intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giao lưu và tiếp xúc văn hóa tộc người qua quan hệ hôn nhân (Khảo sát thực tế ở huyện Tương Dương, Nghệ An)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

72
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết trình bày về nghiên cứu hôn nhân đa tộc người và vấn đề quan hệ hôn nhân ở người Thái miền tây Nghệ An; tình trạng hôn nhân đa tộc người ở Bản Ang; các yếu tố tác động đến quan hệ hôn nhân đa tộc người; những vấn đề đặt ra trong quan hệ hôn nhân đa tộc người...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giao lưu và tiếp xúc văn hóa tộc người qua quan hệ hôn nhân (Khảo sát thực tế ở huyện Tương Dương, Nghệ An)

  1. NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI Bản làng huyện Tương Dương GIAO LƯU VÀ TIẾP XÚC VĂN HÓA TỘC NGƯỜI QUA QUAN HỆ HÔN NHÂN (Khảo sát thực tế ở huyện Tương Dương, Nghệ An) n Bùi Minh Hào(*) 1. Nghiên cứu hôn nhân đa tộc người và vấn đề quan hệ hôn nhân ở người Thái miền Tây Nghệ An rong thời đại toàn cầu hóa, quá trình giao T lưu, tiếp xúc văn hóa giữa các cộng đồng tộc người ngày càng mạnh mẽ nên tình trạng hôn nhân đa tộc trở nên phổ biến. Hôn nhân Trong nhiều năm trở lại đây, nhiều nghiên cứu khoa học xã hội đã quan tâm đến các vấn đề giao lưu và tiếp biến văn hóa qua quan hệ giữa các tộc người với nhau là vấn đề quan trọng hôn nhân giữa các cộng đồng với nhau. Thực ra, đây không phải là vấn đề mới trong nghiên cứu khoa học xã hội, đặc biệt là trong liên quan đến quan hệ dân tộc và quá trình biến đổi lĩnh vực dân tộc học. Từ khi xuất hiện, ngành văn hóa tộc người. Huyện Tương Dương nói riêng và dân tộc học đã đặt nhiều mối quan tâm về vấn các huyện ở miền núi Nghệ An là khu vực có nhiều đề hôn nhân và xem trao đổi hôn nhân là một dân tộc cùng sinh sống xen kẽ với nhau. Trong phần quan trọng trong nghiên cứu về mối những năm gần đây, quan hệ hôn nhân giữa các tộc người xuất hiện và ngày càng phổ biến. Nó là một quan hệ giữa các thị tộc, bộ lạc trong xã hội biểu hiện cho sự thay đổi trong quan hệ dân tộc nguyên thủy. Đặc biệt là các cơ chế trong quan hệ hôn nhân và các quy tắc, quy luật liên quan đến hôn nhân. Các nghiên cứu về cũng như quá trình giao lưu, tiếp biến về mặt văn xã hội nguyên thủy dường như không thể bỏ hóa giữa các tộc người khác nhau ngày càng mạnh qua vấn đề này. Tuy nhiên, trong xã hội hiện mẽ. Kết quả khảo sát tình trạng hôn nhân giữa các đại, khi mà quá trình toàn cầu hóa ngày càng tộc người ở Bản Ang, xã Xá Lượng, huyện Tương mạnh mẽ và tác động đến hầu hết các cộng Dương phần nào nói lên điều đó. SỐ 12/2017 Tạp chí [39] KH-CN Nghệ An
  2. NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI đồng tộc người thì mối quan hệ hôn nhân hướng biến đổi trong đời sống văn hóa của người Thái cũng được mở rộng nghiên cứu theo nhiều hiện nay dưới nhiều tác nhân khác nhau vẫn chưa được chiều hướng khác nhau. Một trong số đó là tìm hiểu thật sự kỹ càng, trong đó có vấn đề quan hệ hôn tìm hiểu quan hệ hôn nhân liên quốc gia, nhân. Khi nghiên cứu về người Thái (và các dân tộc thiểu xem đó như là một tác nhân, một con đường số khác) ở miền Tây Nghệ An vào những năm 1980, quan trọng trong sự giao lưu văn hóa của các Nguyễn Đình Lộc cũng có mô tả nhiều về quan hệ hôn quốc gia khác nhau. Ở