intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình hình thành cơ chế phân tán rủi ro và hạn chế các tác động về kinh tế xã hội p2

Chia sẻ: Sfafa Faf | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

51
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Hệ thống doanh nghiệp nhà nước ta đã có hơn 40 năm xây dựng và phát triển. Trong thời kỳ cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, các xí nghiệp quốc doanh (doanh nghiệp nhà nước) là lực lượng chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Chúng được hình thành từ 3 nguồn sau: Thứ nhất, xây dựng bằng nguồn vốn của ngân sách nhà nước, nguồn viện trợ hoặc đi vay (của Liên xô cũ, Trung Quốc và các nước XHCN khác trong thời kỳ đó)...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình hình thành cơ chế phân tán rủi ro và hạn chế các tác động về kinh tế xã hội p2

  1. Chương II: THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HOÁ CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY. 2.1. Thực trạng các doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế nước ta. 2.1.1. Sự ra đời của doanh nghiệp nhà nước và hoạt động của nó trong cơ chế cũ. Hệ thống doanh nghiệp nhà nước ta đã có hơn 40 năm xây dựng và phát triển. Trong thời kỳ cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, các xí nghiệp quốc doanh (doanh nghiệp nhà nước) là lực lượng chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Chúng được hình thành từ 3 nguồn sau: Thứ nhất, xây dựng bằng nguồn vốn của ngân sách nhà nước, nguồn viện trợ hoặc đi vay (của Liên xô cũ, Trung Quốc và các nước XHCN khác trong thời kỳ đó). Thứ hai, quốc hữu hoá xí nghiệp của các nhà tư sản mại bản, tư sản dân tộc đã bỏ ra nước ngoài hoặc xí nghiệp nhà nước của chế độ cũ. Hình thức này được áp dụng rộng rãi trong những năm 50, 60 được tiếp tục trong những năm 70 và đỉnh cao vào năm 1975, 1976. Thứ ba, biến các xí nghiệp tư nhân của các nhà tư sản dân tộc thành các xí nghiệp công tư hợp doanh và sau đó thành các xí nghiệp quốc doanh. Cũng giống các nước theo nền kinh tế xã hội chủ nghĩa khác Việt Nam đã vận dụng học thuyết Mác - Lênin để thực hiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, coi chế độ công hữu là nền tảng kinh tế 11
  2. để xoá bỏ sự phân hoá giàu nghèo, bất công xã hội do nền kinh tế thị trường và chế độ tư hữu gây ra, để xây dựng một chế độ công hữu do nhân dân lao động làm chủ. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội nước ta đã nhấn mạnh vào nhiệm vụ và vai trò của kinh tế nhà nước, coi đó là hiện thân của chế độ công hữu có sức mạnh toàn năng trong việc tổ chức mọi hoạt động kinh tế của xã hội đồng thời phủ nhận vai trò của thị trường, của kinh tế tư nhân. Vì vậy nền kinh tế quốc dân ở nước ta không phải là một nền sản xuất hàng hoá mà là một nền kinh tế hiện vật và xã hội hoá được quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp: Nhà nước XHCN vừa tập trung quyền lực chính trị vừa là chủ sở hữu duy nhất và thống nhất đối với tuyệt đại đa số các tư liệu sản xuất của xã hội. Và nhà nước vừa là người chỉ huy, vừa là người tổ chức thực hiện sản xuất kinh doanh. Ở nước ta, trong thời gian dài trước đại hội Đảng lần thứ VI (12 - 1986) doanh nghiệp nhà nước đã hình thành và phát triển với một cơ cấu tương đối hoàn chỉnh, ở tất cả các lĩnh vực, các ngành kinh tế quốc dân như hàng không, hàng hải, bưu điện, đường sắt, nông nghiệp, lâm nghiệp, đánh cá đến các dịch vụ đơn giản. Doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân và nắm 100% các ngành then chốt như điện, khai khoáng, luyện kim, chế tạo máy công cụ, hoá chất, nhiên liệu, xi măng, bưu điện viễn thông, giao thông đường sắt, đường thủy, ngoại thương, ngân hàng, quốc phòng và an ninh. Trong công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng nội địa và xuất khẩu, lực lượng doanh nghiệp nhà nước cũng chiếm tỉ trọng tuyệt đối lớn hoặc phần lớn đối với các sản phẩm chủ yếu như: 100% hàng dệt kim, thuốc chữa bệnh, bia, 90% quạt điện, 85% giấy viết, 85% vải mặc, 70% xe đạp hoàn chỉnh. 12
  3. Các doanh nghiệp nhà nước chiếm khoảng 85% vốn cố định của nền kinh tế, 90% lao động có kỹ thuật, cán bộ khoa học và quản lý được đào tạo của cả nước. Nhà nước cũng ưu tiên dành nhiều nguồn lực để phát triển các doanh nghiệp nhà nước. Chỉ tính riêng trong khoảng mười năm, từ 1976 đến 1985, nhà nước đã phân bố từ 60 - 70% vốn đầu tư của toàn bộ nền kinh tế và trên 90% vốn tín dụng với lãi suất ưu đãi cho các doanh nghiệp nhà nước. Hàng năm các doanh nghiệp nhà nước đóng góp khoảng 30 - 40% tổng sản phẩm xã hội và 28 - 30% thu nhập quốc dân. Phần thu của doanh nghiệp nhà nước từ doanh nghiệp nhà nước thông qua doanh nghiệp nhà nước là phần thu lớn nhất, dao động hàng năm trong khoảng 60 - 70%. Do chúng ta duy trì quá lâu cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp trong khu vực doanh nghiệp nhà nước nên khu vực kinh tế này đã bộc lộ những yếu kém nghiêm trọng. Đó là: - Năng suất, chất lượng và hiệu quả rất thấp. Toàn bộ khu vực doanh nghiệp nhà nước không vượt qua ngưỡng cửa tái sản xuấta giản đơn. Tính chung trong vòng mười năm 1976 - 1985 tỉ lệ chi của nhà nước và thu của doanh nghiệp nhà nước là 3:1. - Doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo cơ chế thực thanh - thực chi, giao đủ nộp đủ. Nhà nước bao cấp và quyết định giá đầu vào, đầu ra, nên doanh nghiệp không phải tính toán hiệu quả kinh doanh. Hoạt động thua lỗ có nhà nước gánh chịu. - Sự phân phối thu nhập trong doanh nghiệp theo cách bình quân đã làm suy yếu động lực kích thích lao động, làm việc có năng suất, chất lượng và hiệu quả. 13
  4. - Bộ máy doanh nghiệp cồng kềnh, nhiều cấp trung gian với chức năng chồng chéo. Các cơ quan quản lý thường can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh ngày ngày của doanh nghiệp. 2.1.2. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay. Trong một thời kỳ dài chúng ta đã mắc sai lầm quá sùng bái kinh tế quốc doanh, đã thành lập tràn lan các doanh nghiệp nhà nước. Trong cơ chế cũ các doanh nghiệp nhà nước đã bộc lộ các yếu kém như đã trình bày ở phần trên. Chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, hệ thống kinh tế quốc doanh vẫn được xác định vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân cần phải củng cố và phát triển nhất là trong ngành và lĩnh vực then chốt, quan trọng, có tác dụng mở đường và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển. Doanh nghiệp nhà nước có vai trò chủ đạo theo nghĩa là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Vai trò chủ đạo của nó gắn liền với vai trò quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường. Đây là yêu cầu có tính quy luật chung của sự phát triển kinh tế xã hội, vì bản thân nền kinh tế thị trường chứa đựng những khuyết tật mà muốn khắc phục nhất thiết phải có sự quản lý của nhà nước. Các doanh nghiệp nhà nước bao gồm các các doanh nghiệp hoạt động hoạt động kinh doanh và các doanh nghiệp hoạt động công ích được củng cố và phát triển trong các ngành và lĩnh vực then chốt, tạo cơ sở hạ tầng và tiền đề tốt cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Thông qua doanh nghiệp nhà nước, nhà nước tạo ra nguồn dự trữ đủ mạnh để có thể can thiệp vào thị trường, thực hiện điều chỉnh các cân đối cơ bản của nền kinh tế. Doanh nghiệp 14
  5. thực hiện việc đầu tư có định hướng để khắc phục bản chất “vô chính phủ” của nền kinh tế thị trường, duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh, chống xu hướng độc quyền của tập đoàn tư nhân, đi đầu trong đổi mới công nghệ thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo xu hướng năng suất - chất lượng - hiệu quả. Như vậy, vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước xuất phát từ yêu cầu khách quan của nền kinh tế thị trường nước ta và được ghi thành chủ trương, chính sách và pháp luật của nhà nước. Vai trò luật định này là yếu tố quan trọng chi phối sự điều chỉnh pháp lý đối với tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Để thực hiện được vai trò đó trước hết phải kiên quyết đổi mới hệ thống doanh nghiệp này. Việc đổi mới phải được đặt trong sự phát triển tổng thể nền kinh tế quốc dân và phải xuất xứ từ thực trạng doanh nghiệp nhà nước ở nước ta. 2.1.3. Thực trạng hoạt động của doanh nghiệp nhà nước ta hiện nay. Trong cơ chế cũ, ở nước ta doanh nghiệp nhà nước tồn tại với một số lượng khổng lồ. Theo số liệu của tổng cục thống kê, tính đến ngày 1 - 9 - 1990 cả nước có 12.084 doanh nghiệp trong tất cả các ngành các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân và do nhiều cấp quản lý. Sau khi thực hiện việc tổ chức sắp xếp lại theo quyết định 315/HĐBT ngày 1 - 9 - 1990 và thành lập lại các doanh nghiệp nhà nước theo nghị định 388/ HĐBT và ngày 20 - 11 - 1991 và sau hàng loạt cải cách, đến nay doanh nghiệp nhà nước vẫn còn khoảng 5800 doanh nghiệp (theo số liệu của vụ đăng ký kinh doanh - Bộ kế hoạch đầu tư). Trong đó có khoảng 30% là doanh nghiệp nhà nước do các bộ ngành trung ương quản lý và khoảng 70% doanh nghiệp do uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quản lý. 15
  6. Đến năm 1995, số lượng các doanh nghiệp nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng lớn so với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh: trong lĩnh vực công nghiệp là 78,8%; Xây dựng cơ bản: 49%; tài chính, ngân hàng, bảo hiểm: 99,6%, giao thông vận tải, bưu điện: 54%; thương nghiệp, vật tư: 46,5%. Sau 5 năm đổi mới và điều hành, số lượng các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta giảm gần song như vậy vẫn còn quá nhiều. Các doanh nghiệp nhà nước hiện nay vẫn còn tồn tại ở hầu hết các ngành, các lĩnh vực, điều đó là không cần thiết. Hơn nữa với số lượng doanh nghiệp nhà nước nhiều như vậy làm vượt quá khả năng nguồn lực về vốn và cán bộ quản lý của nước ta hiện có. Hệ thống doanh nghiệp nhà nước phân bố còn nhiều bất hợp lý. Các doanh nghiệp nhà nước chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, thành phố Hồ Chí Minh. Nhiều vùng của đất nước có nguồn tài nguyên phong phú, lao động dồi dào ở miền núi phía Bắc hầu như không có doanh nghiệp nhà nước. Sự phân tán của các doanh nghiệp nhà nước ở các ngành các lĩnh vực dẫn đến các tình trạng trên cùng một địa bàn lãnh thổ doanh nghiệp nhà nước của Trung ương, địa phương hoạt động chồng chéo, cạnh tranh lẫn nhau một cách vô tổ chức, gây khó khăn cho nhau trong việc sản xuất kinh doanh. Hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp nhà nước ta có quy mô nhỏ và hoạt động kém hiệu quả. Theo số liệu thống kê của Bộ Tài chính, tổng số vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước là 70.184 tỷ đồng, bình quân một doanh nghiệp là 11,6 tỷ đồng tương đương với vốn một doanh nghiệp loại nhỏ ở các nước như Thái Lan, Inđônêxia, Malaysia. 16
  7. Đến nay vẫn còn 46,1% doanh nghiệp nhà nước có số lao động dưới 100 người và gần 50% doanh nghiệp nhà nước có mức vốn dưới 1 tỷ đồng, trong đó gần một nửa số vốn dưới 500 triệu đồng. Các doanh nghiệp có số vốn lớn từ 100 tỷ trở lên chỉ chiếm 1,5% tổng số doanh nghiệp. Số doanh nghiệp có từ 1000 lao động trở lên chỉ chiếm 4% trong tổng số doanh nghiệp. Vốn thực tế hoạt động của doanh nghiệp nhà nước chỉ bằng 80% vốn hiện có do kinh doanh thua lỗ, công nợ khó đòi, tài sản mất mát, kém phẩm chất chưa được xử lý. Riêng vốn lưu động có 14.239 tỷ đồng và chỉ có 50% được huy động vào kinh doanh, 50% còn lại nằm ở lỗ, công nợ khó đòi. Các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay, do quy mô nhỏ, vốn ít không có khả năng đầu tư trang thiết bị hiện đại, mở rộng sản xuất kinh doanh nên yếu sức cạnh tranh trên thị trường. Trình độ kỹ thuật, công nghệ cũng ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động của hệ thống doanh nghiệp nhà nước. Trừ một số rất ít (18%) doanh nghiệp nhà nước mới được đầu tư (sau năm 1986) còn chủ yếu được thành lập từ lâu có trình độ kỹ thuật thấp, công nghệ lạc hậu. Giá trị còn lại của tài sản cố định trong doanh nghiệp nhà nước là 61,4% so với nguyên giá. Theo đánh giá của Bộ khoa học và công nghệ và môi trường: máy móc thiết bị của doanh nghiệp nhà nước lạc hậu với thế giới từ 10 - 20 năm. Theo điều tra của Tổng cục thống kê: thiết bị của doanh nghiệp nhà nước lạc hậu từ 2 - 3 thế hệ. Các doanh nghiệp TW có tới 54,3% trình độ thủ công, 41% trình độ cơ khí và 3,7% trình độ tự động. Doanh nghiệp địa phương còn lạc hậu hơn; chỉ có 2% trình độ tự động, 24% trình độ cơ khí và 74% trình độ thủ công. 17
  8. Nhiều thiết bị trong các doanh nghiệp nhà nước sau 14 - 15 năm mới được thay đổi, thậm chí trong một số ngành vẫn sử dụng thiết bị từ năm 1938 - 1940 trong khi đó thời gian đổi mới thiết bị ở các nước khác trung bình là 5 năm. Các báo cáo về tình hình hoạt động của doanh nghiệp nhà nước cho thấy chỉ có khoảng 15% sản phẩm công nghiệp của ta đạt tiêu chuẩn xuất khẩu: 65% số sản phẩm đạt mức dưới trung bình để tiêu dùng nội địa, 20% số sản phẩm kém chất lượng. Hiện tượng hàng hoá ứ đọng với khối lượng lớn và chiếm hơn 10% số vốn lưu động của toàn xã hội. Chính do công nghệ lạc hậu nên năng suất, chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp nhà nước kém. Theo kết quả điều tra xét về mặt hiện vật, năng suất lao động của ta về chế biến dầu thực vật chỉ bằng 10% mức thế giới, về sản xuất các sản phẩm dệt, giấy, may chỉ bằng 30% đến 40% mức của thế giới, về thi công cầu đường chỉ bằng 1/20 mức của Pháp. Hiện nay, việc quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước chưa hợp lý. Một mặt các cơ quan chủ quản vẫn can thiệp khá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, mặt khác trong nhiều lĩnh vực hoạt động đặc biệt là quản lý tài chính lại bị buông lỏng. Điều này hạn chế quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đồng thời làm cho Nhà nước mất vai trò thực sự là người chủ sở hữu và tạo cơ hội cho nhiều cá nhân lạm dụng, chiếm đoạt tài sản công để làm giàu cá nhân, hoặc làm ăn phi pháp. Trong một số doanh nghiệp nhà nước, đội ngũ cán bộ chủ chốt có trình độ chuyên môn và tổ chức quản lý chưa đủ tiêu chuẩn vì không đủ sức giải quyết các vấn đề phát sinh trong sản xuất kinh doanh. Nhiều giám đốc, kế toán trưởng đã phải vào tù vì tham ô tài sản của Nhà nước, vi phạm chế độ quản lý tài chính. 18
