intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình Luật kinh tế: Phần 1 - CĐ Đông Phương

Chia sẻ: Trần Văn Tân | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:67

170
lượt xem
24
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Giáo trình Luật kinh tế phần 1 do trường Cao đẳng Đông Phương biên soạn với 4 chương đầu trình bày những vấn đề cơ bản về luật kinh tế ở Việt Nam, pháp luật về doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh cá thể, pháp luật về công ty, pháp luật về doanh nghiệp nhà nước. Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình Luật kinh tế: Phần 1 - CĐ Đông Phương

  1. CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LUẬT KINH TẾ Ở VIỆT NAM I. Vai trò của Pháp luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường Từ năm 1986, Nhà nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường. Hiệu quả kinh tế đạt được trong những năm qua đã chứng minh tính đúng đắn của chủ trương đó. Vì vậy, cơ chế thị trường đã được HP 1992 của nước ta ghi nhận thành nguyên tắc hiến định. Cả lý luận và thực tiễn đều đã khẳng định rằng nền kinh tế nào cũng cần nêu cao vai trò quản lý của nhà nước. Với bản chất “của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”, vai trò quản lý kinh tế của nhà nước ta lại càng to lớn. Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh tế diễn ra hết sức phức tạp về quan hệ kinh tế, với sự đa dạng về chủ thể, về lợi ích, về hình thức pháp lý,… Dù phức tạp thế ge nào đi nữa, sự quản lý của nhà nước cũng phải đảm bảo một nền kinh tế có tính tổ chức cao, ổn định, công bằng và có định hướng rõ rệt. Vì vậy, yêu cầu khách quan do nền kinh tế thị trường đặt ra đối với pháp luật thể hiện ở mức độ khái quát sau: le a) Trong nền kinh tế thị trường văn minh, việc đảm bảo sự thống nhất, hài ol hoà giữa kinh tế và xã hội là yêu cầu khách quan. Hai mặt này vốn luôn ở trạng thái mâu thuẫn nhau. Trong khi đó, với mục đích nhằm đạt được lợi nhuận cao nhất, bản thân nền kinh tế thị trường không bao hàm trong nó cơ chế bảo đảm C các vấn đề xã hội. Sự thống nhất giữa sự phát triển cả kinh tế lẫn xã hội chỉ có thể đạt được bằng sự can thiệp của nhà nước bằng pháp luật. Bởi vì, một trong những giá trị xã hội to lớn của pháp luật là gắn liền với những thuộc tính đặc PD trưng của đời sống cộng đồng, là “khế ước của cộng đồng”. Thiếu vai trò của pháp luật, không thể có một nền kinh tế thị trường văn minh. C b) Nói đến nền kinh tế thị trường là nói đến đa hình thức sở hữu đối với tư liệu sản xuất, đa thành phần kinh tế và đa lợi ích, từ đó, yêu cầu đặt ra là phải đảm bảo bình đẳng và công bằng. Việc đảm bảo bình đẳng và công bằng lại là thiên chức của pháp luật. Quyền tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh lành mạnh sẽ là hình thức nếu thiếu sự quy định của pháp luật, bảo đảm quyền bính dẳng của mọi doanh nghiệp trước pháp luật, trong những hoàn cảnh khác nhau, mọi doanh nghiệp được hưởng những khả năng, điều kiện và cơ hội như nhau, phải ngang quyền với nhau trong quan hệ với nhau, không có sự phân biệt đối xử nào. Trong điều kiện vẫn giữ vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh, càng cần phải đề cao vai trò của pháp luật trong việc đảm bảo sự bình đẳng, nếu không nền kinh tế nước ta rất dễ quay lại với cơ chế cũ: Tập trung quan liêu bao cấp. c) Tự do, năng động, sáng tạo và nhạy bén là những yêu cầu khách quan và là thuộc tính của nền kinh tế thị trường. Nhưng gắn liền với các yếu tố đó là 1