Việt Nam, những nhân của người Thái. Nhưng những mô tả này tập trung nghiên cứu về quan hệ hôn nhân giữa người vào các quy tắc, nghi thức liên quan đến hôn nhân trong Việt với người Đài Loan, Hàn Quốc, Trung xã hội truyền thống (Nguyễn Đình Lộc, 1993). Và, trong Quốc… đã được nhiều nhà nghiên cứu quan một nghiên cứu mới nhất được công bố năm 2017, là một tâm và có nhiều công trình xuất hiện (C. chuyên khảo công phu về người Thái ở Nghệ An của nhà Julia Huang và Kuang-ting Chuang, 2010). dân tộc học Vi Văn An - một người Thái ở huyện Con Nhìn rộng hơn là những nghiên cứu về giao Cuông, khi đề cập đến vấn đề hôn nhân cũng chỉ nhấn lưu văn hóa xuyên quốc gia qua các hiện mạnh đến các quy tắc trong hôn nhân của người Thái và tượng di cư theo hôn nhân hay dịch chuyển những nghi lễ, phong tục liên quan. Trong nghiên cứu lao động theo mùa (Suhong Chae, 2010; này, Vi Văn An đã đề cập đến những biến đổi trong đời Christian Schwenkel, 2010). Những nghiên sống hôn nhân của người Thái những năm gần đây, tuy cứu này phần nào cho chúng ta những luận nhiên, vấn đề quan hệ hôn nhân giữa người Thái với các chứng về giao lưu văn hóa giữa các quốc nhóm tộc người khác vẫn chưa được ông đề cập đến (Vi gia trong quá trình toàn cầu hóa. Trong khi Văn An, 2017). Nói vậy, không phải để phủ định giá trị đó, ở cấp độ tộc người, quá trình giao lưu, của các công trình nghiên cứu trước đây, mà trái lại, là tiếp xúc văn hóa qua quan hệ hôn nhân vẫn sự công nhận giá trị quan trọng của các nghiên cứu đó. còn nhiều vấn đề phải xem xét. Về mặt biểu Tuy nhiên, qua đó để nói lên rằng, việc nghiên cứu về hiện, rõ ràng quan hệ hôn nhân đa tộc người một cộng đồng, một tộc người hay một nhóm nhất định đang ngày càng phổ biến, nhất là ở các không bao giờ được gọi là đủ, là kết thúc, vì bản thân các vùng, các địa phương có sự cư trú xen kẽ cộng đồng đó cũng luôn biến động, thay đổi theo sự thay nhiều tộc người với nhau. Tuy nhiên, ở đâu đổi của thời đại, của tình hình kinh tế - xã hội chung. Mỗi đó, vấn đề quan hệ hôn nhân giữa các tộc một sự thay đổi đó là những mảnh đất mới cần được người trong một địa phương nhỏ vẫn còn là khám phá, tìm hiểu nhằm nhìn nhận lại quá khứ, hiện tại một khoảng trống chưa được quan tâm và tương lai của một vấn đề, một cộng đồng. Bài viết này xứng đáng. tập trung xem xét một sự thay đổi trong quan hệ hôn nhân Miền Tây Nghệ An là một địa bàn có của một nhóm nhỏ người Thái mà tác giả khảo sát, qua nhiều dân tộc thiểu số cùng sinh sống bên đó góp phần tìm hiểu về sự giao lưu, tiếp xúc văn hóa cạnh người Kinh. Trong đó, người Thái là giữa các cộng đồng bên cạnh cộng đồng người Thái mà dân tộc có vai trò quan trọng về nhiều mặt. tác giả nghiên cứu. Về dân số, họ chiếm ưu thế hơn so với các 2. Tình trạng hôn nhân đa tộc người ở Bản Ang cộng đồng còn lại (trừ người Kinh, dù rằng Bản Ang là một bản người Thái nằm trên đường ở một số địa phương cấp xã, thậm chí cấp Quốc lộ số 7. Địa danh Bản Ang có nghĩa là bản có cư huyện, người Thái còn đông hơn người dân quy tụ, tập trung (từ “Ang” trong tiếng Thái có Kinh). Nền văn hóa Thái cũng có sức lan nghĩa là vòng tròn, vùng ức, với nghĩa là quy tụ, tập tỏa mạnh mẽ đối với các nền văn hóa khác trung). Người Thái ở đây thuộc nhóm Thái trắng, phần bên cạnh họ như: Khơ Mú, Ơ Đu, Thổ… lớn tập