền kinh tế Hoàng Su Phì rất lạc hậu, lại bị thực dân Pháp đặt ách đô hộ và duy trì chế độ bóc lột phong kiến thổ ty, địa chủ, phú nông vơ vét, cướp đoạt, thuế khóa nặng nề, phu phen tạp dịch triền miên khiến cho nền kinh tế Hoàng Su Phì không phát triển được. Đời sống của đồng bào các dân tộc trong huyện nói chung và từng xã nói riêng trước cách mạng tháng Tám hết sức khổ cực. Họ chẳng những bị đói rét, bệnh tật hoành hành, mù chữ mà còn thiếu cả muối ăn và nhiều thứ hàng thiết yếu khác. Trong xã hội hình thành mâu thuẫn gay gắt nhất giữa nhân dân các dân tộc trong huyện với thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai. Đó chính là động lực thúc đẩy phong trào đấu tranh cách mạng của đồng bào các dân tộc huyện Hoàng Su Phì dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trước những năm 1945, dân cư của huyện còn sống thưa thớt. Đến năm 1988, toàn huyện đã có 5.439 hộ, 38.000 khẩu và 17.000 lao động. Năm 1999, Hoàng Su Phì có 26 xã và thị trấn Vinh Quang, 207 thôn bản, có 9.537 hộ, 56.063 nhân khẩu. Đến năm 2017, toàn huyện có tổng số 199 thôn, thuộc 24 xã và 1 thị trấn, có 12.861 hộ với 64.556 nhân khẩu, gồm 13 dân tộc anh em. Trong đó, dân tộc Nùng 38,8%, Dao 21,8%, Mông 12,6%, Tày 14,2%, La Chí 6%, Kinh 4,8%, Hoa Hán 1,25% Cờ Lao 1,43%, Thái 0,02%, Phù Lá 0,2%, Cao Lan 0,06%, Mường 0,07%. Tuy các dân tộc sống xen cư nhau, nhưng mỗi dân tộc đều có vốn văn hóa độc đáo riêng, đồng thời có mối giao lưu cởi mở, học hỏi lẫn nhau, tạo nên truyền thống chung tốt đẹp đó là cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất, kiên cường, dũng cảm trong đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc. Truyền thống tốt đẹp đó còn được thể hiện rõ nét trong tình làng nghĩa bản bền chặt, sự tương thân tương ái, kính già yêu trẻ. Sự cố kết chung sức trong sản xuất và đời sống cũng chính là cơ sở nảy sinh tình đoàn kết và tính cộng đồng cao của đồng bào các dân tộc. Đồng bào các dân tộc ở Hoàng Su Phì thường sống tập trung theo dòng họ, gắn với đồng ruộng. Các dân tộc Nùng, Tày quần cư trong các thung lũng, ven sông, ven suối với những chân ruộng bậc thang. Đồng bào H’Mông chủ yếu sống ở vùng cao và những xã giáp biên giới Trung Quốc, những nơi có địa thế hiểm trở, đi lại cực kỳ khó khăn. Đồng bào H’Mông trước đây du canh du cư, phát nương làm rẫy. Đồng bào Kinh, Hoa chủ yếu sống ở thị trấn làm các nghề kinh doanh ăn uống, may mặc, buôn bán nhỏ… Hoàng Su Phì là huyện có nền sản xuất mang nặng tính tự cấp, tư túc. Sản xuất nông nghiệp gồm có trồng lúa, hoa màu là chính kết hợp với chăn nuôi đại gia súc, gia cầm. Ngoài ra còn trồng chè, đây cũng là một cây trồng chính của huyện Hoàng Su Phì và là một trong ba trung tâm chè nổi tiếng của tỉnh Hà Giang. Bên cạnh đó, đồng bào còn làm nghề thủ công phục vụ sản xuất và sinh hoạt hàng ngày từ rất sớm như rèn dao, cuốc, xẻng, đúc lưỡi cày phù hợp với điều kiện canh tác của địa phương; trồng bông, dệt vải, làm gạch, ngói... Trong lao động, đồng bào đã thể hiện sự khéo léo, sáng tạo như dệt vải, in hoa văn trên vải bằng sáp ong, đan lát các đồ dùng phục vụ sinh hoạt… Mỗi dân tộc có một nét văn hóa độc đáo riêng. Trai H’Mông thổi kèn, múa kèn trở thành nhu cầu trong sinh hoạt văn hóa tinh thần của cộng đồng. Người Dao hát màng, Người Tày, Nùng còn có hội “Xuống đồng” không chỉ cầu các vị thần nông, thần sông, thần núi phù hộ cho thời tiết tốt, mùa màng bội thu...đồng thời cũng là sinh hoạt văn hóa của cộng đồng với nhiều trò chơi. Tục đánh trống đồng ở Bản Díu là một trong những biểu hiện thiêng liêng giữ gìn bản sắc văn hỏa dân tộc từ thời dựng nước của người dân Hoàng Su Phì. 7
  8. Đồng bào các dân tộc Hoàng Su Phì đoàn kết, thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất, làm mương phai, làm nhà, cấy lúa, ma chay, cưới xin... đó là những nét đẹp trong đời sống sinh hoạt của đồng bào. III. TRUYỀN THỐNG ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG Hoàng Su Phì là một huyện miền núi biên giới phía Bắc của Tổ quốc, có vị trí quan trọng trong sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc. Nhân dân các dân tộc ở Hoàng Su Phì có truyền thống yêu nước nồng nàn, đấu tranh bất khuất, lao động cần cù, sáng tạo. Sự đoàn kết, gắn bó trong sản xuất và đời sống sinh hoạt, đó chính là cơ sở gắn kết của nhân dân các dân tộc Hoàng Su Phì cùng đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc. Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, đồng bào các dân tộc Hoàng Su Phì luôn cùng đồng bào các dân tộc trong tỉnh Hà Giang và nhân dân cả nước chiến đấu anh dũng, bảo vệ quê hương, bản làng. Năm 1728, Thổ ty Hoàng Văn Phác, dân tộc ít người ờ bản Díu Thượng, xã Bản Díu chỉ huy dân binh chống lại Tổng đốc Vân Nam (Trung Quốc) là Nhạc Nhĩ Thái để bảo vệ biên giới. Họ Hoàng được thế tập cha truyền con nối, giữ biên cương Hoàng Su Phì tới chức quận công, một chức cao trong 6 chức của triều đình phong kiến. Dưới thời Pháp thuộc, nhân dân các dân tộc Hoàng Su Phì đã hăng hái tham gia vào các đội nghĩa quân cùng với nhân dân cả nước đánh giặc gây cho địch nhiều tổn thất to lớn. Năm 1905, đồng bào Nùng đã tổ chức giết tên quan Pháp. Đồng bào Tày anh dũng chống Pháp trong 10 năm, dưới sự lãnh đạo của Thổ ty Hoàng Văn Quang ở Bản Qua, xã Tân Tiến. Năm 1915, tại Cốc Pài đã có cuộc chống Pháp, liên quan đến Việt Nam quang phục Hội, một tổ chức tiến bộ của cụ Phan Bội Châu. Đầu năm 1930, một cuộc nổi dậy của đồng bào H’Mông ở Hoàng Su Phì đã làm cho bố chánh ở Hà Giang bị bất ngờ và phải chú ý đến. Đồng bào Dao ở Nam Sơn với lòng căm thù giặc cao độ đã viết đơn tố cáo tội ác của thực dân Pháp. Khoảng từ năm 1930 - 1938, nhiều cuộc đấu tranh chống Pháp bắt phu, thu thuế nổ ra ở vùng Bắc Quang, Vị Xuyên, Hoàng Su Phì, trong đó phong trào đấu tranh có sự phối hợp giữa đồng bào Nùng với đồng bào Tày đánh Pháp ở Hoàng Su Phì(1). Các cuộc đấu tranh của nhân dân các dân tộc huyện Hoàng Su Phì thời kỳ này tuy chưa có phương pháp cách mạng đúng đắn nhưng đã thể hiện lòng yêu nước và ý chí quật cường chống thực dân Pháp xâm lược. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân các dân tộc Hoàng Su Phì đoàn kết đấu tranh xóa bỏ chế độ áp bức bóc lột của thực dân phong kiến đứng lên làm chủ bản làng trong cách mạng tháng Tám năm 1945. Ngày 19/12/1946, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ, nhân dân Hoàng Su Phì với lòng yêu quê hương đất nước, chí căm thù giặc sâu sắc đã đứng lên đấu tranh kiên cường, chống lại các cuộc càn quét, chiếm đóng, đập tan âm mưu, thủ đoạn thâm độc của quân thù, tiễu phỉ, trừ gian, giải phóng quê hương. Có thể nói trong suốt 9 năm kháng chiến, tiếng súng chống Pháp, Phỉ ở Hoàng Su Phì không một ngày nào yên và máu của đồng bào chiến sĩ ta còn đổ sau nhiều năm hòa bình đã được thiết lập ở miền Bắc. Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ (1954 - 1975), với tinh thần “tất cả vì Miền Nam ruột thịt”, nhân dân các dân tộc huyện Hoàng Su Phì đã đóng góp sức người, lương thực, thực phẩm, góp phần công sức nhỏ bé vào sự nghiệp cách mạng chung của cả dân tộc. Trong giai đoạn chiến đấu bảo vệ biên giới Tổ quốc, với vị trí quan trọng về quốc phòng - an ninh, quân và dân Hoàng Su Phì đã vượt qua khó khăn, gian khổ, chiến đấu chống chiến tranh xâm (1) . Xem Lịch sử Công an nhân dân Hà Giang (1945 - 2000), xuất bản năm 2000, tr 11 - 12. 8
  9. lược, chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, bảo vệ vững chắc biên giới thiêng liêng của Tổ quốc. Như vậy, trong suốt chiều dài lịch sử, nhiều thế hệ người dân huyện Hoàng Su Phì đã đứng lên, cùng nhân dân cả nước đấu tranh chống lại bè lũ cướp nước và bán nước. Lòng yêu nước, tinh thần đấu tranh kiên cường, bất khuất đó như một mạch nguồn, sợi chỉ đỏ xuyên suốt thời gian, ẩn mình trong mỗi người dân Hoàng Su Phì. 9
  10. CHƯƠNG I NHÂN DÂN CÁC DÂN TỘC HUYỆN HOÀNG SU PHÌ THỜI KỲ ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN VÀ KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1945 -1954) I. NHÂN DÂN CÁC DÂN TỘC HUYỆN HOÀNG SU PHÌ THAM GIA CUỘC ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN Ngày 03/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập đã lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam tiến lên bước mới. Phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai đã phát triển rộng khắp cả nước. Ngày 01/9/1939, phát xít Đức tấn công Ba Lan, chiến tranh thế giới lần thứ hai bắt đầu. Tháng 11/1939, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 6 họp quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng trong tình hình mới. Hội nghị nêu rõ mục tiêu chiến lược trước mắt của cách mạng Đông Dương là đánh đổ bọn đế quốc và tay sai, giải phóng các dân tộc. Đông Dương hoàn toàn độc lập. Ngày 22/9/1940, quân đội Nhật đã đánh vào Lạng Sơn và Hải Phòng. Ngày 23/9/1940, Pháp đã chấp nhận để Nhật chiếm đóng toàn bộ Đông Dương. Như vậy, lúc này nhân dân Đông Dương phải sống dưới hai tầng áp bức, bóc lột của đế quốc Pháp và bọn phát xít Nhật. Trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 7 đã họp và xác định kẻ thù chính của cách mạng lúc này là đế quốc Pháp - Nhật. Tiếp đó, ngày 19/5/1941, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 nhấn mạnh nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng lúc này là giải phóng dân tộc. Hội nghị quyết định đổi tên mặt trận từ Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế sang Việt Nam Độc lập Đồng minh, gọi tắt là Việt Minh, khẳng định khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và nhân dân ta trong lúc này. Hình thái khởi nghĩa vũ trang là phải từ khởi nghĩa từng phần, khởi nghĩa địa phương đi tới khởi nghĩa toàn quốc hay Tổng khởi nghĩa. Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 đã nhấn mạnh về xây dựng cơ sở Đảng ở vùng dân tộc thiểu số “mở rộng sự tổ chức vào các tỉnh phong trào còn yếu ớt và dân tộc thiểu số”(1). Thực hiện Nghị quyết Hội nghị, Trung đội xung phong Nam tiến được thành lập do đồng chí Võ Nguyên Giáp làm chỉ huy với nhiệm vụ xây dựng cơ sở Việt Minh ở Cao - Bắc - Lạng - Thái - Tuyên - Hà. Lực lượng này chia thành nhiều bộ phận nhỏ. Tổ của đồng chí Lê Thùy chỉ huy tiến sang Chiêm Hóa (Tuyên Quang) phát triển lên Hà Giang. Phong trào cách mạng phát triển đến một số nơi của Hà Giang như ở Bắc Quang, cán bộ Việt Minh tuyên truyền, giác ngộ về đường lối cách mạng, giải thích về chương trình cứu nước của Mặt trận Việt Minh, nhiệm vụ đánh đuổi Nhật - Pháp để giành độc lập nước nhà... phong trào cách mạng đã được đồng bào các dân tộc giác ngộ và hưởng ứng. Tuy vậy, lúc này ở Hoàng Su Phì, cán bộ Việt Minh chưa đến được với đồng bào các dân tộc, nhân dân vẫn phải sống trong cảnh bị áp bức, bóc lột của bọn thực dân Pháp, bọn tay sai và bọn quan lại phong kiến. Năm 1942, quân Nhật đến Hà Giang và mở rộng chiếm đóng toàn tỉnh. Đầu năm 1945 tình hình thế giới có nhiều biến chuyển, quân Nhật liên tiếp bị thất bại, mâu thuẫn đối kháng giữa Nhật và Pháp ngày càng gay gắt ở Đông Dương. Đêm ngày 09/3/1945, Nhật đảo chính Pháp. Chưa đầy một ngày sau, thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng. Ngày 12/3/1945, Hội nghị mở rộng Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Hội nghị đã đề ra khẩu hiệu “đánh đuổi (1) . Văn kiện Đảng (1930 - 1945), Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương xuất bản, Hà Nội, 1977, t.III, tr.215. 10
