TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 24 - Thaùng 11/2014<br />
<br />
<br />
GIÁO DỤC TRONG THỜI ĐẠI KINH TẾ TRI THỨC<br />
<br />
LÊ NGỌC TRÀ(*)<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Chuyển từ nền kinh tế cũ sang nền kinh tế tri thức là một bước ngoặt lớn. Chuyển từ<br />
kiểu giáo dục truyền thống sang kiểu dạy nghĩ, dạy tư duy sáng tạo đòi hỏi những nhà giáo<br />
dục phải có những nổ lực lớn. Vấn đề chính không phải ở chỗ nêu lên tầm quan trọng của<br />
vấn đề mà là ở chỗ làm thế nào, bằng cách nào phát triển cho được khả năng tư duy sáng<br />
tạo của học sinh. Điều này đòi hỏi những nghiên cứu cụ thể, có khả năng ứng dụng trong<br />
nhà trường. Đây cũng là thách thức đối với giáo dục trong thế kỷ mới.<br />
Từ khóa: kinh tế tri thức, giáo dục truyền thống, dạy nghĩ, dạy tư duy sáng tạo, giáo<br />
dục trong thế kỷ mới.<br />
<br />
ABSTRACT<br />
It is a turning point to transform an old style economy into the knowledge economy. To<br />
transform a traditional education into the education that trains people for creative<br />
thinking, requires a great effort made by the educators. The importance of the issue is no<br />
doubt; however, how we should do and what measures we should take to boost the<br />
capability of students’ creative thinking become urgent matters. This needs many<br />
researches possible to be applied in the schools. It is also a challenge for the education in<br />
the new century.<br />
Keywords: knowledge ecomomy, traditional education, train people for creative<br />
thinking, education in the new century.<br />
<br />
(*)<br />
Chúng ta đang sống trong một thời đại ra sản phẩm. Sản phẩm chất xám trở thành<br />
có những thay đổi quan trọng và nhiều khi hàng hóa có sức cạnh tranh vượt trội, mang<br />
mang tính đột biến. Một trong những dấu lại sự giàu có mau lẹ. Kinh tế tri thức là<br />
hiệu đang gây chú ý toàn cầu đó là sự xuất nền kinh tế biến đổi nhanh chóng, nhiều<br />
hiện của nền kinh tế tri thức và xã hội tri khi bất ngờ giống như trong công nghệ<br />
thức. Xã hội ấy đang hình thành, toàn bộ thông tin, ở đó tiêu chuẩn cơ bản là sự thay<br />
hình ảnh về nó chưa hiện ra đầy đủ nhưng đổi chứ không phải là sự cố định và "Con<br />
tính chất chung nhất của nó hình như đã đường phía trước: đó là xem xét lại một<br />
được nhận biết: cùng với vốn, tài nguyên cách cơ bản và luôn luôn cập nhật hóa"<br />
và lao động, tri thức đang trở thành một (Bill Gates).<br />
nguồn lực lớn, phát triển mạnh mẽ, có xu Đặc điểm trên đây của xã hội tri thức<br />
hướng lấn át và thay thế các nguồn lực cũ, và nền kinh tế tri thức kéo theo và đòi hỏi<br />
chi phối cơ cấu của nền kinh tế, thu hút đầu sự thay đổi cách tư duy của con người. Đó<br />
tư và mang lại nguồn lợi khổng lồ. Chất sẽ là kiểu tư duy "đa thanh", phi tuyến tính,<br />
xám đẻ ra chất xám giống như nhà máy đẻ linh hoạt, không câu nệ vào những khuôn<br />
mẫu đã định, biết dung nạp hơn là loại bỏ,<br />
(*)<br />
GS.TSKH<br />
biết chấp nhận cái khác mình, cái không<br />
<br />
5<br />
lường được, chấp nhận khả năng có thể sai, Trước hết có lẽ cần thay đổi quan niệm<br />
biết tự điều chỉnh, tự thích nghi và không về nội dung giảng dạy trong nhà trường,<br />