trung ở khu vực trung tâm của bản. Nhìn từ trên Cộng đồng người Thái ở miền Tây Nghệ cao, dân cư Bản Ang tụ lại thành một vòng tròn có tâm An cũng được nhiều nhà nghiên cứu quan là nhà văn hóa của bản. Hiện nay, Bản Ang có 213 hộ tâm, với hàng trăm công trình ở các cấp độ gia đình với 925 nhân khẩu. Khác với người Thái ở khác nhau như sách, luận văn, luận án, bài nhiều nơi khác, người Thái ở đây sống chủ yếu bằng nghiên cứu, bài báo… (Vi Văn An, 2017). nương rẫy, khai thác sản phẩm ở rừng, chăn nuôi và thủ Những nghiên cứu này đã thể hiện được công nghiệp, gần như cả bản không có ruộng nước để một bức tranh tổng thể các đặc trưng về văn canh tác. Một điều đặc biệt ở Bản Ang là tình trạng hôn hóa Thái ở Nghệ An. Tuy nhiên, những xu nhân đa tộc người khá phổ biến. [40] Tạp chí SỐ 12/2017 KH-CN Nghệ An
  3. NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI Bảng 1: Tình trạng hôn nhân đa tộc người ở Bản Ang, xã Xá Lượng Quan hệ hôn nhân Số lượng Tỷ lệ (%) Đàn ông người Thái lấy phụ nữ người Kinh 10 37,04 Phụ nữ người Thái lấy đàn ông người Kinh 3 11,11 Đàn ông người Thái lấy phụ nữ người Khơ Mú 8 29,63 Phụ nữ người Thái lấy đàn ông người Khơ Mú 3 11,11 Đàn ông người Thái lấy phụ nữ người H’mông 2 7,41 Phụ nữ Thái lấy đàn ông người H’mông 1 3,70 Tổng số cặp vợ chồng hôn nhân đa tộc người 27 100,00 Nguồn: Số liệu thống kê qua khảo sát thực địa của tác giả tại Bản Ang, tháng 8/2016 Một bản với 213 hộ gia đình mà có đến 27 cặp vợ hệ quả tất yếu, hai gia đình và hai dòng họ, chồng có quan hệ hôn nhân đa dân tộc là một tỷ lệ tương thậm chí là hai cộng đồng này sẽ có những đối lớn. Trong đó, quan hệ hôn nhân giữa người Thái với giao lưu văn hóa với nhau. Để làm rõ hơn vấn người Kinh có 13 cặp vợ chồng, chiếm 48,15%; quan hệ đề này, xin được phân tích một vài ví dụ cụ hôn nhân giữa người Thái với người Khơ Mú có 11 cặp thể: vợ chồng, chiếm tỷ lệ 40,74%. Trong quan hệ hôn nhân Trong số nhiều cặp vợ chồng khác tộc với người Kinh, vốn là tộc người có sự phát triển kinh tế người ở Bản Ang, thì vợ chồng Lương và Lý cao hơn so với người Thái, thì chiều hướng chủ yếu là (để đảm bảo tính ẩn danh trong một nghiên phụ nữ Thái lấy chồng người Kinh, nhiều gấp hơn 3 lần cứu nhân học, tôi xin phép được gọi tên theo so với việc đàn ông Thái lấy vợ người Kinh (10 cặp vợ họ của hai vợ chồng này) - Lương là người chồng so với 3). Nhưng trong quan hệ hôn nhân với Thái còn Lý là người H’mông - gặp nhau trong người Khơ Mú - một tộc người được cho là có trình độ một lần Lương vào bản của Lý mua quả dứa. phát triển kinh tế thấp hơn người Thái thì có chiều hướng Cả hai trao đổi số điện thoại cho nhau rồi sau ngược lại. Cụ thể, số người Thái lấy vợ là người Khơ đó trò chuyện thường xuyên với nhau, yêu Mú cao gấp hơn 2 lần so với số người Thái lấy chồng là thương nhau và đi đến hôn nhân. Lúc đầu, cả người Khơ Mú (8 cặp vợ chồng so với 3). Còn đối với hai gia đình đều không đồng ý với lý do Lương nhóm người H’mông ở bản gần đấy, vốn là nhóm di cư và Lý ở hai dân tộc có nền văn hóa rất khác vào sau và trước đây ít có quan hệ với nhóm người Thái nhau. Nhưng cả hai đều kiên quyết yêu thương thì quan hệ hôn nhân đã xuất hiện nhưng vẫn ở mức độ nhau nên hai gia đình cũng đồng ý cho làm ít hơn, chiếm 11,11% số cặp vợ chồng quan hệ hôn nhân đám