  11. phát xít Nhật” thay cho khẩu hiệu “đánh đuổi Pháp - Nhật”, phát động cao trào kháng Nhật cứu nước, đẩy mạnh phong trào cách mạng chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Tháng 3/1945, đồng chí Nguyễn Ái Quốc chỉ đạo việc phát triển cơ sở Việt Minh ở Hà Giang. Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân do đồng chí Lê Tâm (tức Lê Quảng Ba) và đồng chí Nam Hải (tức Bế Triều) lãnh đạo đến Hà Giang tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng về kháng Nhật cứu nước, gây dựng cơ sở Việt Minh, phát triển phong trào cách mạng. Ngày 04/6/1945, Hà Giang ra nhập Khu giải phóng, một khu căn cứ cách mạng rộng lớn bao gồm các tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên và một số vùng lân cận thuộc tỉnh Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái. Ngày 10/8/1945, phát xít Nhật đầu hàng Liên Xô và quân đồng minh không điều kiện. Tình thế cách mạng trực tiếp ở trong nước đã chín muồi. Đêm 13/8/1945, Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc ra lệnh Tổng khởi nghĩa và gửi Bản quân lệnh số 1 cho đồng bào và chiến sĩ cả nước mau chóng vùng dậy giành chính quyền. Ngày 13/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Sơn Dương, Tuyên Quang). Hội nghị nhận định những điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương đã chín muồi và chủ trương kịp thời lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận Việt Minh, cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền diễn ra mạnh mẽ, rộng khắp trong toàn quốc. Ngày 19/8/1945, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở Hà Nội. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Sự kiện lịch sử quan trọng này đã động viên đồng bào các dân tộc tỉnh Hà Giang nói chung và đồng bào các dân tộc huyện Hoàng Su Phì nói riêng vững tin theo con đường cách mạng do Đảng và Bác Hồ vạch ra. Ngày 29/8/1945, quân Nhật rút khỏi Hà Giang thì ngay chiều 30/8/1945 quân Tưởng kéo vào Bản Máy, Xín Mần, Khuôn Lùng… Đi đến đâu chúng cũng cướp lương thực, thực phẩm, bắt người đi phục vụ, gây thêm lòng căm thù sâu sắc trong nhân dân các dân tộc trong huyện. Ngày 05/11/1945, Huyện lỵ Bắc Quang được giải phóng. Thắng lợi vang dội này đã tác động đến Hoàng Su Phì, tạo cho nhân dân sự phấn khởi, tin tưởng vào cách mạng. Bọn phong kiến và tay sai ở Hoàng Su Phì hoang mang, lo sợ, bọn Quốc dân Đảng đem quân ra phục kích ở Nặm Dịch.Ta đã đưa 2 tiểu đội từ Bắc Quang vào đánh bật và truy kích đến tận huyện lỵ Hoàng Su Phì. Đến cây số 5 ta chia làm 2 mũi, một mũi theo Quốc lộ 2 chiếm lô cốt phía đông (lô cốt 800), một mũi tiến qua Cán Chỉ Dèn bao vây phía sau đồn (lô cốt 1000) buộc địch bỏ lô cốt 800 rút sang lô cốt 1000 điên cuồng chống lại ta. Do lợi thế về độ cao, địa hình rộng khó bố trí quân nên sau mấy lần tấn công, bộ đội ta không vào được đồn. Cuộc chiến diễn ra quyết liệt không cân sức giữa ta và địch, giữa một bên là người ít,vũ khí thô sơ, một bên là bọn Quốc dân Đảng, số lượng đông, nhiều vũ khí, dựa vào bọn phản động tay sai địa phương, ta vừa tổ chức đánh dịch vừa động viên, thuyết phục đồng bào nên được đồng bào ủng hộ, địch bị cô lập. Đêm 12/11/1945, địch liều mạng vượt vòng vây bỏ chạy sang Trung Quốc. Ngày 13/11/1945, ta giải phóng huyện lỵ Hoàng Su Phì và mít tinh chào mừng quê hương được giải phóng. Là vùng đất xa trung tâm của tỉnh, liên tục bị các thế lực đế quốc, phong kiến và bọn phản động tàn phá, lại chưa từng có cơ sở cách mạng nên nhiệm vụ đặt ra cho Hoàng Su Phì sau ngày giải phóng vô cùng khó khăn. Vận dụng linh hoạt đường lối, chính sách của Đảng vào hoàn cảnh cụ thể của một huyện có chế độ thổ ty lâu đời, ảnh hưởng của cách mạng còn rất mới mẻ, ta đã thành lập được chính quyền liên hiệp, một 11
  12. hình thức phù hợp lúc bấy giờ. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân các dân tộc trong huyện, đồng thời dựa vào một số quan lại cũ có uy tín theo phương châm “qua trên nắm dưới”, ngày 18/11/1945 ta thành lập được Ủy ban hành chính huyện do Vương Văn Đường làm Chủ tịch, Vương Văn Thịnh làm cố vấn, tiếp đó ta tổ chức bộ máy chính quyền ở các xã và các cơ quan chuyên môn của chính quyền địa phương được thành lập. Các tổ chức đoàn thể Thanh niên cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc… lần lượt ra đời ở các xã Tân Tiến, Nặm Dịch góp phần xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân địa phương thêm vững mạnh. Ngày 25/12/1945, thị xã Hà Giang được giải phóng. Nhân dân thị xã phấn khởi mít tinh chào mừng Ủy ban hành chính lâm thời tỉnh được thành lập, do đồng chí Thanh Phong làm Chủ tịch. Cùng ngày 25/12/1945, Xứ ủy Bắc Kỳ quyết định thành lập Đảng bộ Hà Giang. Ban Chấp hành lâm thời của Đảng bộ gồm 5 đồng chí: Hồng Quân, Thanh Phong, Huyền Quỷnh, Trần Tùng, Khải Ca, do đồng chí Hồng Quân làm Bí thư Tỉnh ủy. Ngày 06/01/1946, cùng với nhân dân cả nước, nhân dân các dân tộc Hoàng Su Phì đã tham gia bầu cử Quốc hội khóa I của nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa. Đó là ngày “dân ta sẽ tự do lựa chọn và bầu ra những người xứng đáng thay mặt cho mình và gánh vác việc nước”(1). Với cuộc bầu cử này, nhân dân Hoàng Su Phì thực sự được hưởng quyền dân chủ, tự mình góp phần xây dựng chính quyền nhân dân. Việc giành chính quyền ở Hoàng Su Phì thắng lợi có ý nghĩa hết sức quan trọng. Kể từ khi thực dân Pháp xâm lược, lần đầu