ngừng tìm kiếm, sáng tạo. Đó là kiểu tư đặc biệt là mối quan hệ giữa dạy tri thức và<br />
duy đặt cơ sở trên sự tư duy lại, trên việc dạy tư duy. Không ai phủ nhận rằng trường<br />
coi trọng cách làm, cách tiếp cận hơn là đạt phổ thông phải mang lại cho học sinh một<br />
tới một kết quả cụ thể nhất thời. Tư duy ấy vốn tri thức nhất định làm nền tảng cho<br />
có phần gần với tư duy tiểu thuyết kiểu việc tiếp thu những tri thức khác khi các<br />
Dostoevsky mà nhà vật lý thiên tài Einstein em bước vào đời hoặc tiếp tục học cao hơn.<br />
đã nhận thấy khi ông nói rằng tác phẩm của Tuy nhiên nếu cho rằng mục đích cao nhất<br />
văn hào Nga vĩ đại đã mang lại cho ông với của trường phổ thông, bên cạnh việc giáo<br />
tư cách là nhà vật lý nhiều điều bổ ích hơn dục nhân cách, là cung cấp cho học sinh<br />
là những công trình khoa học của chính những kiến thức cụ thể về các môn học, thì<br />
người đồng hương của ông là nhà toán học có lẽ chưa hoàn toàn chính xác. Mới đây<br />
nổi tiếng người Đức Gauss. trong một báo cáo quan trọng trình bày tại<br />
Thế giới thay đổi, nhận thức thay đổi, hội thảo quốc tế về đổi mới dạy học do cơ<br />
giáo dục cũng phải thay đổi theo. Trường quan giáo dục của Liên hợp quốc tổ chức<br />
học là nơi mang lại cho người ta tri thức. tại Bắc Kinh, hai giáo sư người Anh là<br />
Nền kinh tế tri thức trước hết là cần những A.Pilot và J.Osborne đã nêu lên 8 "huyền<br />
người có tri thức, bởi vậy trong bất cứ hoàn thoại" mà các trường học vẫn đeo đuổi một<br />
cảnh nào vai trò của giáo dục đào tạo trong cách vô vọng trong đó rõ rệt nhất là xu<br />
thời đại mới cũng hết sức quan trọng. Tuy hướng muốn bắt học sinh nhớ càng nhiều<br />
nhiên, giáo dục trong xã hội tri thức vẫn có sự kiện, kiến thức càng tốt. Theo các tác<br />
những tính chất khác. Nền kinh tế tri thức giả, việc ghi nhớ máy móc các kiến thức và<br />
đòi hỏi không chỉ sự tăng trưởng của số sự kiện là không cần thiết vì chúng sẽ<br />
lượng tri thức, số lượng người có học mà nhanh chóng bị lãng quên. Điều quan trọng<br />
nó yêu cầu phải có sự thay đổi căn bản cách không phải là dạy cho học sinh biết cái gì<br />
chiếm lĩnh và sử dụng tri thức của người mà là giúp trẻ hiểu tại sao và bằng cách<br />
đào tạo. Người có học phải là người có khả nào để biết được điều đó.<br />
năng học tập suốt đời, không ngừng nâng Dạy tri thức phải đạt được cả hai yêu<br />
cao trình độ của mình để cập nhật hóa, để cầu: cung cấp kiến thức và cách tư duy. Ở<br />
theo kịp và thích nghi với những biến đổi đây tri thức vừa là mục đích vừa là chất<br />
đầy ngẫu hứng của nền kinh tế thị trường, liệu, phương tiện. Không thông qua những<br />
để không bị lệ thuộc vào những giáo điều, tri thức cụ thể không lấy gì để dạy cách<br />
những công thức cũ, mạnh dạn sáng tạo nghĩ, cách tư duy. Nhưng nếu chỉ cung cấp<br />
theo phương pháp "thử và sai", để đi đến những kiến thức cụ thể không thôi thì nhà<br />
một lời giải tối ưu nhưng đồng thời cũng trường rõ ràng không hoàn thành được<br />
không bao giờ cho rằng đó là duy nhất nhiệm vụ của mình, nhất là trong thời đại<br />
đúng, luôn luôn đúng. Nói tóm lại, đó là hiện nay, khi loài người đã tích lũy được<br />
những người chủ động, sáng tạo, chấp nhận một khối lượng kiến thức khổng lồ; khối<br />
