intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ebook Lịch sử Đảng bộ huyện Núi Thành (1975-2020): Phần 2

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:286

9
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiếp nội dung phần 1, Ebook Lịch sử Đảng bộ huyện Núi Thành (1975-2020): Phần 2 cung cấp cho người đọc những kiến thức như: Tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (1996 - 2005); Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ; phát huy tiềm năng, lợi thế của địa phương, tạo môi trường thu hút đầu tư, xây dựng Núi Thành thành huyện công nghiệp theo hướng hiện đại (2005 - 2020). Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ebook Lịch sử Đảng bộ huyện Núi Thành (1975-2020): Phần 2

  1. LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ HUYỆN NÚI THÀNH (1975 - 2020) Chương ba TIẾP TỤC THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA (1996 - 2005) I. ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ HUYỆN NÚI THÀNH LẦN THỨ XVI, XVII; ĐẨY MẠNH THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA (01.1996 - 10.2000) 1. Đại hội Đảng bộ huyện Núi Thành lần thứ XVI, XVII. Sau hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới (1986- 1996), 05 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VII của Đảng, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng, tình hình kinh tế-xã hội đã thoát ra khỏi khủng hoảng. Tuy nhiên, đất nước ta vẫn còn đứng trước nhiều khó khăn, thử thách nhất là phải đối mặt với bốn nguy cơ mà Đảng ta đã xác định1. Trước tình hình đó, yêu cầu mới đặt ra cho Đảng bộ và nhân dân trong huyện là phải tiếp tục đẩy mạnh 1. Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, tiến hành từ ngày 20 đến 25-01-1994 tại Hà Nội đã xác định 4 nguy cơ trước mắt là: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội; âm mưu và hành động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. 163
  2. BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN ỦY NÚI THÀNH công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước tạo ra những tiền đề vững chắc chuyển sang thời kỳ phát triển kinh tế-xã hội toàn diện, phấn đấu thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Thực hiện Chỉ thị số 51-CT/TW ngày 09-3-1995 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, Huyện ủy tập trung chỉ đạo công tác đại hội cấp cơ sở gắn với củng cố, kiện toàn tổ chức cơ sở Đảng để tiến tới Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XVI. Đến cuối năm 1995, 47/47 tổ chức cơ sở đảng hoàn thành việc tổ chức đại hội, bầu được 255/257 cấp ủy viên; công tác tổ chức đại hội cơ sở đảm bảo tiến độ và yêu cầu đề ra, tạo tiền đề quan trọng chuẩn bị cho Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XVI. Từ ngày 27 đến ngày 29-02-1996, Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XVI được diễn ra tại Hội trường Ủy ban nhân dân huyện, với sự tham dự của 215 đại biểu đại diện cho hơn 2.000 đảng viên trong 47 tổ chức cơ sở đảng thuộc đảng bộ huyện. Đồng chí Lương Văn Hận, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng ban Dân vận, Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng thay mặt Ban Thường vụ Tỉnh ủy dự và chỉ đạo Đại hội. Đại hội thống nhất đánh giá: “Trong 5 năm qua, mặc dù gặp không ít khó khăn, thử thách nhưng tình hình chính trị, kinh tế-xã hội trong huyện vẫn giữ được ổn định, nhiều chỉ tiêu kinh tế-xã hội đạt và vượt kế hoạch, đời sống nhân dân được cải thiện rõ. Phát triển toàn diện kinh tế nông-lâm-ngư 164
  3. LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ HUYỆN NÚI THÀNH (1975 - 2020) nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, văn hoá-xã hội… tạo nên những tiến bộ đáng kể, làm cho cơ cấu kinh tế ở nông thôn bước đầu có sự chuyển dịch đúng hướng sang sản xuất hàng hoá. Tổng giá trị sản phẩm nông nghiệp tăng lên hàng năm, nhưng tỷ trọng giảm so với tổng giá trị sản phẩm xã hội (GDP). Bộ mặt nông thôn thay đổi, đời sống nhân dân và trình độ dân trí nhiều vùng được nâng lên rõ rệt. Vai trò lãnh đạo của đảng bộ và quản lý của các cấp chính quyền trên lĩnh vực quốc phòng-an ninh được phát huy. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền và mặt trận, đoàn thể đã trở thành nền nếp trong nội dung hoạt động lãnh đạo của đảng bộ. Cùng với việc cải thiện về đời sống kinh tế- xã hội, quyền dân chủ của nhân dân được đảm bảo”. Những thành tựu quan trọng trên là kết quả của việc vận dụng đúng đắn, sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng; các cấp ủy đảng, chính quyền, mặt trận, đoàn thể từ huyện đến cơ sở luôn thể hiện tính năng động, sáng tạo, sâu sát, nhạy bén trong việc lãnh đạo chỉ đạo, tổ chức thực hiện các chủ trương, quyết sách quan trọng của Đảng, Nhà nước; biết tranh thủ sự giúp đỡ chỉ đạo và đầu tư của Trung ương, tỉnh cho việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng nông thôn cũng như phát triển kinh tế-xã hội. Đảng bộ đã phát huy mạnh mẽ truyền thống đoàn kết nhất trí trong nội bộ, đặc biệt trong nội bộ cấp ủy các cấp đã tạo nên sức mạnh tổng hợp để lãnh đạo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị cũng là một trong những nguyên nhân tạo ra động lực thực sự cho sự phát triển. Bên cạnh những mặt thành công, Đại hội cũng đã thẳng 165
  4. BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN ỦY NÚI THÀNH thắn chỉ rõ: Kết quả đạt được trong nhiệm kỳ qua, so với năm 1991 về trước là một bước tiến lớn, tuy nhiên mới chỉ giải quyết được một phần khó khăn đói nghèo, chưa đạt tới nhịp độ tăng trưởng về kinh tế, chưa có định hướng cụ thể cho việc chuyển đổi giống cây trồng, con vật nuôi; đặc biệt chưa phát triển được các ngành sản xuất có hiệu quả cao đáp ứng nhu cầu cho khu công nghiệp tương lai. Mô hình hợp tác xã kiểu cũ chậm đổi mới, chưa tạo điều kiện đảm bảo sản xuất kinh doanh tự chủ của kinh tế hộ. Hoạt động của các ngành giáo dục, y tế, văn hoá-xã hội chưa đáp ứng nhu cầu nhân dân. An ninh quốc phòng chưa thật sự nhạy bén trước diễn biến phức tạp của tình hình. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, đặc biệt là ở miền núi, vùng cát còn nhiều khó khăn. Nguyên nhân của những yếu kém trên chủ yếu là do năng lực lãnh đạo, điều hành của cấp ủy, chính quyền, đoàn thể từ huyện đến cơ sở còn hạn chế, lúng túng trong tình hình mới nên chưa phát huy được lợi thế về các vùng kinh tế và vị trí chiến lược của huyện trong phát triển kinh tế-xã hội. Mặt khác, khả năng tiếp thu khoa học công nghệ, sự đầu tư của Nhà nước để khai thác tiềm năng sẵn có của địa phương còn rất thấp, thế mạnh về xuất khẩu chưa được khơi dậy thật sự. Các đơn vị kinh tế và chủ thể kinh doanh chưa đủ điều kiện, nhất là vốn để mở rộng sản xuất, tệ nạn xã hội đang còn tồn tại, mặt trái của nền kinh tế thị trường tác động có chiều hướng tiêu cực cho bước tiến của phong trào cách mạng quần chúng. Vai trò, vị trí của công tác xây dựng Đảng trong thực tế vẫn chưa được coi trọng đúng mức, có nơi có lúc còn bị suy giảm hơn trước. 166
  5. LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ HUYỆN NÚI THÀNH (1975 - 2020) Trên cơ sở phân tích nguyên nhân của sự thành công và yếu kém, Đại hội đã kiểm điểm một cách sâu sắc để rút ra bài học kinh nghiệm, nhìn thẳng vào sự thật để khắc phục những mặt tồn tại chủ quan, tranh thủ thời cơ thuận lợi, tập trung sức xây dựng đảng bộ ngày càng vững mạnh, nhằm lãnh đạo thực hiện thành công phương hướng, nhiệm vụ của nhiệm kỳ tới. Nắm vững những quan điểm, định hướng của Đảng, nhiệm vụ của Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng giai đoạn 1996- 2000, Nghị quyết Đại hội xác định phương hướng nhiệm vụ chủ yếu trong nhiệm kỳ 1996-2000 là: “Tiếp tục phát huy tính năng động, sáng tạo, tự chủ, tinh thần đoàn kết thống nhất, tranh thủ thời cơ; tích cực phát huy nguồn lực trong nhân dân nhằm ổn định tình hình kinh tế-xã hội, khai thác thế mạnh tiềm năng, phấn đấu phát triển kinh tế-xã hội với tốc độ nhanh, đáp ứng nhu cầu thiết yếu cải thiện đời sống nhân dân, tránh nguy cơ tụt hậu về kinh tế; không ngừng phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc phòng; tiếp tục đổi mới, chỉnh đốn Đảng và xây dựng chính quyền, mặt trận, đoàn thể bảo đảm sự lãnh đạo hiệu quả của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện, tiền đề để huyện phát triển tốt hơn vào thời kỳ sau năm 2000”. Nghị quyết Đại hội xác định những chỉ tiêu chủ yếu: Phấn đấu đến năm 2000, GDP bình quân đầu người tăng gấp 2,0 lần so với năm 1990, cơ cấu giá trị GDP đạt tỷ lệ: 50% nông nghiệp, 50% công nghiệp- thương mại du lịch và dịch vụ. Sản lượng lương thực phấn đấu đạt 30.000 tấn. Giá trị 167