  2. nguy cơ làm xuất hiện tình trạng vô chính phủ, tùy tiện làm ăn gian lận trong nền kinh tế thị trường. Chúng đặt ra yêu cầu phải đề cao pháp luật để hạn chế và đi đến xoá bỏ tình trạng thiếu lành mạnh đó. Qua nghiên cứu, chúng ta thấy nền kinh tế thị trường Việt nam có những đặc điểm sau: - Nền kinh tế thị trường Việt nam được xây dựng từ nền kinh tế kế hoạch tập trung cao độ. Nền kinh tế thị trường đối lập với nền kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp và đối lập với cơ chế cấp phát – giao nộp. Cơ chế vận hành của kinh tế thị trường tuân theo quy luật riêng của nó, đó là quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh,…Vì vậy, việc chuyển sang nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải xoá bỏ triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Hệ thống pháp luật cũ là hệ quả tất yếu của cơ chế cũ, do đó cũng cần phải được thay thế bằng hệ thống pháp luật mới phù hợp. - Nền kinh tế thị trường Việt Nam với vai trò chủ đạo của thành phần ge kinh tế quốc doanh. Mục đích là nhằm bảo đảm sự phát triển ổn định và có hiệu quả toàn bộ nền kinh tế quốc dân theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện được vai trò đó, phải làm sao đảm bảo cho thành phần kinh tế quốc doanh chiếm vị trí then chốt trong nền kinh tế, có đủ lực lượng vật chất chi phối thị le trường và là tấm gương về năng suất, chất lượng, về công nghệ và công tác quản lý, về quan hệ hợp tác và cạnh tranh. Trong khi nền kinh tế thị trường đặt ra yêu ol cầu phải đảm bảo tự do, bình đẳng, công bằng,… thì việc đảm bảo vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế quốc doanh, về mặt pháp lý đòi hỏi phải xử lý nhiều C mối quan hệ kinh tế, xã hội phức tạp, nếu không nghiên cứu kỹ để đề ra những phương hướng giải quyết thì dễ làm mất tính lành mạnh của nền kinh tế thị truờng, nhất là của sự cạnh tranh thực sự, dẫn đến sự quay trở lại với cơ chế kinh PD tế cũ: tập trung, quan liêu, bao cấp. - Nền kinh tế thị trường Việt Nam có định hướng xã hội chủ nghĩa. Với đặc điểm đó, việc chuyển sang nền kinh tế thị trường không phải đơn thuần là một quá trình kinh tế mà bao giờ cũng gắn với những thay đổi lớn, căn bản về C mặt xã hội. Vì vậy, nội dung của hệ thống pháp luật mới phải đảm bảo hai mặt chủ yếu: Một mặt bảo đảm nguyên tắc mọi người được tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh, bình đẳng trước pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp, mặt khác, do cạnh tranh mà dẫn đến sự phân hoá những người sản xuất kinh doanh, kích thích người kinh doanh chạy theo lợi nhuận trước mắt, không tính đến lợi ích toàn cục, xem nhẹ các yêu cầu xã hội, phá vỡ môi sinh và để lại những hậu quả xấu về mặt xã hội, do đó hơn lúc nào hết, cần phải đề cao vai trò của pháp luật, nhằm đảm bảo lợi ích của xã hội, bảo vệ người lao động, người tiêu dùng. Tóm lại, nền kinh tế thị trường đòi hỏi pháp luật kinh tế phải đáp ứng các yêu cầu sau: - Tạo ra những tiền đề pháp lý vững chắc để ổn định các quan hệ kinh tế, làm cho mọi thành phân kinh tế, mọi công dân yên tâm chủ động huy động mọi tiềm năng sáng tạo và tiềm lực kinh tế vào sản xuất, kinh doanh dịch vụ; 2
  3. - Tạo ra cơ chế pháp lý đảm bảo một cách có hiệu quả sự bình đẳng thực sự giữa các thành phần kinh tế; - Đấu tranh phòng và chống có hiệu quả những hiện tượng tiêu cực nảy sinh trong quá trình vận hành của nền kinh tế thị trường đồng thời bảo vệ một cách chắc chắn lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp, của mọi công dân và người tiêu dùng. II/ Khái niệm, đối tượng điều chỉnh, chủ thể và phương pháp điều chỉnh của Luật Kinh tế: 1) Khái niệm luật Kinh tế: Luật Kinh tế là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức, quản lý và hoạt động của sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp với nhau và với các cơ quan quản lý nhà nước. 2) Đối tượng điều chỉnh của luật Kinh tế: ge Để có căn