cưới. Sau khi về nhà chồng sinh sống, với đa tộc người. Theo giới tính, số đàn ông người Thái lấy Lý đó là một thử thách lớn. Chị phải sống vợ người dân tộc khác cao gấp gần 3 lần so với số phụ trong một nền văn hóa mới, với các phong tục nữ người Thái lấy chồng người dân tộc khác. Quan hệ tập quán khác những gì từ bé Lý trải nghiệm. hôn nhân đa tộc người ngày càng phổ biến là một trong Lý bắt đầu học tiếng Thái, học các phong tục những nguyên nhân làm cho nền văn hóa của cộng đồng tập quán và nghi lễ của nhà chồng qua sự chỉ người Thái ở Bản Ang ngày càng đa dạng và có những bảo của mẹ chồng. Trong thời gian đầu, việc biến đổi phức tạp hơn. Đó là kết quả của sự giao lưu, thực hành các phong tục tập quán phía nhà tiếp xúc văn hóa giữa các tộc người qua quan hệ hôn chồng luôn làm cho Lý lo lắng, và thực tế nhân. nhiều lần làm sai và bị khiển trách. Lý tâm sự: 3. Giao lưu và tiếp xúc văn hóa tộc người qua “Khi yêu thương nhau rồi kiên quyết lấy cho quan hệ hôn nhân được nhau. Nhưng khi về nhà chồng mới thấy Quan hệ hôn nhân vừa là một biểu hiện của quá trình mình phải làm nhiều thứ mà trước đó không giao lưu văn hóa, vừa là một bộ phận, một chất xúc tác nghĩ đến. Từ đi lại, ăn nói, ứng xử đều phải cho quá trình giao lưu văn hóa. Xét trên nhiều góc độ, thay đổi, phải học từ đầu các thứ về cuộc sống quan hệ hôn nhân là một con đường giao lưu văn hóa hàng ngày. Nhiều lúc cảm thấy mệt mỏi, tìm mạnh mẽ và sâu sắc. Khi hai gia đình thuộc hai cộng cách để cáu gắt hay cãi nhau với chồng để giải đồng dân tộc khác nhau có quan hệ hôn nhân thì như một tỏa. Cũng có lúc ấm ức, ngồi khóc một mình SỐ 12/2017 Tạp chí [41] KH-CN Nghệ An
  4. NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI và muốn bỏ về nhà mẹ nhưng không dám vì dâu là người Khơ Mú và con rể là người Kinh nên sự giao tự mình đòi lấy chứ không phải cha mẹ ép lưu văn hóa trong gia đình ít nhất có đến 3 giá trị văn hóa gả. Trước đây cứ nghĩ mình biết tiếng Kinh khác nhau. Sự xung đột văn hóa có xuất hiện nhưng không và nói chuyện với mọi người nhà chồng cũng quá gay gắt, chủ yếu vẫn ở trong phạm vi cuộc sống vợ như với chồng bằng tiếng Kinh là được. chồng. Đã có những cặp vợ chồng đi đến tan vỡ, nhưng Nhưng khi về mọi người bảo phải học tiếng như chính họ chia sẻ thì là do một phía làm ăn không tốt, Thái thì cũng phải chấp nhận học. Cũng may sa vào nghiện ngập hay hay đánh vợ con nên phải chia tay là sinh con sớm, và được gia đình chồng chứ không hoàn toàn vì sự khác biệt văn hóa. động viên nhiều nên cũng đỡ và càng ngày Như vậy, quan hệ hôn nhân đa tộc người là một nhân càng hòa nhập hơn” (Phỏng vấn ngày tố thúc đẩy sự giao lưu văn hóa tộc người ở các cấp độ 17/8/2016). khác nhau một cách mạnh mẽ. Một mặt, nó làm cho các Về phần Lương, dù không phải học nhiều yếu tố văn hóa, các nền văn hóa xích lại gần nhau hơn qua điều như Lý nhưng anh cũng phải biết một sự giao lưu, tiếp xúc văn hóa. Mặt khác, cũng xuất hiện số phong tục, tập quán cơ bản của nhà vợ để những xung đột văn hóa trong cấp độ gia đình, nhưng hầu khi đến nhà vợ biết cách hành xử sao cho hết vẫn được hòa giải qua các cơ chế khác nhau giữa các những người khác không trách cứ. Do vậy cá nhân và gia đình liên quan. Vậy nên, dù quan hệ hôn mà sau hơn ba năm, Lương cũng biết một ít nhân đa tộc người