  6. BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN ỦY NÚI THÀNH sản xuất nông-lâm nghiệp tăng 3-3,5%. Giá trị công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp tăng 16-18%. Giá trị các ngành dịch vụ- thương mại tăng 15-17%. Thu ngân sách Nhà nước hàng năm tăng 15-20% và 100% xã tự cân đối ngân sách. Công tác gọi công dân nhập ngũ hàng năm đạt 100%. Phấn đấu đến năm 1997, cơ bản xoá đói, đến năm 2000 giảm còn 10% hộ nghèo. Tỷ lệ phát triển dân số đến năm 2000 là 1,7%. Tỷ lệ hộ sử dụng điện sinh hoạt 90%. Hạ tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng hàng năm bình quân 2,4%. Về xây dựng Đảng, phấn đấu đến năm 2000, có 65% tổ chức cơ sở đảng đạt danh hiệu trong sạch vững mạnh1. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện lần thứ XVI, nhiệm kỳ 1996 - 2000 gồm 33 ủy viên; bầu Đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng lần thứ XVI gồm 12 đồng chí. Tại hội nghị lần thứ Nhất, Ban Chấp hành đã bầu Ban Thường vụ Huyện ủy khóa XVI gồm 11 đồng chí2, đồng chí Nguyễn Kim Phương được bầu giữ chức vụ Bí thư Huyện ủy; các đồng chí Hồ Thị Thanh Lâm, Lương Văn Sơn được bầu làm Phó Bí thư Huyện ủy. Ngày 15-11-1996, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa IX đã ban hành Nghị quyết về việc chia tách Quảng Nam - Đà Nẵng thành 02 đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương là tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng, có hiệu lực từ ngày 1. Đại hội Đảng bộ huyện Núi Thành: “Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Núi Thành nhiệm kỳ 1996-2000”. Tài liệu lưu tại Văn phòng Huyện ủy Núi Thành, tr.04-05. 2. Ban Thường vụ gồm các đồng chí: Nguyễn Kim Phương, Hồ Thị Thanh Lâm, Lương Văn Sơn, Nguyễn Văn Khương, Nguyễn Thanh Quý, Trần Văn Cận, Nguyễn Vỹ, Hoàng Tấn Lên, Nguyễn Tiến, Nguyễn Xuân An, Đoàn Quang Bá. 168
  7. LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ HUYỆN NÚI THÀNH (1975 - 2020) 01-01-1997. Núi Thành là một trong 14 đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh Quảng Nam. Tiếp tục kế thừa, phát huy truyền thống đoàn kết đấu tranh cách mạng của Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng trong suốt 16 nhiệm kỳ qua, trên cơ sở Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ tỉnh, ngày 10-7-1997, Tỉnh ủy lâm thời ra Nghị quyết số 02/NQ-TU “Về việc triệu tập Đại hội Đại biểu tỉnh Quảng Nam lần thứ XVII”1. Trước đó, do yêu cầu nhiệm vụ, tháng 01-1997, đồng chí Hồ Thị Thanh Lâm, Phó Bí thư Huyện ủy được Ban Thường vụ Tỉnh ủy điều về giữ chức Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam. Đến tháng 6-1997, đồng chí Nguyễn Thanh Quý, Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy được bầu giữ chức vụ Phó Bí thư Huyện ủy; đồng thời bầu bổ sung 05 đồng chí vào Ban Chấp hành Đảng bộ huyện2. Thực hiện Nghị quyết số 02/NQ-TU và Hướng dẫn số 01-HD/TU ngày 10-7-1997 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Nam về việc “Hướng dẫn chỉ đạo đại hội đảng bộ cơ sở tiến tới Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII”, trong hai ngày 22 và 23-8-1997, Đại hội Đảng bộ huyện Núi Thành lần thứ XVII được tiến hành. Đồng chí Nguyễn Hữu Mai, Ủy 1. Nghị quyết nêu rõ: Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần này là Đại hội lần thứ XVII; Đại hội Đảng bộ các cấp tiến hành 1 vòng từ dưới lên, Đại hội Đảng bộ cơ sở hoàn thành trước ngày 10-8-1997, Đại hội Đảng bộ huyện, thị và Đảng bộ cấp trên cơ sở trực thuộc Tỉnh ủy hoàn thành trước ngày 25-8-1997. Đại hội Đảng bộ tỉnh sẽ tiến hành vào thượng tuần tháng 9-1997. 2. Gồm các đồng chí Trần Văn Công, Trần Văn Hưng, Đặng Ngọc Nhung, Đoàn Ngọc Thi và Phạm Văn Nên. Sau đó, đồng chí Trần Văn Công được bầu bổ sung vào Ban Thường vụ Huyện ủy. 169
  8. BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN ỦY NÚI THÀNH viên Ban Thường vụ, Trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy thay mặt Ban Thường vụ Tỉnh ủy dự và chỉ đạo Đại hội. Đại hội đã tập trung thảo luận các văn kiện trình Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XVII, bổ sung nhiệm vụ, giải pháp thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XVI giai đoạn 1997-2000 và bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ tỉnh. Đại hội đã bầu Đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XVII gồm 12 đại biểu chính thức và 01 đại biểu dự khuyết. Đại hội Đảng bộ huyện Núi Thành diễn ra trong bối cảnh tỉnh Quảng Nam trở thành đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương, đã và đang mở ra những vận hội phát triển mới cho huyện Núi Thành. Tuy vậy, bước vào năm thứ 2 thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XVI, trong điều kiện kinh tế - xã hội vẫn còn nhiều khó khăn. Nhiều chỉ tiêu đạt kế hoạch đề ra nhưng chưa tương xứng với tiềm năng vốn có của địa phương, nhất là trong điều kiện Núi Thành đang từng bước trở thành vùng kinh tế trọng điểm của tỉnh. Đặc biệt, từ giữa năm 1997, nền kinh tế của huyện còn chịu tác động mạnh của cuộc khủng hoảng kinh tế Đông Nam Á, ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường tiêu thụ hàng hóa, sản phẩm xuất khẩu. Đây thật sự là những thách thức to lớn đòi hỏi đảng bộ và nhân dân huyện nhà phải có nhiều cố gắng, nỗ lực để vượt qua khó khăn, thử thách, đưa nền kinh tế của huyện nhà phát triển. Trước tình hình đó, Đảng bộ huyện xác định: nông nghiêp vẫn là ngành kinh tế cơ bản của huyện, tuy nhiên tiềm 170
  9. LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ HUYỆN NÚI THÀNH (1975 - 2020) năng sản xuất lương thực vẫn rất hạn chế, bình quân lương thực đầu người chưa vượt mức 250kg/người. Do đó, nền nông nghiệp của huyện cần phải phát triển toàn diện cả về cây lương thực, cây công nghiệp, phát triển chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản và trồng rừng trên cơ sở chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp-nông thôn theo hướng hiện đại. 2. Đẩy mạnh phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa-hiện đại hóa; tạo chuyển biến tích cực về văn hóa-xã hội (01.1997-10.2000) Thực hiện Nghị quyết Đại hôi Đảng bộ huyện lần thứ XVI, XVII, từ năm 1997, quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng con vật nuôi được đẩy mạnh trên cơ sở tính toán giữa yêu cầu và khả năng, giữa sản xuất và thị trường theo hướng giảm dần tỷ trọng cây lương thực, tăng tỷ trọng cây công nghiệp, thực phẩm và nuôi trồng thủy sản, chuyển mạnh sang sản xuất hàng hóa, tạo nhiều sản phẩm xuất khẩu, giải quyết việc làm, phát triển hạ tầng cơ sở để làm biến đổi nhanh bộ mặt nông thôn. Nhờ đó, đến cuối năm 1997, tổng sản lượng lương thực của huyện đạt 27.800 tấn. Nghề cá tiếp tục được phát huy, năng lực đánh bắt thủy sản được đầu tư nâng tổng số tàu thuyền toàn huyện lên 1.034 chiếc với tổng công suất hơn 19.000CV, sản lượng hải sản khai thác đạt hơn 12.500 tấn, trong đó sản lượng tôm xuất khẩu đạt 210 tấn1. Sự phát triển mạnh mẽ của ngành thủy sản đã đem lại những hiệu ứng tích cực về mặt kinh tế-xã hội. Đời sống của bà con ngư dân được nâng lên đáng kể, nhiều gia đình trở nên giàu có, xây 1. Huyện ủy Núi Thành: “Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 1997, phương hướng nhiệm vụ năm 1998”. Tài liệu lưu tại Văn phòng Huyện ủy Núi Thành, tr. 01-02. 171
  10. BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN ỦY NÚI THÀNH dựng nhà cửa khang trang, mua sắm được các đồ dùng sinh hoạt đắt tiền đã khuyến khích bà con ở các xã ven biển vươn lên làm giàu chính đáng, bộ mặt nông thôn của huyện có dấu hiệu khởi sắc, thay đổi từng ngày. Từ năm 1998, trên cơ sở xác định mục tiêu đưa Núi Thành trở thành vùng kinh tế trọng điểm của tỉnh, Huyện ủy tập trung lãnh đạo quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ trên cơ sở phát triển ổn định ngành nông nghiệp, chú trọng đầu tư phát triển ngành thủy sản, bảo vệ môi trường1. Trên cơ sở phát huy tốt nguồn lực và khai thác hiệu quả lợi thế các vùng đã được quy hoạch như vùng phụ cận thị xã Tam Kỳ; vùng cát ven biển, ven sông; vùng trung du, miền núi; vùng đệm khu công nghiệp; vùng thị trấn thị tứ để chuyển đổi một phần diện tích trồng lúa có năng suất thấp sang trồng các cây công nghiệp ngắn ngày, cho hiệu quả kinh tế cao như dứa, cây thuốc lá, lạc, rau đậu các loại. Ở các xã vùng núi và trung du, huyện chủ trương đẩy mạnh phát triển kinh tế VAC, thí điểm đưa một số giống cây công nghiệp có giá trị cao như mè V6 thay thế mè địa phương, quế, dưa hấu, dứa, cây ăn quả vào gieo trồng theo hướng hình thành các vùng cây chuyên canh để đón đầu nhu cầu về rau, củ, quả phục vụ cho các khu công nghiệp hình thành trong tương lai. Để phục vụ tốt cho việc đẩy mạnh thâm canh cây trồng và bảo vệ mùa màng, huyện đã tổ chức khảo nghiệm và mở rộng diện tích 1. Huyện ủy Núi Thành: “Nghị quyết Hội nghị lần thứ XI Ban Chấp hành Đảng bộ huyện về phương hướng, nhiệm vụ năm 1998”. Tài liệu lưu tại Văn phòng Huyện ủy Núi Thành, tr. 01. 172