tiên, nhân dân các dân tộc Hoàng Su Phì đã đoàn kết lại đấu tranh giành chính quyền, xóa bỏ chế độ áp bức, bóc lột của thực dân Pháp, phát xít Nhật, Quốc dân Đảng và chế độ phong kiến tay sai, cùng đứng lên làm chủ bản làng. Hoàng Su Phì đã vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo chủ trương, đường lối của Đảng, tuyên truyền, giác ngộ nhân dân các dân tộc tham gia cách mạng, động viên, cổ vũ nhân dân cùng đứng lên bảo vệ quê hương, cùng nhân dân cả nước sẵn sàng kháng chiến trường kỳ, gian khổ chống thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta. II. ĐẢNG BỘ HUYỆN HOÀNG SU PHÌ LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN TRONG HUYỆN THAM GIA KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP VÀ TIỄU PHỈ TRỪ GIAN, BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN (1946 - 1954) 1. Chi bộ Đảng đầu tiên của huyện Hoàng Su Phì được thành lập, lãnh đạo nhân dân tham gia kháng chiến, tiễu phỉ trừ gian, bảo vệ chính quyền (1946 – 1950) Khởi nghĩa giành chính quyền ở Hoàng Su Phì thắng lợi, nhân dân vui mừng, phấn khởi trước những thắng lợi của cách mạng. Nhưng chưa bao lâu cũng như nhân dân cả nước, nhân dân các dân tộc Hoàng Su Phì lại phải đương đầu trước những khó khăn thử thách vô cùng to lớn, đó là nạn thù trong giặc ngoài. Ở miền Nam, quân đội Anh kéo vào Sài Gòn, theo sau chúng là quân đội viễn chinh Pháp. Ở miền Bắc, cuối tháng 8 đầu tháng 9/1945, 20 vạn quân Tưởng kéo vào giải giáp quân đội Nhật, âm mưu của chúng là tiêu diệt Đảng và cướp chính quyền cách mạng mà nhân dân ta mới giành được. Sau khi quân Nhật rút khỏi Hà Giang (ngày 29/8/1945), quân đội Tưởng Giới Thạch và bọn Việt Nam Quốc dân Đảng có mặt nhiều nơi ở Hà Giang, ra sức lùng sục nhằm tập hợp lực lượng chống phá chính quyền và các phong trào cách mạng của nhân (1) . Hồ Chí Minh: Tuyển tập, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1980, t.I, tr.145. 12
  13. dân ta. Các thế lực phản cách mạng ở địa phương gồm địa chủ, cường hào ở vùng thấp, Thổ ty, Tổng giáp, Mã Phài ở vùng cao, núp sau quân đội Tưởng âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng từ trong trứng nước. Chính quyền ta mới thành lập đã phải qua những thử thách lớn. Trước tình hình trên, chính quyền cách mạng Hoàng Su Phì một mặt vận động nhân dân thực hiện chỉ thị của Trung ương Đảng ra sức chống giặc ngoại xâm, giặc đói, giặc dốt, xây dựng cơ sở cách mạng trong nhân dân, tuyên truyền về chế độ dân chủ nhân dân, những nhiệm vụ đặt ra cho chính quyền cách mạng cần phải giải quyết, để giữ vững và bảo vệ chính quyền cách mạng, mặt khác giúp đỡ nhân dân ổn định đời sống, phát triển sản xuất. Đồng thời, Hoàng Su Phì đã được công an tỉnh Hà Giang thành lập Quận công an nhằm củng cố, xây dựng lực lượng đấu tranh chống phản cách mạng, tiêu diệt bọn gián điệp, chỉ điểm, đặc vụ. Sau Hiệp ước Hoa - Pháp ký kết ngày 28/02/1946, tháng 3/1946, Pháp đưa quân ra miền Bắc. Để tranh thủ thời gian hòa hoãn xây dựng lực lượng, Trung ương Đảng và Chính phủ đã ký Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3/1946 và bản Tạm ước ngày 14/9/1946. Nhưng với bản chất phản động, hiếu chiến, thực dân Pháp ngang nhiên vi phạm Hiệp định và Tạm ước, chúng tiếp tục mở rộng chiến tranh xâm lược. Trước tình hình đó, ngày 19/12/1946, Trung ương Đảng quyết định phát động kháng chiến trong toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược. Ngày 20/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, ngày 22/12/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị toàn dân kháng chiến. Thực hiện Chỉ thị của Trung ương Đảng và Lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, nhân dân cả nước tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Tại Hà Giang, Đảng bộ đã tập trung vào việc kiện toàn bộ máy chính quyền của tỉnh, khẩn trương thành lập các tổ chức cơ sở Đảng, tăng cường cán bộ, đảng viên nòng cốt cho các huyện trong tỉnh, tích cực bồi dưỡng và phát triển Đảng trong quần chúng, chuẩn bị mọi mặt để kháng chiến lâu dài. Do điều kiện tự nhiên và xã hội của tỉnh Hà Giang nói chung, huyện miền núi Hoàng Su Phì nói riêng, xa xôi hẻo lánh, địa hình phức tạp hiểm trở, phong trào cách mạng nơi đây phát triển muộn hơn so với nơi khác. Kể từ khi có cơ sở và phong trào cách mạng (tháng 11/1945), mọi hoạt động của địa phương trong đấu tranh cách mạng, giành lấy chính quyền, củng cố và bảo vệ chính quyền đều đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của cán bộ Việt Minh. Do vậy, công tác tổ chức, phát triển Đảng ở Hoàng Su Phì trở thành vấn đề hết sức cấp bách. Đầu năm 1947, Tỉnh ủy cử 3 đảng viên đến Hoàng Su Phì công tác. Ngày 16/5/1947, Tỉnh ủy Hà Giang quyết định thành lập Chi bộ cơ quan huyện Hoàng Su Phì gồm 3 đảng viên; Đồng chí Tu (phụ trách huyện Đội); đồng chí Minh (phụ trách công an); đồng chí Lê Minh Cầm (tức Mai Anh) - Tỉnh ủy viên làm Bí thư Chi bộ. Sự ra đời của Chi bộ Đảng đánh dấu bước ngoặt lớn trong quá trình phát triển phong trào cách mạng của huyện, là một sự biến đổi về chất. Từ đây phong trào cách mạng trong huyện bắt đầu có điều kiện thuận lợi cùng cả tỉnh vững bước tiến lên trước những thử thách mới. Trong năm 1947, Chi bộ Hoàng Su Phì mới được thành lập, số đảng viên còn quá ít, trình độ và năng lực còn hạn chế, chính quyền cách mạng và các tổ chức quần chúng từ huyện đến xã mới đang trong quá trình thành lập. Nền kinh tế vô cùng kiệt quệ, nạn mù chữ trong đồng bào là phổ biến... Trước tình hình này, chi bộ tiến hành kiện toàn các Hội cứu quốc và Ban Việt Minh xã và huyện, dựa vào các tổ chức quần chúng để 13