cứ xác định đối tượng điều chỉnh của luật Kinh tế, trước hết phải làm rõ vấn đề Nhà nước sử dụng luật Kinh tế để can thiệp như thế nào vào đời sống kinh tế. Qua nghiên cứu, chúng ta rút ra mấy khía cạnh cơ bản sau: le a) Thông qua luật Kinh tế, Nhà nước xác định địa vị pháp lý cho các tổ ol chức, đơn vị kinh tế; b) Thông qua luật Kinh tế, Nhà nước điều chỉnh hành vi kinh doanh của C các chủ thể kinh doanh; c) Thông qua luật Kinh tế, Nhà nước quy định cơ quan tài phán trong kinh doanh; PD d) Thông qua luật Kinh tế, Nhà nước quy định điều kiện, thủ tục phá sản của các doanh nghiệp. Từ đó, chúng ta thấy rõ ràng luật Kinh tế điều chỉnh những nhóm quan hệ C xã hội sau: - Quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp như: Mua bán vật tư, sản phẩm, cung cấp dịch vụ các loại,… Đây là nhóm quan hệ chủ yếu, nhóm quan hệ này có những đặc điểm cơ bản: + Chúng phát sinh trực tiếp trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. + Chủ thể của nhóm quan hệ này là các doanh nghiệp như các doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, các doanh nghiệp tư nhân,…đó là quan hệ phát sinh giữa các chủ thể độc lập, bình đẳng với nhau. + Nhóm quan hệ này phát sinh chủ yếu thông qua các hợp đồng kinh tế + Quan hệ này là quan hệ tài sản. Tuy nhiên, các quan hệ tài sản này khác với quan hệ tài sản trong luật dân sự. Quan hệ tài sản trong luật dân sự được 3
  4. hình thành do nhu cầu tiêu dùng cá nhân và bị chi phối bởi nhu cầu tiêu dùng của cá nhân. Quan hệ tài sản trong luật kinh tế được hình thành do nhu cấu hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Do bị chi phối bởi nhu cầu của sản xuất, kinh doanh nên ngoài sự tác động của thị trường, quan hệ kinh tế này còn chịu sự tác động của nhà nước. Vì vậy, trong một số quan hệ kinh tế cụ thể do luật kinh tế điều chỉnh, ngoài yếu tố tài sản còn có yếu tố yếu tố tổ chức kế hoạch nữa. Tùy theo mức độ thể hiện yếu tố tổ chức kế hoạch, quan hệ kinh tế thuộc nhóm này có thể chia thành các nhóm nhỏ sau: . Nhóm quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp nhằm thực hiện các chỉ tiêu pháp lệnh của nhà nước . Quan hệ kinh tế phát sinh giữa các đơn vị kinh tế mà một bên tham gia được giao chỉ tiêu pháp lệnh hoặc cả hai bên tham gia không được giao chỉ tiêu ge pháp lệnh - Quan hệ phát sinh giữa cơ quan quản lí nhà nước về kinh tế đối với các doanh nghiệp. Quan hệ này có đặc điểm là chúng phát sinh trong quá trình quản le lý kinh tế. Chủ thể tham gia quan hệ này ở vào vị trí pháp lý không bình đẳng. Một bên là cơ quan quản lí kinh tế cấp trên, một bên là đơn vị kinh tế cấp dưới ol - Quan hệ kinh tế phát sinh trong nội bộ doanh nghiệp: Các doanh nghiệp được cấu thành bởi các bộ phận như: phân xưởng, đội sản xuất,… Việc sản xuất C của các bộ phận này được tiến hành trên cơ sở hạch toán nội bộ hoặc chế độ khoán. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, mỗi bộ phận hợp thành có những vai trò khác nhau trong việc tạo ra sản phẩm hay kết quả công việc của đơn vị. PD Giữa chúng phát sinh những quan hệ nhất định – quan hệ nội bộ. 3) Chủ thể của luật Kinh tế: Mỗi ngành luật có cơ cấu chủ thể khác nhau, điều đó trước hết tuỳ thuộc vào những quan hệ mà ngành luật đó điều chỉnh. Những quan hệ do luật kinh tế C điều chỉnh gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh, mà hoạt động sản xuất kinh doanh trong xã hội diễn ra rất phong phú, đa dạng dưới nhiều hình thức, quy mô và lĩnh vực khác nhau. Do đó, chủ thể tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh cũng rất đa dạng, bao gồm nhiều tổ chức, đơn vị, cá nhân. Vì vậy, để xác định chủ thể của luật Kinh tế phải dựa vào những dấu hiệu cơ bản sau: a) Chủ thể của luật Kinh tế phải là đơn vị được thành lập hợp pháp b) Phải có tài sản riêng c) Phải có thẩm quyền kinh tế Căn cứ vào vị trí, vai trò, mức độ tham gia vào các quan hệ kinh tế, chủ thể của luật Kinh tế được phân loại như sau: 4