  11. LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ HUYỆN NÚI THÀNH (1975 - 2020) gieo trồng các giống cây trồng mới như lạc lai sen, VT35, các giống lúa ngắn ngày như MOCS... để đảm bảo cung ứng đầy đủ giống cho vụ Đông Xuân. Công tác thủy lợi được quan tâm, các tuyến kênh mương, hồ chứa, đập ngăn mặn được đầu tư tu sửa, xây mới như Hố Cái, Hố Mây, Trung Đạo, các tuyến kênh N5, Thái Xuân.... đã nâng diện tích sản xuất nông nghiệp đảm bảo chủ động nguồn nước từ 65% (1996) lên trên 86% (1999). Nhờ áp dụng nhiều biện pháp phù hợp, tổng sản lượng lương thực bình quân hằng năm đều đạt trên 27.600 tấn, tăng 2,5% mỗi năm, nâng năng suất từ 25 tạ/ha/vụ (1995) lên 28,78 tạ/ha/vụ (1999)1. Trong ngành chăn nuôi, huyện đã chủ trương phát triển đa dạng các loại con vật nuôi gắn với việc hình thành các vùng chăn nuôi chuyên canh như phát triển đàn trâu, bò ở vùng núi; đàn heo, bò sữa, đàn gà, vịt siêu thịt, siêu trứng ở vùng đồng bằng. Bên cạnh đó, huyện còn khuyến khích các địa phương vùng gò đồi phát huy lợi thế để phát triển đàn dê; đưa nhiều giống vật nuôi mới vào sản xuất như dê Bách Thảo, gà Tam Hoàng, gà siêu thịt, vịt siêu trứng... bước đầu đem lại hiệu quả kinh tế cao. Trong thời gian này, ngành chăn nuôi cũng đã phải đối mặt với nhiều thách thức, nhất là dịch lở mồm long móng xảy ra trên diện rộng nhưng nhờ chủ động phòng ngừa, kiểm soát chặt chẽ việc vận chuyển, giết mổ nên ngành chăn nuôi vẫn tiếp tục có bước phát triển đáng kể. Đàn trâu, bò tăng lên đáng kể nhất là sau khi địa phương thực hiện Chương trình cải tạo đàn bò bằng phương pháp lai sind. Tính 1. Huyện ủy Núi Thành: “Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Núi Thành lần thứ XVIII”. Tài liệu lưu tại Văn phòng Huyện ủy, tr.01-02. 173
  12. BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN ỦY NÚI THÀNH đến cuối năm 1999, giá trị ngành chăn nuôi đã chiếm 30% trong tổng giá trị sản xuất ngành nông nghiệp. Đầu tư phát triển toàn diện ngành thủy sản là một chương trình kinh tế quan trọng được quan tâm đầu tư trong những năm đầu đẩy mạnh công nghiệp hóa-hiện đại hóa ở huyện Núi Thành. Ngay từ năm 1997, Huyện ủy chủ trương tận dụng các nguồn vốn để từng bước hoàn thiện và đưa vào khai thác các dự án đầu tư cho chương trình đánh bắt xa bờ; đồng thời có chính sách động viên, khuyến khích, hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho ngư dân, nhất là về vay vốn phục vụ đóng mới tàu thuyền có công suất lớn, trang bị hiện đại và đa dạng hóa nghề cá. Đặc biệt, từ sau khi Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Nghị quyết số 03-NQ/TU ngày 01-8-1997 về định hướng chiến lược phát triển ngành thủy sản Quảng Nam giai đoạn 1997-2000, huyện đã kịp thời tranh thủ sự hỗ trợ của ngành thủy sản và của tỉnh để từng bước triển khai quy hoạch xây dựng và phát triển làng cá ở Tam Quang, Tam Hải, tạo điều kiện thuận lợi cho ngư dân phát triển sản xuất kinh doanh. Đồng thời với nghề đánh bắt, nghề nuôi trồng thủy sản cũng có bước phát triển đáng kể với tốc độ khá nhanh. Ủy ban nhân dân huyện chỉ đạo các cơ quan chuyên môn phối hợp với Chi cục Bảo vệ nguồn lợi thủy sản của tỉnh xây dựng kế hoạch xử lý tình hình dịch cho vùng nuôi tôm, đồng thời tổ chức nghiên cứu, đưa mô hình nuôi tôm phòng bệnh vào sản xuất thí điểm đạt hiệu quả, đưa một số loại thủy sản có giá trị như sò huyết, tôm sú vào sản xuất bước đầu đem lại hiểu quả 174
  13. LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ HUYỆN NÚI THÀNH (1975 - 2020) kinh tế cao, do nhu cầu con giống trên địa bàn ngày càng cao, nên huyện chủ trương đẩy mạnh nghề nuôi tôm sú giống để cung cấp giống tại chỗ, giảm chi phí sản xuất, giảm giá tôm post, tăng giá tôm mẹ cho ngư dân. Tính đến năm 2000, toàn huyện đã có 72 trại sản xuất tôm giống với vốn đầu tư bình quân 100 triệu/trại, lợi nhuận ròng đạt 100 triệu/trại. Đây là mô hình mới, đem lại hiệu quả kinh tế cao, đã mở ra triển vọng tốt trong việc khai thác mũi nhọn trong nuôi trồng thủy sản ở địa phương1. Cùng với đó, Dự án 773 về phát triển nuôi trồng thủy sản được đẩy mạnh gắn với thực hiện nuôi tôm nước lợ theo hướng thâm canh và bán thâm canh để nâng cao sản lượng nuôi trồng. Công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn lợi thủy sản cũng được huyện tăng cường; các cơ quan chức