có phần phức tạp hơn so với quan hệ tiếng H’mông và những nét văn hóa đặc hôn nhân trong tộc người, tuy nhiên, càng ngày, mối quan trưng nhà vợ. Không chỉ ở cấp độ gia đình, hệ hôn nhân giữa các tộc người càng phổ biến. Và nó cũng mà hai dòng họ của Lương và Lý khi quyết là một biểu hiện cho sự phức tạp ngày càng tăng của quan định gả con cái cho nhau cũng có lập một hệ dân tộc, quan hệ văn hóa. giao ước là sau này, nếu trong hai dòng họ 4. Các yếu tố tác động đến quan hệ hôn nhân đa tộc có những người con cháu yêu thương nhau người muốn tiến tới hôn nhân thì hai gia đình, hai Trước hết, quá trình giao lưu, tiếp xúc văn hóa giữa các dòng họ phải tạo điều kiện và giảm nhẹ các cộng đồng là yếu tố quan trọng tác động mạnh đến mối khoản thách cưới cũng như giúp đỡ con cháu quan hệ này. Trong xã hội truyền thống của người Thái trong cuộc sống. cũng như một số dân tộc như Khơ Mú, H’mông thì không Qua phân tích một trường hợp như vậy ủng hộ quan hệ hôn nhân với người dân tộc khác. Họ để thấy sự giao lưu văn hóa qua quan hệ hôn không đặt ra những quy định cấm tuyệt đối nhưng bức nhân vô cùng mạnh mẽ. Chỉ hai người có tường về sự khác biệt văn hóa vẫn còn quá cao so với tình quan hệ vợ chồng với nhau nhưng kéo theo yêu nam nữ lúc đó. Tâm lý cộng đồng cũng không ủng hộ đó là hai gia đình, hai dòng họ và lớn hơn quan hệ hôn nhân đa tộc người. Tuy nhiên, hiện nay, khi nữa là hai cộng đồng ở hai tộc người khác bức tường khác biệt văn hóa được “hạ thấp”, quá trình tiếp nhau có sự giao lưu văn hóa với nhau. Và xúc, giao lưu văn hóa mạnh mẽ đã kéo các tộc người lại trong tương lai xa hơn một chút nữa, những gần với nhau, làm cho họ “hiểu” nhau hơn thì quan hệ hôn cặp vợ chồng này sẽ sinh ra những thế hệ nhân đa tộc người cũng xuất hiện và phổ biến hơn. Đây mang trong mình dòng máu lai và sẽ được cũng là một trong những hệ quả của việc thực hiện các thừa hưởng những giá trị của các nền văn chính sách phát triển miền núi và xây dựng đời sống văn hóa khác nhau. hóa mới ở các dân tộc thiểu số trong mấy thập niên qua. Đương nhiên, như một hệ quả không Cụ thể, quá trình đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ở miền tránh khỏi đó là sự xung đột văn hóa. Khi hai núi làm cho hệ thống giao thông đi lại của vùng này trở vợ chồng ở hai nền văn hóa khác nhau cùng nên dễ dàng hơn, tạo điều kiện cho quá trình tiếp xúc văn về chung sống trong một gia đình thì sự hóa giữa các cộng đồng diễn ra mạnh mẽ hơn. xung đột văn hóa là khó tránh khỏi. Thậm Một yếu tố quan trọng, mang tính xúc tác mạnh mẽ cho chí, có những gia đình không chỉ là nơi tiếp sự phổ biến của quan hệ hôn nhân đa tộc người chính là xúc của hai nền văn hóa mà đôi khi còn sự xuất hiện của tiếng Kinh. Một trong những rào cản quan nhiều hơn khi các thành viên khác trong gia trọng đối với hôn nhân đa tộc người trước đây chính là đình có quan hệ hôn nhân với các đối tượng ngôn ngữ. Khi các nhóm tộc người khác nhau không biết thuộc các dân tộc khác nhau. Ở Bản Ang có ngôn ngữ của nhau thì việc xuất hiện quan hệ hôn nhân trường hợp một gia đình người Thái có con giữa họ là rất hiếm, vì họ khó có thể giao tiếp, trao đổi với [42] Tạp chí SỐ 12/2017 KH-CN Nghệ An