  5. - Chủ thể chủ yếu, thường xuyên của luật kinh tế là các doanh nghiệp, các doanh nghiệp bao gồm: Doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân,… - Các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế: Đó là những cơ quan thay mặt nhà nước, nhân danh nhà nước chỉ đạo doanh nghiệp tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Cơ quan loại này bao gồm các bộ quản lý ngành kinh tế kỹ thuật, UBND các cấp, các sở, ban kinh tế ở địa phương. Ngoài những chủ thể trên, trên thực tế chúng ta còn thấy có những tổ chức, đơn vị tuy không có chức năng hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng cũng có thể là chủ thể của luật kinh tế. Đó là các tổ chức xã hội, trường học… trong quá trình hoạt động cũng ký kết hợp đồng kinh tế để phục vụ cho hoạt động chính của đơn vị. Khi đó chúng là chủ thể của luật kinh tế. Những chủ thể này không phải là chủ thể chủ yếu, thương xuyên của luật kinh tế vì chúng không ge tham gia liên tục, thường xuyên vào các quan hệ do luật kinh tế điều chỉnh. 4) Phương pháp điều chỉnh của luật kinh tế: Xuất phát từ tính chất của những quan hệ kinh tế do luật kinh tế điều le chỉnh, để sự tác động của pháp luật có hiệu quả, luật kinh tế sử dụng và phối hợp nhiều phương pháp tác động khác nhau, kết hợp phương pháp quyền uy và ol phương pháp bình đẳng theo mức độ linh hoạt tuỳ thuộc vào từng quan hệ kinh tế cụ thể C a) Phương pháp bình đẳng: Phương pháp này chủ yếu điều chỉnh những quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp. Đó là các đơn vị sản PD xuất hàng hoá độc lập với nhau. Theo phương pháp này, những vấn đề mà các bên tham gia quan tâm đều được giải quyết trên cơ sở bình đẳng, bàn bạc thoả thuận. C b) Phương pháp quyền uy: Phương pháp này được sử dụng chủ yếu để điều chỉnh những quan hệ kinh tế phát sinh trong lĩnh vực quản lí sản xuất kinh doanh. Chủ thể tham gia quan hệ này ở vào vị trí pháp lí không bình đẳng, một bên là cơ quan quản lí nhà nước về kinh tế, một bên là các đơn vị kinh tế cơ sở trực thuộc. Bản chất của phương pháp này thể hiện ở chỗ cơ quan quản lí nhà nước về kinh tế có quyền đưa ra những quyết định bát buộc đối với đơn vị kinh tế cơ sở trực thuộc. Ở mức độ nhất định, phương pháp này là cần thiết cho sự quản lí nhà nước. III/ Nguồn của luật kinh tế: Nguồn của luật kinh tế là những văn bản pháp luật chứa đựng những quy phạm pháp luật kinh tế, do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Nguồn của luật kinh tế bao gồm luật và các văn bản dưới luật. 5
  6. 1) Hiến pháp 1992 là đạo luật cơ bản của nhà nước và là nguồn của nhiều ngành luật. Đối vớ luật kinh tế, Hiến pháp có vai trò đặc biệt quan trọng. Những quy định trong Hiến pháp là cơ sở, nguyên tắc chung cho việc xây dựng luật kinh tế. Cụ thể, tại Chương II Hiến pháp 1992 quy định: Chế độ kinh tế, là những quy định mang tính nguyên tắc chỉ đạo việc xác lập các chế định, các quy phạm pháp luật kinh tế cụ thể. 2) Các lụât do Quốc hội thông qua như: Luật Doanh nghiệp nhà nước 2003, Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Phá sản doanh nghiệp 2004… 3) Những Nghị quyết của Quốc hội như Nghị quyết của Quốc hội thông qua phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch nhà nước 4) Pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ quốc hội như Pháp lệnh về quyền sở hữu và bảo vệ công nghệp 5) Nghị quyết, Nghị định, Quyết định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các văn bản của các Bộ và các uỷ ban của QH. ge IV/ Đối tượng nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu của luật kinh tế 1) Đối tượng nghiên cứu le Môn khoa học luật kinh tế nghiên cứu những vấn đề cơ bản sau: - Bản chất, đặc điểm của các quy phạm luật kinh tế, sự phát sinh, phát ol triển của các chế độ pháp lý về quản lý sản xuất kinh doanh và xu hướng phát triển của các quy phạm, các chế định pháp luật kinh tế. Nghĩa là, nghiên cứu các C hình thức pháp lý của các quan hệ kinh tế - Nội dung, đặc điểm của các quan hệ pháp luật kinh tế - Vấn đề áp dụng luật kinh tế trong thực tiễn sản xuất kinh doanh. Những PD biện pháp để nâng cao hiệu quả của luật kinh tế. - Mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và pháp luật kinh tế 2) Phương pháp nghiên cứu: C Cũng giống như các môn khoa học pháp lý khác, khoa học luật kinh tế lấy triết học Mác – Lênin làm cơ sở phương pháp luận cho việc nghiên cứu. Đó là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Phương pháp này được vận dụng cụ thể khi nghiên cứu luật kinh tế là phải xuất phát từ cơ sở kinh tế để phân tích các quy phạm pháp luật, các chế định luật kinh tế trong mối quan hệ biện chứng và thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh. Luật kinh tế là hình thức pháp lý của các quan hệ kinh tế nhưng không phải phản ánh nội dung kinh tế một cách trực tiếp mà thông qua ý chí nhà nước. Ý chí của Nhà nước khi đã trở thành pháp luật không phải chỉ chịu ảnh hưởng của kinh tế mà còn chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác. Vì vậy, luật kinh tế không phải là bản sao các hiện tượng kinh tế, không phải bao giờ cũng phù hợp với sự phát triển của sản xuất mà thường đi chậm hơn so với sự phát triển của sản xuất kinh doanh. Chính vì thế, khi nghiên cứu luật kinh tế phải tính đến sự khác nhau có thể có giữa nội dung kinh tế và hình thức pháp lý của nó. Điều này ở nước ta ít xảy ra, nhiều chế độ, 6
  7. thể lệ, nhiều quy định đã lỗi thời không còn phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc nhiều hiện tượng kinh tế mới đã xuất hiện nhưng chưa có quy định của pháp luật để điều chỉnh chúng. Nghiên cứu luật kinh tế là nghiên cứu các quy phạm, các chế định pháp luật về quản lý sản xuất kinh doanh để từ đó rút ra những kết luận khoa học góp phần hoàn thiện luật kinh tế. Ngoài ra, còn phải nghiên cứu luật kinh doanh của các nước để tiếp thu những lí luận tiên tiến phục vụ cho việc xây dựng pháp luật và áp dụng pháp luật vào thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước ta. Ngoài phương pháp triết học là phương pháp chung, khi nghiên cứu luật kinh tế còn phải vận dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp phân tích, phương pháp so sánh… Các phương pháp này giúp cho việc nghiên cứu luật kinh tế ở những mức độ khác nhau của các quy phạm, các chế định luật kinh tế. ge le ol C PD C 7
  8. CHƯƠNG II PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN VÀ HỘ KINH DOANH CÁ THỂ I. PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN 1. Khái niệm doanh nghiệp tư nhân: Sự phát triển của nền kinh tế thị trường ở Vệt Nam đòi hỏi phải có một khung pháp luật kinh tế hoàn chỉnh, trong đó pháp luật về doanh nghiệp có vai trò quan trọng. Tuy nhiên, ở Việt Nam, quá trình công nhận hình thức sở hữu tư nhân chiếm một thời gian khá dài trong tương quan so sánh với quá trình phát triển kinh tế. Vì vậy, sự ra đời của các doanh nghiệp đại diện cho hình thức sở hữu này khá muộn so với các hình thức doanh nghiệp đại diện cho các hình thức sở hữu khác. Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, Nhà nước đã ban ge hành hàng loạt các văn bản pháp luật thừa nhận sự tồn tại của kinh tế tư nhân và tạo thành khung pháp lý cho sự phát triển của kinh tế tư nhân nói chung và doanh nghiệp tư nhân nói riêng. Nghị định số 27/HĐBT-1988 của Hội đồng Bộ le trưởng ban hành ngày 09/3/1988 đã cho phép các cá thể kinh doanh đạt mức lợi nhuận cao được mở rộng thêm quy mô kinh doanh trở thành doanh nghiệp tư nhân hoặc kết hợp với nhau thành đơn vị lớn gọi là Công ti tư doanh. ol Luật doanh nghiệp tư nhân ban hành ngày 21/12/1990 quy định: "Nhà C nước công nhận sự tồn tại lâu dài và sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân, thừa nhận sự bình đẳng trước pháp luật với các doanh nghiệp" (Điều 1). Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng ghi nhận: PD "Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh đa dạng, dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân" (Điều 19); "Các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật" (Điều 22). C Như vậy, ở Việt Nam, đầu những năm 90 của thế kỷ XX, hình thức doanh nghiệp tư nhân đã được pháp luật thừa nhận. Tuy nhiên, gần 10 năm sau đó mới có những quy định pháp luật hoàn thiện địa vị pháp lý của doanh nghiệp tư nhân. Luật doanh nghiệp năm 1999 ra đời đã đánh dấu một mốc son trên con đường hoàn thiện khung pháp luật về các loại hình doanh nghiệp ở nước ta nói chung và doanh nghiệp tư nhân nói riêng. Có thể nói Luật doanh nghiệp năm 1999 đã bổ sung và cơ cấu lại các quy định về doanh nghiệp tư nhân ở mọi phương diện, từ cơ cấu tổ chức, trình tự thành lập, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của doanh nghiệp cũng như của chủ doanh nghiệp tư nhân, đặt cơ sở cho một định hướng phát triển đồng bộ, thống nhất giữa hình thức doanh nghiệp này với các loại hình kinh doanh khác. Ngày 29/11/2005, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật doanh nghiệp thay thế cho Luật doanh nghiệp năm 1999; Luật doanh nghiệp Nhà nước năm 2003 và Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 8
  9. 1996 (sửa đổi, bổ sung năm 2000). Luật doanh nghiệp năm 2005 ra đời thể hiện sự thống nhất trong việc điều chỉnh địa vị pháp lí của các doanh nghiệp ở Việt Nam, điều này một lần nữa khẳng định vị trí, vai trò của doanh nghiệp tư nhân bên cạnh các loại hình doanh nghiệp khác. Trước hết, doanh nghiệp tư nhân là "tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh" (Khoản 1 Điều 4 Luật doanh nghiệp năm 2005). Bên cạnh những dấu hiệu chung để nhận biết một doanh nghiệp, doanh nghiệp tư nhân có những nét rất đặc thù mà thông qua đó có thể phân biệt được doanh nghiệp tư nhân với các doanh nghiệp khác. Để làm rõ các khía cạnh pháp lý cơ bản của doanh nghiệp tư nhân, Điều 141 Luật doanh nghiệp năm 2005 định nghĩa: "Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp; doanh nghiệp tư nhân không được phát hành bất kì một loại chứng khoán nào; mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp ge tư nhân". 2. Đặc điểm pháp lý của doanh nghiệp tư nhân: a. Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ: le Là một trong năm loại hình doanh nghiệp được điều chỉnh bởi Luật doanh nghiệp năm 2005, doanh nghiệp tư nhân có những đặc điểm chung cũng như ol những nét phân biệt với các loại hình doanh nghiệp khác. Điểm phân biệt đầu tiên và cũng là rõ nét nhất là doanh nghiệp tư nhân chỉ do một cá nhân làm chủ. C Theo Pháp luật Việt Nam, doanh nghiệp tư nhân được xếp vào nhóm các doanh nghiệp một chủ sở hữu. Các doanh nghiệp một chủ bao gồm: Công ty Nhà nước, Công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ và doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên, ngay PD trong nhóm các doanh nghiệp một chủ, doanh nghiệp tư nhân cũng mang những nét khác biệt, đó là loại hình doanh nghiệp này chỉ do một cá nhân duy nhất làm chủ sở