sự thay đổi và có khả năng tự thay đổi. lượng kiến thức ấy ngày một tăng theo cấp<br />
Muốn có những con người như vậy, nhà số nhân và được truyền bá bằng nhiều con<br />
trường phải thay đổi cách dạy và cách học. đường khác nhau ngoài nhà trường. Trong<br />
<br />
6<br />
hoàn cảnh ấy, nhà trường buộc phải lựa sinh phát triển năng lực tự học và khả năng<br />
chọn một trong hai con đường: hoặc là làm học tập suốt đời là những điểm yếu của học<br />
theo cách cũ, chạy theo hướng mở rộng kiến sinh, sinh viên Việt Nam hiện nay, đồng<br />
thức bằng cách tiếp tục nhồi nhét thông tin, thời cũng là những vấn đề được xem là ưu<br />
dạy thêm, học thêm hoặc là đi theo lối khác, tiên hàng đầu trong các chương trình hoạt<br />
mạnh dạn cắt giảm phần kiến thức, xem động của các tổ chức giáo dục thuộc Liên<br />
kiến thức như chất liệu để dạy cách nghĩ, hợp quốc và ở các nước hiện nay. Tự học<br />
cách cảm, cách tư duy. Ở đây học sinh học không phải là ngồi ở nhà học thuộc bài ghi<br />
cách đặt câu hỏi nhiều hơn là cách trả lời trên lớp mà tự học là tự tìm tòi, tự đặt câu<br />
các câu hỏi. Con đường thứ hai chú trọng hỏi, tự tìm hiểu để nắm được vấn đề, hiểu<br />
đến “cách giải bài toán”, đến cách để có sâu hơn, thậm chí hiểu khác đi bằng cách<br />
được tri thức hơn là bản thân tri thức. sáng tạo, đi đến một đáp số khác, kết luận<br />
Một quan niệm như vậy về nội dung khác. Muốn có một năng lực tự học như<br />
giảng dạy ở trường sẽ tạo điều kiện giúp vậy, cách dạy và nội dung giảng dạy của<br />
chúng ta khắc phục được tình trạng “quá thầy ở trên lớp cũng phải khác.<br />
tải” hiện nay, đồng thời giúp các nhà quản Đáng tiếc là hiện nay ở Việt Nam, tình<br />
lý giáo dục cân nhắc kỹ lưỡng hơn khi trạng dạy và học theo lối cũ, nặng về rèn<br />
“giảm tải”, bởi vì cho dù cắt 15% hay 30% luyện trí nhớ chứ không phải trí thông<br />
chương trình mà quan niệm chung không minh, sáng tạo, nặng về học thuộc lòng<br />
thay đổi thì thực chất sự thay đổi ở đây những kiến thức được cung cấp sẵn chứ<br />
cũng chỉ là về số lượng! Tình trạng quá tải không phải là rèn luyện tư duy phê phán,<br />
đang là một vấn nạn lớn của giáo dục khả năng “giải bài toán” đang khá phổ<br />
Việt Nam hiện nay. Trung bình mỗi học biến. Ở trường phổ thông học sinh gọi các<br />
sinh lớp 12 ở Việt Nam mỗi tuần phải học môn Lịch sử, Địa lý, Giáo dục công dân,<br />
từ 30 đến 40 tiết trên lớp. Sau đó mỗi em thậm chí cả Sinh học bằng một cái tên<br />
phải đi học thêm vào buổi chiều và buổi tối chung là môn thuộc lòng. Còn môn Văn<br />
ở các trung tâm luyện thi hay dạy kèm từ chương thì vì không thể thuộc lòng được<br />
24 đến 30 tiết nữa, kể cả vào chủ nhật. Như nên các em dựa vào các bài "văn mẫu".<br />
vậy nếu tính trong tuần có 6 ngày, mỗi Các bài "văn mẫu" này do thầy cô giáo<br />
ngày các em có 12 giờ để học và nghỉ và soạn và học sinh được yêu cầu phải làm<br />
mỗi tuần có 72 giờ tất cả thì những học đúng theo nội dung và cách thức do thầy<br />
sinh này phải học ở trên lớp từ 60 đến 70 giáo đề ra. Nếu em nào làm không đúng<br />
giờ! Kết quả là học sinh không có giờ tự "mẫu" sẽ bị điểm kém. Vì vậy, để đạt điểm<br />