  14. động viên nhân dân tăng gia sản xuất, phục vụ kháng chiến, ổn định đời sống. Thu - Đông năm 1947, thực dân Pháp đã mở cuộc tấn công lên Việt bắc, đồng thời thực hiện âm mưu bao vây biên giới, quân và dân Hà Giang tập trung phục vụ chiến dịch Thu- Đông, nhằm phá vỡ kế hoạch hai gọng kìm của thực dân Pháp. Ở phía Nam, một đạo quân do tướng Commuynan chỉ huy đánh lên Tuyên Quang. Ở phía Bắc các cứ điểm của quân Pháp đóng ở Hoàng Su Phì được tăng cường lực lượng có âm mưu phối hợp với nhau đánh lên Hà Giang. Bên cạnh lực lượng quân Pháp ở Hoàng Su Phì còn có toán phỉ Hạng Sào Chúng hoạt động ở Tây Côn Lĩnh đang tìm đường câu kết với bọn “cờ trắng” quấy rối địa phương, bọn Hạng Sào Chúng đã thấy xuất hiện từng nhóm ở Thèn Chu Phìn, Đản Ván, Túng Sán... Chúng dựa vào bọn “cờ trắng” đi đến đâu cướp phá đến đó, gây cho địa phương nhiều khó khăn phức tạp. Chúng dùng chính sách chia rẽ dân tộc “Dùng người Việt đánh người Việt”, trong khi các nơi khác thực dân Pháp và ngụy quân rất hoang mang trước những thất bại của chúng thì ở Hoàng Su Phì chúng lại rất hung hăng. Để gây mâu thuẫn dân tộc, thù hằn giai cấp, ngày 24/4/1947 đến 24/4/1948, ở Lùng Chún, xã Khuôn Lùng (Xín Mần) xảy ra vụ bạo loạn “cờ trắng”, do Chảo Sành Phú, người Dao cầm đầu. Phú đề ra khẩu hiệu “giết người Tày lấy ruộng, giết người Kinh lấy muối, giết người Hán lấy bạc già” và tiến hành đốt nhà, cướp của, giết người vô cùng dã man. Bọn chúng đã nổi lên kéo đi chém, cướp bóc các dân tộc khác. Hàng trăm ngôi nhà của đồng bào các xã: Nặm Dịch, Tả Sủ Choóng, Bản Nhùng, Bản Máy… chìm trong khói lửa.“Thực chất của sự kiện này là do mâu thuẫn sắc tộc bị khơi dậy. Dựa vào tình trạng dân trí còn hạn chế, các thế lực phản động đã tuyên truyền, lừa bịp, xúi giục đồng bào tin đi theo. Nắm được âm mưu và thủ đoạn của địch chúng ta không thể coi những người đi theo “cờ trắng”là kẻ thù, nên cần giải quyết sớm không để cho Pháp lợi dụng cơ hội nhúng tay vào để gây chia rẽ các dân tộc”(1). Thực hiện chủ trương chung của Trung ương và Khu ủy dùng lý lẽ thuyết phục là chính, không nên dùng vũ lực để giải quyết, ta đã cử Cụ Nguyễn Văn Minh, người có uy tín trong vùng đi vào vùng “cờ trắng” để tuyên truyền, thuyết phục một số người Dao hạ cờ trắng, treo cờ đỏ sao vàng… Do có chủ trương đúng, được các cụ phụ lão ở địa phương thuyết phục, nhân dân đồng tình ủng hộ, lực lượng “cờ trắng” đã tan rã. Ngày 24/4/1948, Chảo Sành Phú cùng 12 tên đầu sỏ ra hàng ta ở Ngô Khê - Việt Vinh (Bắc Quang). Ta đã biến địa bàn và lực lượng “cờ trắng” này thành hành lang ngăn chặn các cuộc hành quân của Pháp, phỉ ra Bắc Quang, tiêu biểu như trung đội người Dao do ông Phàn Dào Châu (quân “cờ trắng”) chỉ huy. Đi đôi với công tác vận động chính trị, Tỉnh ủy đã điều một đơn vị bộ đội đóng một số chốt án ngữ từ Bắc Quang vào Hoàng Su Phì, tiêu diệt nhóm phỉ của Hạng Sào Chúng đang hoạt động lén lút ở trong vùng, chặt đứt đường liên lạc giữa Pháp, phỉ với quân “cờ trắng”. Cùng với công tác tuyên truyền, vận động, tỉnh đã mở hội nghị “Đoàn kết dân tộc” ở các điểm như: Nặm Dịch, Trung Thịnh, Cốc Pài để phát động cuộc vận động đoàn kết các dân tộc, thanh toán những mâu thuẫn mất đoàn kết trong nội bộ nhân dân. Qua đây, ta thấy được sự vận dụng một cách linh hoạt, khéo léo biện pháp tuyên truyền, thuyết phục là chính, có trọng tâm và khi thật cần thiết dùng lực lượng quân sự và các biện pháp trấn áp những tên đầu sỏ, những phần tử ngoan cố, giữ vững được khối đoàn kết giữa các dân tộc trong địa phương. Cuối năm 1947, thực dân Pháp âm mưu đánh chiếm Hoàng Su Phì. Trước nguy cơ đó, Chi bộ Đảng đã chú trọng đến công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng chiến đấu. Từ chỗ chỉ có 3 đảng viên trong những ngày đầu mới thành lập đến cuối năm (1) . Xem Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Giang(1939 - 1945), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.I, tr.77. 14
  15. 1947, Chi bộ đã phát triển được 10 đảng viên. Lúc này đồng chí Lê Minh Cầm (tức Mai Anh) - Bí thư Chi bộ được điều về tỉnh công tác. Đồng chí Triệu Quốc Hùng được Tỉnh ủy bổ nhiệm làm Bí thư Chi bộ. Các tổ chức quần chúng gồm có: Thanh niên, Phụ nữ, Nông dân, Thiếu nhi, đã có tới 2.300 người. Ngày 15/12/1947, Voòng Sán được Pháp giúp đỡ có khoảng 400 quân, với hỏa lực mạnh từ Trung Quốc đánh sang Hoàng Su Phì chiếm 2 đồn Bản Máy, Xín Mần. Lực lượng của ta lúc này có một đại đội Vệ quốc đoàn, hai trung đội cảnh vệ, mỗi xã có một đội dân quân. Riêng 3 xã: Thèn Phàng, Xín Mần, Chế Là sử dụng tới 600 khẩu súng đánh trả Pháp, phỉ, bảo vệ trên 100 km đường biên giới phía Tây của tỉnh Hà Giang. Đầu năm 1948, sau khi Pháp thất bại ở chiến dịch Việt Bắc đã phải rút khỏi Tuyên Quang, Việt Trì, mặt trận chính của liên khu chuyển sang hướng Tây Bắc gồm các tỉnh: Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Sơn La, (Mai Đà) Hòa Bình và Tây - Nam Phú Thọ. Thực dân Pháp với 500 lính và thổ phỉ, tay sai từ Lào Cai tràn sang Xín Mần, Hoàng Su Phì. Nhiệm vụ của Chi bộ lúc này là lãnh đạo nhân dân anh dũng đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược, quyết bảo vệ xóm làng. Với truyền thống yêu nước có từ cội nguồn lịch sử, tiếng súng chống Pháp lại vang lên khắp nơi. Bám lấy từng mỏm đồi, gốc cây, khe suối quê hương, quân dân Hoàng Su Phì liên tục quấy rối, tập kích địch. Lực lượng địch mạnh hơn ta gấp bội với nhiều vũ khí hiện đại hơn nên tình hình chiến sự cũng trở nên gay go quyết liệt. Nhiều nơi ta với địch giành giật nhau 3 - 4 lần. Điển hình là trận đánh Cốc Pài, ta đóng ở vị trí thấp hơn, bộ đội ta