  5. NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI nhau để hiểu nhau. Khi hệ thống chính các phương tiện này, việc trao đổi thông tin, tình cảm giữa quyền người Kinh được xây dựng chính các chàng trai, cô gái được thuận lợi hơn và gắn kết hơn. thức, ngôn ngữ người Kinh được dạy cho Nhiều trường hợp ở Bản Ang, các chàng trai cô gái gặp đồng bào các dân tộc thiểu số qua hệ thống nhau trong một dịp đi đám cưới, đi làm nương hay đi bán giáo dục phổ thông tạo điều kiện cho đồng hàng, đi chơi, họ làm quen và xin số điện thoại của nhau. bào có thể giao tiếp với nhau bằng tiếng Từ đó hàng ngày họ nhắn tin, gọi điện và trao đổi tình cảm, Kinh. Nói cách khác, sự xuất hiện của tiếng rồi đi đến hôn nhân. Hay sự xuất hiện của những chiếc xe Kinh đã san bằng rào cản ngôn ngữ để các máy cũng tạo điều kiện cho các cặp trai gái gặp gỡ nhau nhóm dân tộc khác nhau có thể giao tiếp dễ dễ dàng hơn trong quá trình yêu đương và tìm hiểu. Nói dàng với nhau hơn. Hầu hết các cặp vợ chung, các phương tiện thông tin mà họ có được qua sự chồng có quan hệ hôn nhân đa tộc người này cung cấp của thị trường đã thu hẹp khoảng cách về không đều biết tiếng Kinh, dù sau đó, khi trở thành gian giữa con người với nhau, đẩy mạnh cường độ trao đổi vợ chồng, họ có thể học thêm ngôn ngữ phía thông tin là một tác nhân ảnh hưởng đến quan hệ hôn nhân. chồng hoặc phía vợ nhưng giao tiếp ban đầu Không chỉ vậy, thị trường cũng kéo các tộc người lại gần của họ là tiếng Kinh. nhau qua việc cung chấp những chuỗi hàng hóa cho nhiều Tâm lý tộc người cũng là một yếu tố ảnh cộng đồng khác nhau cùng hưởng dụng, làm cho khoảng hưởng đến quan hệ hôn nhân đa tộc người. cách về sự phát triển rút ngắn lại và tâm lý tộc người cũng Trước đây, tâm lý phân biệt đẳng cấp giữa thay đổi. Ví dụ như trước đây, người Khơ Mú không biết các tộc người cũng là một sự ngăn cản đối dệt may áo quần, họ phải mua áo quần của người Thái về với quan hệ hôn nhân. Người Kinh dưới xuôi mặc, nên người Thái cũng có phần không coi trọng người mới lên coi người Thái là “tộc”, “người dân Khơ Mú và xem họ trình độ thấp hơn mình. Nhưng hiện tộc” (với ý coi thường) và thường ngăn cản nay, cả người Thái lẫn người Khơ Mú, hầu hết đều mua nếu ai có ý định lấy vợ/chồng là người Thái. áo quần từ người Kinh về mặc thì cái nhìn đó cũng giảm Còn người Thái cũng coi người Khơ Mú là đi. Khi tâm lý tộc người được tháo gỡ thì quan hệ tộc “cuông, nhóc”, là tầng lớp thấp trong xã người cũng thay đổi và quan hệ hôn nhân cũng từ đó mà hội và quan hệ hôn nhân với người Khơ nhen nhóm thêm. Mú không được ủng hộ. Nhưng trong quá 5. Những vấn đề đặt ra trong quan hệ hôn nhân đa trình tiếp xúc, với mục tiêu hội nhập, hòa tộc người nhập và phát triển thì tâm lý tộc người Trước hết, về văn hóa, đó là sự tiếp xúc của các nền cũng thay đổi. Dù chưa mất hẳn nhưng sự văn hóa khác nhau trong một thiết chế hẹp là cấp độ vợ phân biệt đẳng cấp giữa các tộc người ngày chồng, lớn hơn là quan hệ giữa các gia đình, các dòng họ càng hạn chế, con người sống với nhau trân với nhau và cao hơn là sự tiếp xúc của hai nền văn hóa tộc trọng hơn, biết điểm mạnh, điểm yếu và người khác nhau. Trong các mối quan hệ hôn nhân đa tộc tôn trọng nhau hơn. Đó cũng là nhân tố mở người ở Bản Ang có trường hợp hai vợ chồng trẻ vừa mới đường, thúc đẩy cho quan hệ hôn nhân cưới nhau được hơn 3 năm. Chồng là người Thái còn vợ giữa các tộc người khác nhau. là