học ở nhà. Riêng các em học ở các trường cao học sinh không cần phải phát huy cảm<br />
chuyên, ở các lớp song ngữ (tiếng Anh xúc, trí tưởng tượng, sáng tạo mà chỉ cần<br />
hoặc tiếng Pháp) thì số giờ học với thầy ở làm theo những bài văn mẫu mà thầy cô<br />
trên lớp còn nhiều hơn nữa. Tình trạng này đưa ra. Tình trạng này đã được công khai<br />
đã dẫn đến hiện tượng “bệnh tâm thần” phê phán trên báo chí.<br />
trong học sinh, nhất là học sinh các trường Cũng theo khuynh hướng đề cao việc<br />
chuyên, mà gần đây báo chí có nêu lên. học thuộc lòng như vậy, trước đây Bộ<br />
Hiểu nội dung giảng dạy ở trường như GD&ĐT đã cho xuất bản những bộ đề thi<br />
là dạy nghĩ, dạy tư duy cũng sẽ giúp học với những lời giải sẵn dùng cho các thí<br />
<br />
7<br />
sinh thi vào đại học. sợ quy định của chương trình, sợ kết quả thi<br />
Thí sinh chỉ cần học thuộc lòng mấy cử. Rốt cuộc là làm y như quy định. Tình<br />
trăm bộ đề thi với cách giải sẵn như vậy là trạng đó khiến cho giờ học bớt hứng thú,<br />
sẽ làm được bài, vì theo qui định của Bộ học sinh không được rèn luyện khả năng tư<br />
GD&ĐT, đề thi tuyển sinh không được vượt duy sáng tạo nhiều chiều, khả năng nhận<br />
ra ngoài chương trình, tức là vượt ra khỏi biết cuộc sống trong sự đa dạng và có vấn<br />
các vấn đề được thâu tóm trong các bộ đề. đề của nó, khả năng đặt câu hỏi và trả lời<br />
Điều này đã dẫn đến một tình trạng hết câu hỏi theo cách của mình.<br />
sức đáng buồn là trong tất cả các kỳ thi cử, Dạy nghĩ, dạy tư duy không nhất thiết<br />
kể cả ở trường phổ thông và đại học, học đòi hỏi phải cung cấp thật nhiều kiến thức.<br />
sinh tìm cách mang vào phòng thi tất cả Nhiều khi chỉ cần giảng dạy kỹ một câu<br />
những gì đã được chuẩn bị sẵn ở nhà. Rất thơ, một khổ thơ còn giúp học sinh hiểu về<br />
nhiều học sinh dùng máy photocopy in lại tác giả, hiểu văn chương, yêu cái đẹp, yêu<br />
các bộ đề thi, các bài "văn mẫu" sách giáo cuộc đời hơn là dạy tràn lan cả bài thơ, cả<br />
khoa, thu nhỏ lại, dấu trong mình và mang nhiều tác phẩm. Ở đây việc phát triển trí<br />
vào phòng thi để sử dụng. Có em mang tưởng tượng của học sinh là điều rất quan<br />
trong mình hàng ngàn trang sách thu nhỏ, trọng. Thiếu trí tưởng tượng phong phú con<br />
chữ li ti. Thậm chí gần đây trong nhiều người có thể bị què quặt cả về phương diện<br />
trường lượng thí sinh còn dấu mang theo nhận thức và tâm hồn. Không có trí tưởng<br />
máy diện thoại di động để liên lạc với bên tượng sẽ không có sáng tạo mà chỉ có sự<br />
ngoài. Người nhà sẽ căn cứ vào các bộ đề thi lắp ghép các trí thức rời rạc. Không có trí<br />
để mách bảo cách làm bài cho thí sinh thông tưởng tượng, con người cũng không được<br />
qua thiết bị nhắn tin của điện thoại di động. rèn luyện để có thể làm điều thiện, bởi vì<br />
Đó là hậu quả tất yếu của một lối dạy nói như nhà thơ Anh P.B. Shelly "Công cụ<br />
cũ lối "học vẹt", nặng về cung cấp kiến vĩ đại của lòng tốt là trí tưởng tượng". Ông<br />
thức, học thuộc lòng hơn là phát huy óc lập luận rằng "Một người muốn trở thành<br />
sáng tạo của học sinh. thật tốt thì phải có khả năng tưởng tượng<br />
Để có được những con người thích ứng mạnh mẽ và hợp lý, anh ta phải biết đặt<br />
với bản chất thay đổi liên tục và mau lẹ của mình vào vị trí của người khác cũng như<br />