năng áp dụng những biện pháp tích cực và xử lý nghiêm các trường hợp sử dụng chất nổ, xung điện trong đánh bắt thủy sản để đảm bảo nguồn thủy sản phát triển một cách bền vững. Nhờ những giải pháp quyết liệt trên, trong những năm 19996-2000, năng lực khai thác thủy sản của huyện Núi Thành đã tăng nhanh cả về sản lượng và giá trị. Đến năm 2000, đã phát triển đội tàu thuyền lên 1.370 chiếc với tổng công suất hơn 25.000 CV, tăng 14.147 CV so với năm 1996. Đặc biệt, huyện đã triển khai đóng mới 14 tàu thuộc dự án khai thác hải sản xa bờ có tổng công suất 2.105 CV với tổng vốn đầu tư 15 tỷ đồng. Nhờ đầu tư phương tiện đánh bắt ngày càng hiện đại nên sản lượng hằng năm không ngừng tăng lên. Đến năm 1999 đã đạt 14.700 tấn, tăng hơn 1. Theo “Lịch sử phong trào nông dân và Hội nông dân huyện Núi Thành (1930-2015)”, sđ, tr.295. 175
  14. BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN ỦY NÚI THÀNH 5.600 tấn so với năm 1996. Nhờ đem lại hiệu quả kinh tế cao nên ngành nuôi trồng thủy sản ngày càng được nhân dân đầu tư vốn, mở rộng diện tích, nâng tổng diện tích nuôi trồng toàn huyện năm 2000 lên 1.065ha (tăng 225ha so với năm 1996). Năng suất bình quân đạt 6,7 tạ/ha, nâng tổng sản lượng năm 1999 lên 674 tấn, tăng gấp đôi so với năm 1996. Điểm đáng chú ý là một khối lượng lớn hải sản có giá trị xuất khẩu cao, chỉ tính riêng trong năm 2000 đã xuất khẩu được 1.850 tấn, thu về một lượng ngoại tệ khá lớn phục vụ cho đầu tư phát triển văn hóa-xã hội và cải thiện đời sống ngư dân. Đến năm 2000, kinh tế thủy sản đã dần trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, thế mạnh trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp-nông thôn của huyện Núi Thành. Lâm nghiệp được huyện xác định là một ngành kinh tế quan trọng, không chỉ có giá trị về kinh tế mà còn có ý nghĩa về phòng hộ. Vì vậy, ngay từ đầu năm 1997, huyện chủ trương đẩy mạnh xây dựng và thực hiện các dự án lâm nghiệp và giao rừng cho hộ và nhóm hộ quản lý, bảo vệ và khai thác. Đến năm 2000, có gần 2.700ha rừng được giao khoán cho nhân dân, nhất là diện tích rừng phòng hộ cho các đập chứa nước đã góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm của nhân dân trong việc bảo vệ môi trường sinh thái, hạn chế đáng kể tình trạng đốt phá rừng bừa bãi. Nghề trồng rừng cũng được nhân dân tập trung đầu tư phát triển theo hướng sản xuất tập trung với các loại cây có giá trị kinh tế cao như quế, chè... Các xã Tam Trà, Tam Mỹ, Tam Thạnh, Tam Sơn là những địa phương đi đầu trong phát triển kinh tế rừng, góp phần giải quyết việc làm, ổn định cuộc sống cho nhân dân địa phương. Đặc biệt, 176
  15. LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ HUYỆN NÚI THÀNH (1975 - 2020) các dự án trồng rừng như Dự án 4304, 327 được huyện chỉ đạo thực hiện hiệu quả, đảm bảo kế hoạch đề ra, bên cạnh đó công tác bảo vệ và khôi phục rừng ngập mặn ở các xã Tam Hải, Tam Quang cũng được coi trọng. Với những kết quả trên, huyện Núi Thành đã chuẩn bị đầy đủ các điều kiện để tiếp nhận và thực hiện Chương trình trồng rừng theo Dự án 5 triệu hécta rừng của Chính phủ (Dự án 661) từ năm 2000 trở đi. Thực hiện phát triển kinh tế đa dạng trong nông nghiệp- nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa, Huyện ủy Núi Thành đã lãnh đạo đúng hướng vấn đề đổi mới tổ chức quản lý trong nông nghiệp, nhất là việc xác lập các quan hệ sở hữu, sử dụng tư liệu sản xuất chủ yếu. Đến năm 2000, huyện đã hoàn thành sớm hơn kế hoạch giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng ruộng đất ổn định, lâu dài cho các hộ nông dân theo Nghị định số 64/NĐ-CP của Chính phủ. Bên cạnh đó, vai trò của Ủy ban nhân dân các xã, thị trấn trong chỉ đạo sản xuất nông nghiệp cũng được tăng cường thông qua việc thành lập các Ban Nông nghiệp xã, nhất là trong điều kiện đã chuyển đổi chức năng của hợp tác xã hoặc giải thể những hợp tác xã yếu kém, hoạt động không hiệu quả. Huyện chủ trương tập trung mọi nguồn lực để tạo điều kiện thuận lợi cho những hợp tác xã đã chuyển đổi mô hình hoạt động theo đúng chức năng, nhiệm vụ của hợp tác xã kiểu mới theo tinh thần Nghị quyết số 11-NQ/TU của Tỉnh ủy. Theo đó, những hợp tác xã chuyển đổi đã phát huy được vai trò “bà đỡ” cho sản xuất nông nghiệp thông qua việc tăng cường thực hiện chức năng dịch vụ cho kinh tế hộ như công tác khuyến nông, chuyển giao tiến bộ khoa học-kỹ thuật vào sản xuất, tổ chức các dịch 177