phải ở trong hố chiến đấu để giữ đồn không dám nhô lên mặt đất, lương thực tiếp tế ném từ hố này sang hố khác. Song bộ đội ta đã anh dũng chiến đấu suốt 30 tiếng đồng hồ. Lợi dụng địa hình phức tạp với tinh thần dũng cảm vô song đánh hàng trăm trận đánh lớn nhỏ, quân và dân Hoàng Su Phì đã kìm hãm Pháp, phỉ không thể thực hiện nhanh chóng kế hoạch “vết dầu loang” của chúng. Tháng 1 và 02/1948, địch chiếm Bản Máy, Xín Mần, Cốc Pài. Tháng 3/1948, tình hình Hoàng Su Phì ngày càng trở nên nghiêm trọng. Lực lượng phản động ở Nặm Dịch, Nặm Ai, Tân Tiến… đã rục rịch tập trung lại và hoạt động, Pháp, phỉ đánh chiếm lại Pố Lồ, Tả Sử Choóng cắt đường liên lạc của ta ra Bắc Quang và nổi dậy khắp nơi bao vây ta. Xét thấy lực lượng rất không cân sức,ta chủ động rút dần ra khỏi huyện lỵ Hoàng Su Phì để bảo toàn sinh lực chiến đấu lâu dài. Quyết tâm không đầu hàng địch với niềm tin sẽ quay trở lại giải phóng quê hương. Quân và dân Hoàng Su Phì đã mở con đường máu qua Tấn Sà Phìn ra Bắc Quang, vượt núi Tây Côn Lĩnh chuyển cơ quan ra xã Việt Lâm và sơ tán đồng bào đến các xã Việt Lâm, Bằng Hành (huyện Bắc Quang) an toàn. Ngày 01/4/1948, Pháp, phỉ tạm chiếm Hoàng Su Phì. Dựa vào bọn quan lại phản động cũ như: Vương Văn Đường, Vương Văn Hoà (Giáo Chang), Sần, Vần, chúng lập lên bộ máy ngụy quân, ngụy quyền. Dùng bộ máy tay sai đắc lực này, Pháp thi hành một loạt chính sách phản động lừa phỉnh mua chuộc đồng bào dân tộc Nùng là dân tộc chiếm đa số trong huyện. Âm mưu của chúng là thực hiện chính sách chia để trị, chúng lập “xứ Nùng tự trị”, cho người Nùng nhiều muối ăn, vải mặc, dung túng cho họ đi cướp phá của đồng bào các dân tộc khác. Chia rẽ các dân tộc trong huyện với người Kinh, cố gắng xóa đi ảnh hưởng của Việt Minh, đề cao thổ ty, gây chia rẽ, mất đoàn kết giữa đồng bào các dân tộc. Chúng đầu độc nhân dân bằng cách mở các sòng bạc, khuyến khích hút thuốc phiện và uống rượu. Đặc biệt, chúng lùng sục, tìm giết những người có cảm tình với cách mạng, thẳng tay khủng bố các cơ sở cách mạng của ta. Chúng gây ra vụ thảm sát ở xã Xín Mần, ngày 01/12/1948, trong 3 tiếng đồng hồ Pháp, phỉ đã giết 48 người dân thường (gồm cụ già, trẻ em, người tàn tật), đó là ngày căm thù 15
  16. của đồng bào xã Xín Mần nói riêng cũng như của Hoàng Su Phì nói chung. Mâu thuẫn giữa Pháp, phỉ với nhân dân đã trở thành mâu thuẫn chủ yếu ở Hoàng Su Phì lúc này. Tháng 6/1948, được sự phối hợp của Trung ương và tỉnh bạn, quân và dân Hà Giang đã mở các chiến dịch ở Bản Qua (Hoàng Su Phì), Lao Chải (Vị Xuyên), Yên Bình (Bắc Quang). Tháng 11/1948, ta đánh chiếm đồn Bản Máy, Xín Mần buộc địch phải rút chạy. Tháng 12/1948, địch phản kích, ta tạm rút khỏi Bản Máy, Xín Mần. Từ ngày 1 đến 24/01/1949, địch đánh chiếm xã Xín Mần và một số nơi của Hoàng Su Phì. Quân số của địch có 654 tên, do 10 tên Pháp chỉ huy, trang bị đầy đủ vũ khí. Trong thời gian này, chiến sự diễn ra ác liệt, một số đồng bào vẫn ở lại bám đất, bám làng. Đại đội 654 hoạt động ở Bắc Quang phối hợp với Đại đội 136 lưu động vào Hoàng Su Phì đánh 3 cứ điểm nhỏ của địch, nhằm tiêu hao sinh lực địch. Mặc dù hoạt động trong điều kiện khó khăn, từ Việt Lâm (Bắc Quang), ta đã mở đường vào Hoàng Su Phì bằng con đường Bó Đướt, Thượng Sơn vào Túng Sán, Tân Tiến song không thành công, vì Pháp, phỉ kiểm soát quá ngặt. Các cơ quan huyện ở Hoàng Su Phì chuyển xuống Quang Minh (Bắc Quang), mục đích mở đường qua cổng trời, Tấn Sà Phìn vào Hoàng Su Phì, nhưng đều bế tắc. Lúc này Chi bộ Đảng Hoàng Su Phì một mặt tìm cách luồn sâu vào sau lưng địch tạm chiếm, mặt khác tuyên truyền giác ngộ những người cán bộ dân tộc. Ngày 10/4/1949, Chi bộ Hoàng Su Phì đã kết nạp đồng chí Phượng Chìu Kinh(1), dân tộc Dao, xã Hồ Thầu, người dân đầu tiên quê ở Hoàng Su Phì được đứng vào hàng ngũ của Đảng. Các đội vũ trang tuyên truyền được thành lập trên cơ sở tập trung bộ đội, cán bộ chính trị người địa phương am hiểu tình hình, thông thuộc địa bàn để đưa vào Hoàng Su Phì hoạt động xây dựng cơ sở cách mạng. Các đơn vị vũ trang tuyên truyền bền bỉ, dũng cảm len vào từng thôn xóm giác ngộ quần chúng bằng một loạt những hình thức phong phú: nói chuyện về chính sách và thắng lợi của Việt Minh, viết truyền đơn bằng chữ nho, chữ quốc ngữ, hướng dẫn nhân dân cách chống khủng bố, chống đi phu, đi lính, nộp thuế, thực hiện “vườn không nhà trống”, ta dần dần gây dựng được nhiều cơ sở trong lòng địch, động viên nhân dân tham gia đánh địch. Đầu tháng 3/1949, Bộ Tư lệnh quân khu X mở chiến dịch Lao - Hà, hướng chính có 2 tiểu đoàn vào Hoàng Su Phì, tiểu đoàn Hà Giang đánh từ Yên Bình sang Bắc Hà (Lào Cai). Ngày 04/3/1949, ta mở chiến dịch Hoàng Su Phì. Quân chủ lực của ta từ Lao Chải (Vị Xuyên) vòng qua Múng Tủng (Trung Quốc) tiến công vào Bản Máy, Xín Mần và chiếm Xín Mần. Ta khống chế cắt đứt đường Xín Mần đi Bắc Hà (Lào Cai) bao vây cô lập địch ở Hoàng Su Phì.Từ ngày 04 đến ngày 10/3/1949, bộ đội chủ lực của ta phối hợp với dân quân du kích trong huyện liên tục tiến công địch từ Yên Bình đi Bắc Hà (Lào Cai), tiêu diệt 11 vị trí của địch trong đó có Xỉn Khâu. Địch ở Hoàng Su Phì bị cô lập, ta thu 100 súng, cơ sở kháng chiến của ta được mở rộng. Ngày 22/3/1949, địch có viện binh bằng đường không đã phản kích lấy lại lô cốt Cán Chỉ Dèn, đánh chiếm lấy đồn Xín Mần. Ngày 16/6/1949, ta tiếp tục thu nhỏ phạm vị lấn chiếm của địch, lấy lại một số cơ sở. Tên quan ba Pháp ở Hoàng Su Phì phải tìm cách câu kết với Hạng Sào Chúng(2) nhằm cố gắng phá thế bị bao vây cô lập. Cùng thời gian này, một trung đội của ta đóng tại Múng Tủng (Trung Quốc) bị bọn Hạng Sào Chúng bao vây cắt đứt đường liên lạc với Bản Máy. Ta hy sinh 32 người. Quân ta ở Bản Máy, Bản Díu về Thanh Thủy (Vị Xuyên). Trong chiến dịch này, mặc dù ta chưa giải phóng được Hoàng Su Phì (1) . Phượng Chìu Kinh tức Phùng Kinh. (2) . Hạng Sào Chúng, tên trùm phỉ ở Múng Tủng (Trung Quốc). 16