  9. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước còn thấp. Mấy năm gần đây, sản xuất trong các doanh nghiệp nhà nước bắt đầu được phục hồi và phát triển, nhưng nhìn chung hiệu quả vẫn còn thấp, thấp nhất là ở các ngành sản xuất vật chất. Trong các doanh nghiệp nhà nước đang hoạt động chỉ có 11,28% doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận từ 15%/năm trở lên trong ngành sản xuất vật chất và 4,3% doanh nghiệp nhà nước có tỷ suất lợi nhuận từ 20%/năm trong các ngành dịch vụ. Tỷ trọng tiêu hao vật chất trong tổng sản phẩm xã hội của khu vực kinh tế nhà nước cao gấp 2 lần so với kinh tế tư nhân. Hệ số sinh lời của khu vực doanh nghiệp nhà nước rất thấp. Hệ số sinh lời của vốn lưu động tính chung chỉ đạt 7%/năm trong đó ngành giao thông vận tải 2%/năm, ngành công nghiệp khoảng 3%/năm, ngành thương nghiệp đạta 22%/năm. Các doanh nghiệp nhà nước hoạt động thu lỗ chiếm tỷ trọng lớn. Cụ thể ở thời điểm 1997 chỉ có 76% hoạt động có lãi ở mức thấp, 22% doanh nghiệp bị thua lỗ, bình quân mỗi doanh nghiệp lỗ 0,6 tỷ đồng/năm, 2% doanh nghiệp hoạt động không thua lỗ, nhưng không có lãi. Các số liệu đó cho thấy việc làm ăn thua lỗ của các doanh nghiệp nhà nước đã gây ra tổn thất lớn cho ngân sách nhà nước và là một trong những nguyên nhân đưa đến việc bội chi ngân sách. Từ năm 1989 đến nay, nền kinh tế đã thực sự bước sang hoạt động theo cơ chế thị trường. Các chính sách kinh tế, tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước đã được thay đổi theo hướng tự do hoá giá cả, chi phí ngân sách nhà nước cho bù lỗ, bù giá, bổ sung vốn lưu động cho khu vực này đã giảm đáng kể. Nhưng tư tưởng bao cấp trong đầu tư vẫn còn nặng nề. Hàng năm 85% vốn tín dụng với lãi suất ưu đãi được dành cho doanh nghiệp nhà nước vay. Hầu hết các 19
  10. doanh nghiệp nhà nước không bảo toàn được nguồn vốn nhà nước đầu tư. Theo báo cáo của Tổng cục thống kê, nhìn chung các doanh nghiệp nhà nước mới chỉ bảo toàn được vốn lưu động, còn vốn cố định thì mới bảo toàn ở mức 50% so với chỉ số lạm phát. Hai ngành chiếm giữ vốn lớn nhất là công nghiệp và thương nghiệp (72,52%) lại là ngành có tỷ lệ thất thoát vốn lớn nhất (16,41% và 14,95%). Vấn đề nợ nần vòng vo mất khả năng thanh toán còn diễn ra khá nghiêm trọng do tình trạng quản lý của nhà nước về tài chính còn lỏng lẻo, từ đó nạn tham nhũng lãng phí diễn ra mức báo động. Từ sự phân tích trên ta có thể rút ra kết luận về thực trạng của doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay. - Số lượng các doanh nghiệp quá nhiều và bố trí không hợp lý. - Quy mô của doanh nghiệp nhà nước còn nhỏ bé. - Kỹ thuật và công nghệ ở các doanh nghiệp nhà nước còn lạc hậu. - Việc quản lý đối với hệ thống doanh nghiệp nhà nước còn yếu kém. - Hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước còn thấp. Từ bản chất cũng như thực trạng hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, chúng ta có thể thấy một vấn đề lớn trong cơ chế quản lý hiện nay làm cho doanh nghiệp nhà nước hoạt động chưa có hiệu quả là: Cơ chế thực hiện quyền sở hữu toàn dân trong các doanh nghiệp nhà nước là chưa rõ ràng. Người đại diện chủ sở hữu của doanh nghiệp nhà nước chưa được xác định cụ thể do đó dẫn đến tình trạng vô chủ hoặc quá nhiều chủ trong các doanh nghiệp Nhà nước. Do 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2