  16. BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN ỦY NÚI THÀNH vụ thiết yếu như thủy lợi, bảo vệ thực vật, giống con vật nuôi, mở mang các ngành nghề mới. Nhờ hoạt động với chức năng, cơ chế mới cùng với việc hoàn thành giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hợp tác xã chuyển đổi đã góp phần thúc đẩy kinh tế hộ phát triển mạnh, từng bước cải thiện đời sống của nhân dân. Kết quả trên đã tạo nên những động lực to lớn trong xây dựng quan hệ sản xuất mới ở nông thôn, đưa đến sự phát triển vượt bậc của kinh tế nông nghiệp - nông thôn trên con đường công nghiệp hóa-hiện đại hóa của huyện Núi Thành trong giai đoạn 1997 - 2000. Ngay từ đầu nhiệm kỳ, khi xác định cơ cấu kinh tế trong những năm đầu đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hóa-hiện đại hóa ở Núi Thành, ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp được Huyện ủy xác định là ngành đặc biệt quan trọng, tạo động lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa ở địa phương và từng bước nâng cao tỷ trọng trong giá trị GDP của huyện. Xuất phát từ định hướng trên, từ năm 1997, Huyện ủy đã chỉ đạo các cấp chính quyền coi trọng phát triển các ngành công nghiệp truyền thống, tiểu thủ công nghiệp và các loại hình sản xuất kinh doanh ở nông thôn như chế biến nông sản, mộc dân dụng, vật liệu xây dựng, cơ khí, may mặc, vận tải. Một mặt định hướng và khuyến khích các doanh nghiệp, hộ gia đình và cá nhân đầu tư vốn, mở rộng quy mô sản xuất, áp dụng tiến bộ khoa học-kỹ thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm từ các mặt hàng thủ công mỹ nghệ, cơ khí, vật liệu xây dựng, chế biến hàng nông-lâm sản, dịch vụ điện-điện tử. Nhằm khai thác có hiệu quả nguồn nguyên liệu đá tại chỗ, từ năm 1997, huyện đã tiến hành một bước việc quản lý và hướng dẫn tổ 178
  17. LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ HUYỆN NÚI THÀNH (1975 - 2020) chức khai thác các loại đá, cát sỏi trên địa bàn vừa đảm bảo nâng cao số lượng khai thác vừa đảm bảo vệ sinh môi trường. Đối với các xã vùng núi như Tam Trà, Tam Sơn, Tam Thạnh, huyện chủ động xây dựng và tiến hành các biện pháp hỗ trợ nhân dân phát triển các cơ sở chế biến nông lâm sản tại chỗ để chuyển dần sang sản xuất hàng hóa. Trong điều kiện nguồn vốn của địa phương còn khó khăn, huyện đã ban hành nhiều cơ chế trên cơ sở chính sách của Nhà nước về thu hút các đối tác đầu tư phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn, trong đó ưu tiên cho các dự án về công nghiệp chế biến nông sản, thủy hải sản, dịch vụ hậu cần nghề cá và các dự án giải quyết nhiều lao động để tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trong quá trình thu hút đầu tư, huyện chủ trương phát huy hiệu quả kinh tế gắn với khai thác hợp lý nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường. Cùng với đó, tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích phát triển kinh tế hợp tác trong công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp và nghề cá, có cơ chế hợp lý để huy động ngồn vốn trong nhân dân đầu tư phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp địa phương. Với những định hướng, giải pháp đúng đắn, những năm 1996-2000, sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của huyện Núi Thành đã giữ được nhịp độ phát triển ổn định và một số lĩnh vực đạt tốc độ tăng trưởng khá. Tổng giá trị công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp năm 2000 đã đạt 212,3 tỷ đồng, tăng gấp đôi so với năm 1996, trong đó công nghiệp quốc doanh đạt 162,1 tỷ đồng (chiếm 76,35%), công nghiệp ngoài quốc doanh (do huyện quản lý) đạt 50,2 tỷ đồng. Các ngành đã đổi mới phương thức hoạt động sản xuất 179
  18. BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN ỦY NÚI THÀNH kinh doanh, từng bước nâng cao hiệu quả và thích ứng với cơ chế thị trường, nhiều sản phẩm được thị trường ưa chuộng và tạo được thương hiệu như khai thác đá xây dựng, cơ khí sửa chữa, chế biến hải sản, mây tre, sản phẩm mỹ nghệ, hàng may mặc.... Đáng chú ý, khu vực công nghiệp ngoài quốc doanh phát triển năng động, phát huy được những lợi thế trong sản xuất kinh doanh nên đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, năm 2000 là 15%, trong khi khu vực công nghiệp quốc doanh chỉ đạt tốc độ tăng trưởng là 6,8%. Nhằm tăng cường năng lực sản xuất kinh doanh của các ngành, thúc