  17. do lực lượng và vũ khí của địch còn quá mạnh, song ta đã gây cho địch nhiều khó khăn lớn, thiếu quân số, địa bàn đóng rộng, một số cơ sở của địch bị lung lay, không mở rộng được vị trí chiếm đóng, bọn tề ngụy hoang mang, dao động. 2. Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì được thành lập, lãnh đạo nhân dân tiếp tục kháng chiến chống thực dân dân pháp xâm lược, tiến hành tiễu phỉ, giải phóng quê hương (1950 - 1954) Tháng 5/1949, các cơ quan huyện Hoàng Su Phì chuyển vào xã Tân Trịnh (Bắc Quang) để tiến vào Hoàng Su Phì bằng 3 con đường: Bản Vèn, Nặm Hóp (xã Tiên Nguyên), Khuôn Lùng, Quảng Nguyên với mục đích xây dựng cơ sở ở Hồ Thầu, Chế Là (Hoàng Su Phì). Ngày 01/7/1949, tại xã Tiên Nguyên (huyện Bắc Quang, nay là huyện Quang Bình), Chi bộ Hồ Thầu được thành lập gồm 6 đảng viên người dân tộc Dao, H’Mông và một số đảng viên là cán bộ Việt Minh như Việt Thái, Nguyễn Tiến Lộc, Nông Trần Lương, Nguyễn Văn Hà... do đồng chí Việt Thái làm Bí thư Chi bộ. Sau khi đưa Chi bộ về sinh hoạt tại Hồ Thầu thì cán bộ Việt Minh chia làm 3 tổ: 1 tổ đi Xỉn Khâu, 1 tổ đi Chu A Phùng và 1 tổ ở lại Hồ Thầu để gây dựng cơ sở, xây dựng cốt cán. Đến ngày 06/9/1949, Chi bộ Xỉn Khâu thuộc xã Chế Là được thành lập tại xóm Nặm Lỳ xã Quảng Nguyên (thuộc huyện Bắc Quang, nay thuộc huyện Xín Mần), do đồng chí Nguyễn Tiến Lộc làm Bí thư Chi bộ. Cuối năm 1949, đồng chí Hoàng Quyến làm Bí thư Chi bộ Hoàng Su Phì thay đồng chí Triệu Quốc Hùng chuyển công tác khác(1). Ngày 01/01/1950, Chi bộ Hồ Thầu tách thành 2 chi bộ là Chi bộ Hồ Thầu do đồng chí Nông Trần Lương làm Bí thư và Chi bộ Chu A Phùng, xã Trung Thịnh(2) do đồng chí Việt Thái làm Bí thư(3). Cùng ngày 01/01/1950, Chi bộ cơ quan huyện tách thành 3 chi bộ: Chi bộ Cơ quan, Chi bộ Dân quân và Chi bộ Công sở. Các chi bộ và Việt Minh lấy tên là Liên Việt đã xây dựng được lực lượng dân quân ở 4 xã gồm: Hồ Thầu, Chế Là, Nậm Dịch, Bản Máy với số lượng 511 người. Như vậy, từ chỗ chỉ là một chi bộ với 3 đảng viên (năm 1947), đến ngày 01/01/1950, Hoàng Su Phì có 6 chi bộ gồm 77 đảng viên, trong đó có 18 đảng viên là người dân tộc và là người địa phương, đủ điều kiện thành lập Ban Huyện ủy Hoàng Su Phì. Trên cơ sở đó, ngày 01/01/1950 Ban Huyện ủy Hoàng Su Phì được thành lập do đồng chí Hoàng Quyến làm Bí thư Ban Huyện ủy. Các đồng chí Lê Minh Cầm, Triệu Quốc Hùng tuy chỉ là Bí thư Chi bộ nhưng lãnh đạo cả huyện. Sự ra đời của Ban Huyện ủy Hoàng Su Phì là kết quả của quá trình đấu tranh đầy hy sinh gian khổ trong lòng địch của đảng viên, cán bộ, chiến sĩ và nhân dân bằng hành động cách mạng cụ thể, giờ đây đã đủ sức để bước vào cuộc chiến đấu mới, quét sạch quân xâm lược ra khỏi quê hương thân yêu. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì, quân và dân trong huyện đã tạo được địa bàn cơ sở rộng lớn - một yếu tố quan trọng cho những trận đánh lớn với tất cả tinh thần, vật chất, chủ động đánh phá sau lưng địch. Quân và dân Hoàng Su Phì không những tạo điều kiện thuận lợi mà phối hợp chặt chẽ với cả tỉnh, Khu, Trung ương giáng những đòn quyết định xuống đầu giặc Pháp, phỉ và bọn phản động bằng một loạt chiến dịch kéo dài liên tục từ tháng 4/1948 đến tháng 9/1950. Ngược lại, mỗi chiến dịch (1) . Theo tư liệu đồng chí Nguyễn Đình Bịch và Triệu Đức Thanh cung cấp. (2) . Đến năm 1962, xã Trung Thịnh được tách thành 6 xã: Việt Thái, Trung Thịnh, Ngán Chiên, Thu Tà, Nàng Đôn, Pờ Ly Ngài. (3) . Khi đồng chí Việt Thái hy sinh, đồng chí Nguyễn Đình Bịch làm Bí thư. 17
  18. ấy chính là một áp lực quân sự tốt để ta tiến hành đẩy mạnh xây dựng lực lượng cách mạng, củng cố chính quyền cách mạng và các đoàn thể quần chúng, đó là mối quan hệ chặt chẽ mà Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì đã giải quyết tốt trong giai đoạn này. Từ tháng 11/1949 đến tháng 01/1950, địch không giành được chủ động, mà chúng chỉ giữ được thế phòng thủ, củng cố vùng tạm chiếm được. Phía ta luôn luôn củng cố cơ sở và tiến vào Hoàng Su Phì theo các đường: Hồ Thầu, Việt Lâm, Bản Quảng để tích cực chuẩn bị cho chiến dịch phá tề đầu năm. Ngày 08/02/1950, chiến dịch phá tề bắt đầu. Mặc dù còn một số hạn chế trong mặt tác chiến, chuẩn bị, kết quả đạt được không như chủ trương ở chiến dịch phá tề, nhưng ngày 08/02/1950, ta đánh vào đồn Hồ Thầu làm cho bọn ngụy quân, ngụy quyền ở xung quanh hoang mang dao động. Hồ Thầu trở thành căn cứ địa của huyện. Ngày 14/4/1950, Đảng bộ lãnh đạo quân và dân Hoàng Su Phì phối hợp với 2 tiểu đoàn 115 và 452 đánh chiếm đồn Xỉn Khâu (Chế Là), đồn Hồ Thầu (ngày 25/4/1950) và Nặm Yên, Nắm Dẩn (Xín Mần). Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân diệt tề và gây cơ sở vào 10 gia đình và bắt mối “mật giao” vào vùng địch tạm chiếm phối hợp tốt với chiến dịch Lê Hồng Phong màn I. Để tiến tới giải phóng Cao - Bắc - Lạng, cuối năm 1950, Trung ương Đảng tiếp tục mở chiến dịch Lê Hồng Phong màn II. Lúc này, quân và dân huyện Hoàng Su Phì với tinh thần tự lực cánh sinh, đã chủ động đánh địch. Tháng 8/1950, Huyện ủy Hoàng Su Phì triệu tập một cuộc họp tại Tân Trịnh (Bắc Quang) để bàn cách phối hợp với chiến dịch Lê Hồng Phong màn II cắt đứt đường liên lạc của địch từ Hoàng Su Phì đi Lào Cai, tiêu diệt những vị trí sơ hở của địch như Nặm Yên, Xỉn Khâu, Cốc Pài; tăng cường công tác địch vận làm tan rã ngụy quân, phá ngụy quyền ở Hoàng Su Phì, khuếch trương thắng lợi ở mặt trận Tây Bắc. Hội nghị đã nhận định chiến dịch này có ảnh hưởng lớn đến Hoàng Su Phì và bàn cụ thể về việc phát động chiến tranh nhân dân mạnh mẽ, mở rộng cơ sở của ta trong lòng địch. Tại Hoàng Su Phì,trước sức mạnh tấn công của quân và dân ta, địch bị thất bại nặng nề, ngày 25/9/1950, Pháp buộc phải rút quân khỏi Hoàng Su Phì. Do sự không thống nhất giữa huyện với Đảng ủy Tiểu đoàn 259 bộ đội địa phương về vị trí đánh địch nên ta đã bỏ lỡ thời cơ để địch rút lui theo đường Bản Díu sang Trung Quốc và sang Bắc Hà (Lào Cai). Đây là một sai lầm của ta trong công tác lãnh đạo và phối hợp tác chiến. Ngay sau khi pháp rút quân, thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy Hà Giang, Huyện ủy Hoàng Su Phì đã khẩn trương tổ chức công tác tiếp quản huyện. Biết chớp thời cơ khi bọn phản động và tay sai Pháp đang mất tinh thần, chúng ta đã đạt được một số thắng lợi đáng kể: bắt và trừng trị một số tên phản động như Voòng Sán cùng với 5 tên khác trong phố huyện, phân loại phỉ và tịch thu tài sản của bọn đầu sỏ; làm tốt chính sách khoan hồng. Ta gọi được 300 lính địch ra hàng thu 300 súng; tổ chức biểu dương lực lượng có hàng ngàn người tham dự. Bên cạnh đó, ta phạm một số sai lầm khuyết điểm: ấu trĩ trong việc chuyển giao chính quyền, chuyển lực lượng của địch thành lực lượng của ta. Việc thực hiện kỷ luật tiếp quản và dân vận không nghiêm, gây mất uy tín cho Đảng. Huyện không tập trung dốc sức lập ra bộ máy chính quyền mới thật vững chắc mà lại chú trọng vào kinh tế như: đánh thuế tồn kho, niêm phong hàng hóa... có thể nói đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự bị động của ta khi địch nổi dậy cướp chính quyền. Sau khi Pháp rút quân, bọn tay chân ở lại đã bị phân hóa và cô lập, chưa ra mặt hoạt động, các binh lính đầu hàng và nộp súng được ta cho về đoàn tụ với gia đình, phần lớn là lính khố đỏ và lính dõng. Những tên phản động chỉ huy chạy vào rừng, vượt 18
  19. biên giới câu kết với phỉ Mường Khương, Pha Long (Lào Cai) có tội ác, không dám về với gia đình, vẫn lén lút trong rừng và cướp bóc tài sản của nhân dân để sinh sống, không chịu ra hàng. Thực hiện âm mưu của Pháp và Châu Đường (Vương Văn Đường), bọn phỉ đã củng cố lực lượng âm mưu cướp lại Hoàng Su Phì do Xếp Sinh, Sần, Vần cầm đầu. Cuộc sống hòa bình của nhân dân ta chưa được 1 tháng thì từ ngày 18 đến ngày 24/10/1950, bọn phỉ quay trở lại chiếm Hoàng Su Phì. Tại huyện lỵ, mặc dù lực lượng còn rất ít, bộ đội ta vẫn gan dạ chiến đấu giam chân địch. Sau hơn 4 ngày đêm anh dũng đánh địch, đến 9 giờ sáng ngày 25/10/1950, ta rút khỏi huyện lỵ, Hoàng Su Phì tạm rơi vào tay địch. Thực hiện chỉ thị(1)của Tỉnh ủy Hà Giang là: “Cương quyết giải quyết bằng quân sự,đánh bật địch ra khỏi huyện lỵ”, Đảng bộ Hoàng Su Phì đã khẩn trương lãnh đạo nhân dân tổ chức lực lượng, tiếp tục anh dũng chiến đấu. Dựa vào những cơ sở vững chắc của ta từ trước ở Hồ Thầu, Tấn Sà Phìn... ta tổ chức tiến công địch, tuyên truyền giác ngộ, khích lệ truyền thống chống thực dân Pháp trước đây của đồng bào các dân tộc kêu gọi địch ra hàng, phân hóa, thưởng cho những người có công, tổ chức ngay những trận tập kích nhỏ làm cho địch hoang mang, bọn lính các nơi không dám nổi dậy. Phối hợp với bộ đội chủ lực, trong chiến dịch tiễu phỉ suốt từ ngày 04/12/1950 đến năm 1951, quân và dân Hoàng Su Phì đã bắt sống 11 tên loại tàn ác ở địa phương, 32 tên tàn quân Tưởng, bức hàng 10 tên (trong đó có tên sư đoàn phó (Giàng Sán Nông) thu 1.058 súng các loại, lấy lại cho dân 14 con ngựa. Trên đà thắng lợi, quân và dân trong huyện đã phối hợp cùng Trung đoàn 30 quân địa phương Hà Giang, Tiểu đoàn 48 bộ đội Tuyên Quang mở cuộc tấn công mạnh mẽ vào huyện lỵ. Ngày 06/01/1951, huyện lỵ Hoàng Su Phì hoàn toàn giải phóng. Rút kinh nghiệm lần giải phóng trước đây, ta tiếp tục võ trang tuyên truyền mạnh ở nhiều xã và truy kích địch ở Pố Lồ nơi chúng rút về cố thủ. Ngày 03/02/1951, ta giành thắng lợi cơ bản về quân sự. Thực tế đã chứng minh giải quyết bằng quân sự đối với Hoàng Su Phì lúc này là đúng đắn và kịp thời. Việc giải phóng Hoàng Su Phì nhanh, gọn đã kịp thời ngăn chặn bọn lính các nơi nổi dậy, đề phòng được sự can thiệp của bọn thổ phỉ ở biên giới và Pháp. Nhân dân vùng giải phóng phấn khởi, tin tưởng vào Đảng, tích cực tham gia công cuộc kháng chiến toàn quốc, tạo thêm sức mạnh mới cho phong trào cách mạng của huyện. Việc giải phóng Hoàng Su Phì ra khỏi tay phỉ được Pháp nuôi dưỡng đã đem lại tình thế cách mạng có lợi, đồng thời cũng đặt ra cho Đảng bộ huyện những nhiệm vụ mới. -Tiếp tục tiễu phỉ còn đang hoạt động ở nhiều nơi. - Gắn công tác tiễu phỉ với công tác phát triển sản xuất, ổn định đời sống nhân dân. Đó là phương châm hành động đầu tiên của Đảng bộ huyện. Để làm trong sạch Đảng, Đảng bộ huyện đã tiến hành nhiều cuộc kiểm thảo nghiêm túc tự phê bình và phê bình, kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những phần tử xấu. Đảng bộ huyện dần dần mạnh lên đủ sức lãnh đạo nhân dân các dân tộc trong huyện bước vào thời kỳ mới. Từ tháng 4 đến tháng 5/1951, ta giải phóng thêm một số địa bàn, dồn ép địch vào ba nơi. 1. Hạng Sào Chúng ở Sề Sang (Đản Ván) cầm đầu 40 tên lúc đông nhất có tới 100 tên, có 2 súng máy, đủ súng trường. Bọn này nắm dân tộc H'Mông, Dao từ Đản Ván, Tả Sử Choóng, Nặm Dịch đến Cao Bồ (Vị Xuyên). 2. Bọn Xếp Vần ở Ma Lù Thàng (Thàng Tín) cầm đầu 30 tên phỉ có đủ súng. (1) . Chỉ thị số 91/CT-HG ngày 26/10/1950 của Tỉnh ủy Hà Giang. 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2