nền kinh tế tri thức, trong quá trình kết hợp nhiều người khác; có như thế nỗi đau và<br />
kiến thức và dạy tư duy, cần hình thành cho niềm vui của đồng loại mới trở thành nỗi<br />
học sinh một nếp tư duy sáng tạo, một cách đau và niềm vui của chính anh ta"(1). Việc<br />
ứng xử thông minh, có bản lĩnh đối với các phát triển óc tưởng tượng cho học sinh đặc<br />
tri thức được trình bày. Không có một thái biệt cần thiết trong thời đại toàn cầu hóa<br />
độ như vậy, nội dung kiến thức dễ bị tuyệt kinh tế, thời đại phổ cập của máy tính, vì<br />
đối hóa, được xem là chân lý duy nhất, sách con người càng sử dụng rộng rãi các<br />
giáo khoa được coi là “pháp lệnh”, thầy phương tiện kỹ thuật số bao nhiêu thì càng<br />
giáo có nghĩa vụ truyền thụ, học sinh chỉ bị lệ thuộc vào chúng bấy nhiêu, càng tuân<br />
việc ghi chép tiếp thu. Nhiều trường hợp theo những chuẩn mực tự động hóa bao<br />
mọi người thấy nên làm thế này, thế kia mới nhiêu, càng dễ mất đi óc sáng kiến và bản<br />
là hay, nhưng không ai dám đổi. Học sinh sắc cá nhân bấy nhiêu.<br />
sợ thầy, thầy sợ Sở, Sở sợ sách giáo khoa, Tiếp theo việc đổi mới quan niệm<br />
<br />
8<br />
giảng dạy, cần thiết kế lại chương trình. hình thức tạo điều kiện cho thầy giáo dạy<br />
Cần có một cái nhìn chung xuyên suốt sáng tạo, học sinh nghĩ sáng tạo.<br />
chương trình từ tiểu học đến THPT, nhất là Chuyển từ nền kinh tế cũ sang nền<br />
giữa THCS và THPT. Chương trình mỗi kinh tế tri thức là một bước ngoặt lớn.<br />
cấp sẽ đảm nhận một phần trong quá trình Chuyển từ kiểu giáo dục truyền thống sang<br />
trang bị và phát triển tư duy sáng tạo cho kiểu dạy nghĩ, dạy tư duy sáng tạo đòi hỏi<br />
học sinh suốt những năm ở trường phổ những nhà giáo dục phải có những nổ lực<br />
thông. Không có một chương trình được lớn. Vấn đề chính không phải ở chỗ nêu<br />
quan niệm thống nhất và được tính toán cụ lên tầm quan trọng của vấn đề mà là ở chỗ<br />
thể từng bước như vậy, mọi nỗ lực của làm thế nào, bằng cách nào phát triển cho<br />
từng thầy giáo và từng trường đều khó được khả năng tư duy sáng tạo của học<br />
mang lại kết quả như mong muốn. sinh. Điều này đòi hỏi những nghiên cứu<br />
Và cuối cùng là sách giáo khoa. Phải cụ thể, có khả năng ứng dụng trong nhà<br />
có những bộ sách giáo khoa viết theo nhận trường. Đây cũng là thách thức đối với<br />
thức mới, chương trình mới. Nhận thức, giáo dục trong thế kỷ mới.<br />
chương trình thì thống nhất nhưng khi thể<br />
hiện, mỗi bộ sách giáo khoa có thể có một<br />
Chú thích:<br />
cách làm riêng. Bởi vậy không nên chỉ có<br />
(1) Shelly P.B<br />
một bộ sách giáo khoa dùng cho cả nước.<br />
Sự đa dạng của sách giáo khoa cũng là một<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
<br />
<br />
1. Education Innovation and Information, No 103, June 2000, International Bureau of<br />
Education (IBE), UNESCO, Geneva.<br />
2. Gates Bill (1996), The Road ahead - completely revised and up-to-date,<br />
Penguin Book, USA.<br />
3. What New Economy, Technology Renew, January/ February 2001, USA.<br />
<br />
* Ngày nhận bài: 20/10/2014. Biên tập xong: 05/11/2014. Duyệt đăng: 07/11/2014<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
9<br />