đẩy nhanh hơn sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa nông thôn, với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, huyện đã tranh thủ tối đa nguồn vốn trong Dự án VIE/95-01 về phát triển hạ tầng nông thôn cùng với sự chung tay góp sức của nhân dân để tập trung nguồn lực phát triển hệ thống giao thông, thủy lợi của huyện, nhất là 10 xã vùng khó khăn, chú trọng những tuyến đường trọng điểm như tuyến Bắc sân bay Chu Lai, cầu cảng số 2, đường 617, 618, sửa chữa tổng thể cầu Nguyễn Phùng, cầu Tam Hòa, đường Chợ Trạm-Tam Trà, Tam Sơn-Ngã ba An Lâu (nay thuộc xã Tam Lãnh, huyện Phú Ninh). Mở rộng hệ thống điện hạ thế ở các xã đã có điện, tập trung xây dựng hệ thống điện cho các xã Tam Tiến, Tam Thạnh, Tam Trà và Tam Sơn. Tính đến năm 2000, 100% xã, thị trấn trên địa bàn huyện đã có điện với 90% số hộ sử dụng điện, tăng 30% so với năm 1996. Kiên cố hóa kênh mương để phục vụ sản xuất nông nghiệp là một nhiệm vụ quan trọng, được huyện chú trọng đầu tư trong giai đoạn 1996 - 2000, trong đó trọng điểm là các công trình: 180
  19. LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ HUYỆN NÚI THÀNH (1975 - 2020) kênh mương, đập Hố Mây, Hố Cái, Trung Đạo và hoàn thành các công trình xây lắp kênh Thái Xuân và bê tông hóa kênh mương Phú Ninh, khu vực Tam Xuân để đảm bảo tăng diện tích sản xuất nông nghiệp được chủ động nước tưới trong cả 3 vụ. Tiếp tục thực hiện chiến lược tăng tốc của ngành bưu chính viễn thông, huyện Núi Thành đã đẩy nhanh hiện đại hóa mạng lưới này trên toàn hệ thống: mở rộng tổng đài điện tử, cáp quang hóa nội hạt, mạng truyền dẫn; phát triển thông tin nông thôn và các trang thiết bị chuyên dùng hiện đại, phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu thông tin đa dạng của nhân dân. Đến năm 2000, 15/15 xã, thị trấn đã có điện thoại, đạt mật độ 1,1 máy/100 người dân. Từ năm 1996 - 2000, nhiều công trình phúc lợi xã hội, các công trình văn hóa-xã hội được xây dựng, hoàn thành, đưa vào sử dụng đã phát huy hiệu quả kinh tế-xã hội như: Công trình nước sạch, Trường PTTH Núi Thành, Bệnh viện, Khu vui chơi thiếu nhi; hệ thống chiếu sáng công cộng; các trường học ở các xã Tam Hải, Tam Thạnh, Tam Tiến, Tam Giang, Tam Xuân II, Trường Trần Quốc Toản..... Nhiều trụ sở làm việc ở cấp huyện và cơ sở được xây dựng, đáp ứng tốt hơn nhu cầu làm việc, quản lý kinh tế-xã hội ở địa phương. Tính chung trong 5 năm (1996-2000), tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản đạt 205,8 tỷ đồng, trong đó tập trung chủ yếu ở các lĩnh vực: xây dựng cơ sở công nghiệp (80,52 tỷ đồng), điện (32,69 tỷ đồng), thủy lợi 37,1 tỷ đồng, giao thông (21,39 tỷ đồng).... Trên cơ sở quy hoạch tổng thể, huyện tập trung 181
  20. BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN ỦY NÚI THÀNH nguồn vốn để xây dựng khu vực trọng điểm có vai trò chiến lược về phát triển kinh tế hàng hóa và thương mại, dịch vụ như khu vực dự kiến xây dựng Khu Kinh tế mở Chu Lai, Chợ Trạm, Kỳ Chánh và Bà Bầu. Thị trấn Núi Thành được quy hoạch trở thành trung tâm chính trị-kinh tế-văn hóa của huyện đồng thời xây dựng quy hoạch các khu dân cư theo hướng thuận lợi cho xây dựng nông thôn mới. Từ năm 1997, sau khi Tam Kỳ được chọn làm Tỉnh lỵ tỉnh Quảng Nam, huyện Núi Thành với những lợi thế về đất đai, tài nguyên du lịch, nhất là điều kiện về giao thông như sân bay Chu Lai, cảng Kỳ Hà... đã từng bước xác định thương mại-dịch vụ-du lịch là lĩnh vực đầy tiềm năng và có thể trở thành động lực trong cơ cấu kinh tế của huyện. Với định hướng đó, trong giai đoạn 1996-2000, lĩnh vực này đã có bước phát triển khá năng động và đa dạng trong các thành phần kinh tế. Trên cơ sở cụm công nghiệp Tam Kỳ - Chu Lai - Kỳ Hà đã được Trung ương xác định, với sự ủng hộ của tỉnh, cảng Kỳ Hà đã được khôi phục và mở rộng hoạt động theo hướng cảng công nghiệp-thương mại và du lịch, một cầu cảng mới đã được xây dựng và đưa vào hoạt động đã cho phép tàu có tải trọng lớn cập bến. Bên cạnh đó, huyện còn khuyến khích phát triển thương mại, dịch vụ trong nhân dân gắn với sự ra đời các cụm thương mại ở thị trấn Núi Thành, Tam Nghĩa, Tam Hiệp, Tam Quang... đã từng bước đảm bảo phục vụ nhu cầu phát triển của các khu công nghiệp, nhất là Khu Kinh tế mở Chu Lai từ sau năm 2000. Về du lịch, Núi Thành là một trong những địa phương 182
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0