người H’mông ở cách nhau khoảng 5km. Họ gặp nhau Bên cạnh đó, không thể phủ nhận vai trò trong một lần anh này vào bản của người H’mông để mua của kinh tế thị trường đối với sự tăng nhanh hàng, hai người trao đổi số điện thoại, hàng ngày trò của quan hệ hôn nhân giữa các tộc người. chuyện với nhau rồi yêu thương nhau. Khi anh này nói với Nếu ai nói rằng thị trường không liên quan gia đình muốn cưới cô gái H’mông làm vợ thì gia đình anh đến vấn đề hôn nhân thì đó là cái nhìn khu không đồng ý với lý do là hai người đều không biết gì về biệt, hạn hẹp. Ở đây, không nói đến thị văn hóa dân tộc của nhau. Gia đình cô gái cũng có phản trường hôn nhân, mà nói đến sự tác động của ứng tương tự. Nhưng khi hai người kiên quyết đến với kinh tế thị trường đối với tình trạng hôn nhân nhau thì gia đình cũng chấp nhận. Những ngày đầu, khi đa tộc người ở Xá Lượng hiện nay. Khi nhìn người chồng qua nhà vợ thường hay gặp phải những bất rộng ra thì kinh tế thị trường lại có vai trò cập trong việc thực hành các phong tục tập quán của nhà quan trọng trong vấn đề này. Vai trò này thể vợ. Nhưng do không phải thường xuyên đến nên anh được hiện qua việc thị trường đã cung cấp các gia đình vợ “bỏ qua” nếu có sai phạm gì và chỉ bảo thêm phương tiện thông tin, phương tiện giao để không bị lặp lại. Trường hợp người vợ thì phức tạp hơn. thông như điện thoại, xe máy... Và thông qua Hàng ngày, cô phải đối diện với nhiều vấn đề về văn hóa, SỐ 12/2017 Tạp chí [43] KH-CN Nghệ An
  6. NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI phong tục ở nhà chồng mà trước đây cô chưa của hai vợ chồng trẻ nói trên đồng ý cho hai người lấy từng trải nghiệm. Có lúc bị nhắc nhở vì ngồi nhau, họ Lương bên nhà chồng và họ Lý bên nhà vợ đã nhầm vị trí trong bữa ăn, lúc thì bị nhắc nhở về ký kết một văn bản với nhau là sau này khi con cháu việc trao đổi với chồng... Lắm lúc ấm ức quá trong hai dòng họ có tình cảm yêu đương với nhau thì mà ngồi khóc một mình hay gây sự với chồng không được ngăn cản mà phải giúp đỡ, khi đi ăn hỏi hay khi không có ai bên cạnh. Nhưng dần được gia làm lễ cưới thì số tiền thách cưới cũng không được quá đình chồng giúp đỡ nhiều nên cô quyết tâm học. lớn, nếu gia đình nào vi phạm sẽ bị phạt. Khi hai dòng Cô phải học các phong tục tập quán nhà chồng, họ có quan hệ thân thiết với nhau thì cũng tạo điều kiện làm quen với các sinh hoạt của một nền văn hóa cho thanh niên hai bản qua lại, giao lưu với nhau dễ dàng khác và học tiếng Thái. Và không phải khi nào hơn qua các quan hệ bạn bè, hàng xóm. cô cũng có thể nhớ và làm đúng hết, nhiều khi Nói tóm lại, quan hệ hôn nhân đa tộc người đang sai được bỏ qua, có khi cũng to tiếng qua lại với ngày càng phổ biến ở Bản Ang nói riêng và nhiều địa chồng. Có khi cô cảm thấy buồn, nhưng nghĩ phương có sự xen kẽ tộc người nói chung, và nó cũng kỹ lại do hai người tự nguyện đến với nhau nên nằm trong sự vận động chung của xã hội khi mà giao phải cố gắng. Phải mất gần 3 năm, người vợ lưu, tiếp xúc văn hóa ngày càng mạnh mẽ. Quan hệ hôn mới bắt đầu thuần thục công việc và làm theo nhân đa tộc người đặt ra nhiều vấn đề về biến đổi văn những chuẩn mực văn hóa bên nhà chồng. Nhìn hóa trong các tộc người và giữa các tộc người với nhau, bề ngoài, chuyện cặp vợ chồng trên đây chỉ là và đó cũng là quan hệ tộc người trong một khu vực nhất “chuyện gia đình” hay “chuyện vợ chồng trẻ” định. Một mặt, quan hệ hôn nhân đa tộc người thể hiện nên có chút va vấp là chuyện thường, như ở sự xích lại gần nhau hơn giữa các cộng đồng, các nền người Kinh vẫn thường vậy. Nhưng thực chất, văn hóa với nhau. Mặt khác, nó cũng ngầm chứa những đó là một cuộc đụng độ, gặp gỡ của hai nền văn xung đột, va chạm văn hóa ở cấp độ vi mô nhưng có vai hóa khác nhau và mất gần ba năm để thích ứng trò quan trọng. Vậy nên cần có nhiều nghiên cứu nghiêm và dung hòa với nhau. Đó là một quá trình hòa túc để nhận thức rõ hơn về vấn đề này nhằm có những hợp giữa hai nền văn hóa và các cơ chế hòa hợp chính sách, biện pháp hợp lý trong quá trình hoạch định này cần được nghiên cứu sâu hơn. Không riêng phát triển vùng dân tộc thiểu số và xử lý các vấn đề liên gia đình của hai vợ chồng trên mà phần lớn các quan đến quan hệ dân tộc./. gia đình ở Bản Ang đều không ủng hộ quan hệ Nghiên cứu sinh Khoa Nhân học, Đại học Khoa học Xã hội hôn nhân với người Khơ Mú hay người (*) và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. H’mông, dù trong cuộc sống, họ vẫn ghi nhận năng lực làm nương rẫy hay sự chăm chỉ của Tài liệu tham khảo các tộc người này. Nhưng khi con cái quyết tâm 1. Vi Văn An (2017), Người Thái ở miền Tây Nghệ An, Nxb thì họ đồng ý và giúp đỡ gia đình vợ chồng mới Thế giới. cưới. Nhiều người chia sẻ là trong tình yêu nam 2. Christina Schwenkel (2010), Chuyển dịch trong thế giới nữ, việc ngăn cản là rất khó. Khi ngăn cản xã hội chủ nghĩa: xuất khẩu lao động và những trao đổi xuyên không được thì phải giúp đỡ để con cái được quốc gia giữa Việt Nam và Đông Đức cũ, In trong “Hiện đại và hạnh phúc hơn. Đó là những hành xử nhân văn động thái của truyền thống ở Việt Nam: những cách tiếp cận nhân và nó cũng thể hiện rằng trong xã hội người học”, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. 3. Nguyễn Đình Lộc (1993), Các dân tộc thiểu số ở Nghệ An, Thái hiện nay, tình yêu có vai trò quyết định Nxb Nghệ An. trong quan hệ hôn nhân. 4. C. Julia Huang và Kuang-ting Chuang (2010), Tranh luận Về mặt xã hội, hôn nhân đa tộc người cũng với quan niệm về hiện tượng xuyên quốc gia: Một vài nhận xét là một biểu hiện trong quan hệ tộc người hiện ban đầu về những nữ di dân người Việt lấy chồng ở Đài Loan và nay. Khi hai gia đình thuộc hai tộc người khác miền Nam Việt Nam. In trong “Hiện đại và động thái của truyền nhau đồng ý mối quan hệ hôn nhân thì hai cộng thống ở Việt Nam: những cách tiếp cận nhân học”, Nxb Đại học đồng đó cũng có những điều kiện sát lại gần Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. 5. Suhong Chae (2010), Sự trở về của những người lao động nhau hơn. Trước hết là hai dòng họ kết thông Việt Nam tại Hàn Quốc trải nghiệm xuyên quốc gia, nhận thức gia với nhau thì quan hệ với nhau gần gũi, thân chính trị của người lao động và sự hợp tác khu vực Đông Á, “In thiện hơn. Có những trường hợp hai dòng họ trong “Hiện đại và động thái của truyền thống ở Việt Nam: những còn có những văn bản ký kết với nhau để gìn cách tiếp cận nhân học”, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ giữ mối quan hệ này. Ví như khi hai gia đình Chí Minh. [44] Tạp chí SỐ 12/2017 KH-CN Nghệ An
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2