hữu. Như vậy, trong doanh nghiệp tư nhân không xuất hiện sự góp vốn như ở các Công ty nhiều chủ sở hữu, nguồn vốn của doanh nghiệp cũng chủ yếu C xuất phát từ tài sản cuả một cá nhân duy nhất. Từ đặc điểm này có thể thấy rằng doanh nghiệp tư nhân bao hàm trong nó những đặc trưng nhất định giúp phân biệt loại hình doanh nghiệp tư nhân với các loại hình khác. Cụ thể: - Về quan hệ sở hữu vốn trong doanh nghiệp: Nguồn vốn ban đầu của doanh nghiệp tư nhân xuất phát chủ yếu từ tài sản của một cá nhân, phần vốn này sẽ do chủ doanh nghiệp tự khai báo với cơ quan đăng ký kinh doanh (gọi là vốn đầu tư của doanh nghiệp tư nhân) và được ghi chép đầy đủ vào sổ kế toán của doanh nghiệp. Như vậy, cá nhân chủ doanh nghiệp tư nhân đưa vào kinh doanh một số vốn nhất định trong khối tài sản thuộc sở hữu của cá nhân mình và về nguyên tắc, tài sản đưa vào kinh doanh đó là tài sản của doanh nghiệp tư nhân. Nhưng trong quá trình hoạt động, chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn có quyền tăng giảm vốn đầu tư, chỉ phải khai báo với cơ quan đăng ký kinh doanh trong trường hợp giảm vốn xuống dưới mức đã đăng ký. Chính từ điều này có thể kết luận rằng hầu như không có giới hạn nào 9
  10. giữa phần vốn và tài sản đưa vào kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân và phần tài sản còn lại thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp. Trong mọi thời điểm, sự thay đổi về mức vốn kinh doanh đều có thể diễn ra, vì thế ranh giới giữa phần tài sản và vốn đưa vào kinh doanh và phần tài sản còn lại của chủ doanh nghiệp chỉ tồn tại một cách tạm thời. Hay nói cách khác, không có sự phân biệt rõ ràng giữa hai phần tài sản này. Điều này có ý nghĩa trong việc nhìn nhận về khối tài sản của doanh nghiệp tư nhân và tài sản chính doanh nghiệp tư nhân đó. - Quan hệ sở hữu quyết định quan hệ quản lý: Doanh nghiệp tư nhân chỉ có một chủ đầu tư duy nhất, vì vậy cá nhân có quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp. Chủ doanh nghiệp tư nhân là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp tư nhân. Một trong những ưu điểm của việc lựa chọn mô hình doanh nghiệp tư nhân để kinh doanh đó là chủ doanh nghiệp tư nhân không phải chia sẻ quyền quản lí doanh nghiệp với bất cứ đối tượng nào khác. Chủ doanh nghiệp có quyền định đoạt đối với tài sản doanh nghiệp cũng như có toàn quyền quyết ge định việc tổ chức quản lý doanh nghiệp để doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả nhất. Chủ doanh nghiệp tư nhân có thể tự mình quản lý doanh nghiệp hoặc thuê người khác quản lý doanh nghiệp. Trong trường hợp thuê người quản lý, chủ le doanh nghiệp tư nhân vẫn phải chịu trách nhiệm trước mọi hành động của doanh nghiệp dưới sự quản lý, điều hành của người được thuê. Giới hạn trách nhiệm ol được phân chia giữa chủ doanh nghiệp và người được thuê quản lý thông qua một hợp đồng. Nhưng về cơ bản, người chịu trách nhiệm trực tiếp trước pháp luật và các bên thứ ba đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp vẫn là C chủ doanh nghiệp tư nhân. - Về phân phối lợi nhuận: PD Vấn đề phân chia lợi nhuận không đặt ra đối với doanh nghiệp tư nhân, bởi lẽ doanh nghiệp này chỉ có một chủ sở hữu và toàn bộ lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ thuộc về một mình chủ doanh nghiệp, sau khi đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ với Nhà nước và các bên thứ C ba. Đây cũng là một ưu điểm khi kinh doanh dưới hình thức doanh nghiệp một chủ. Người được thuê điều hành doanh nghiệp tư nhân cũng không có quyền đòi hỏi một số % nhất định trong số lợi nhuận thu được nếu điều này không được đặt ra trong hợp đồng thuê người quản lý đã ký giữa chủ doanh nghiệp và người được thuê. Tuy nhiên, việc một cá nhân duy nhất có quyền hưởng lợi nhuận cũng có nghĩa là cá nhân duy nhất đó sẽ có nghĩa vụ chịu mọi rủi ro trong kinh doanh mà không thể yêu cầu người khác gánh đỡ những rủi ro này. Đây cũng là một điểm hạn chế lớn, là nguyên nhân khiến cho không ít nhà đầu tư không muốn kinh doanh dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân. b. Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân: Doanh nghiệp tư nhân không phải là pháp nhân. Theo quy định của Luật doanh nghiệp năm 2005, doanh nghiệp tư nhân là loại hình doanh nghiệp duy nhất không có tư cách pháp nhân. Trước đây, Luật doanh nghiệp không quy định tư cách pháp nhân cho doanh nghiệp tư nhân cũng như Công ty hợp danh với lý 10
  11. do chủ yếu liên quan đến quan hệ vốn và tài sản giữa chủ doanh nghiệp tư nhân; các thành viên hợp danh và doanh nghiệp. Doanh nghiệp tư nhân cũng như Công ty hợp danh không có sự độc lập về tài sản. Tiêu chuẩn đầu tiên để xét tính độc lập về tài sản của một doanh nghiệp là tài sản của doanh nghiệp là tài sản của doanh nghiệp đó phải độc lập trong quan hệ với tài sản của chủ doanh nghiệp. Doanh nghiệp tư nhân không thỏa mãn tiêu chuẩn quan trọng này, vì thế nó không thỏa mãn một trong các điều kiện cơ bản để có được tư cách pháp nhân. Tuy nhiên, Luật doanh nghiệp năm 2005 đã quy định Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân trong khi sự tách bạch, độc lập về mặt tài sản của Công ty với tài sản của các thành viên hợp danh vẫn chưa xác định được. Hiện tại, chỉ còn doanh nghiệp tư nhân là loại hình doanh nghiệp không có tư cách pháp nhân. Việc không phải là pháp nhân, doanh nghiệp tư nhân cũng gặp phải một số khó khăn nhất định và bị hạn chế ít nhiều trong hoạt động thương mại dưới sự điều chỉnh của pháp luật hiện hành. c. Chủ doanh nghiệp tư nhân chịu trách nhiệm vô hạn trước mọi khoản ge nợ phát sinh trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp tư nhân: Đối với chủ doanh nghiệp tư nhân, do tính chất độc lập về tài sản của doanh nghiệp tư nhân - người chịu trách nhiệm duy nhất trước mọi rủi ro của le doanh nghiệp sẽ phải chịu chế độ trách nhiệm vô hạn. Chủ doanh nghiệp tư nhân không chỉ chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong ol phạm vi phần vốn đầu tư đã đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh mà phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình trong trường hợp phần vốn đầu tư đã đăng ký không đủ để trang trải các khoản nợ của doanh nghiệp tư nhân. C Một doanh nghiệp tư nhân không có khả năng thanh toán nợ đến hạn và lâm vào tình trạng phá sản thì tất cả những tài sản thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp tư nhân đều nằm trong diện tài sản phá sản của doanh nghiệp. Chính vì đặc trưng PD pháp lý cơ bản này mà bên cạnh những hạn chế do không có tư cách pháp nhân, doanh nghiệp tư nhân còn phải chịu một số hạn chế khác như không được phát hành bất kỳ một loại chứng khoán nào và chủ doanh nghiệp tư nhân chỉ được thành lập duy nhất một doanh nghiệp tư nhân và cho đến khi nào doanh nghiệp C tư nhân đã được thành lập đó vẫn còn tồn tại thì cá nhân chủ doanh nghiệp tư nhân không được thành lập thêm một doanh nghiệp tư nhân khác. 3. Quy chế pháp lí về hình thành và chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp tư nhân: a. Đăng ký kinh doanh doanh nghiệp tư nhân: * Điều kiện đăng ký kinh doanh: Theo quy định của Pháp luật hiện hành, để một doanh nghiệp tư nhân được đăng ký kinh doanh, cần hội đủ những điều kiện nhất định. Cụ thể: - Điều kiện về chủ thể: Xuất phát từ việc doanh nghiệp tư nhân do một cá nhân duy nhất làm chủ, cá nhân này chính là người trực tiếp thành lập và quản lý doanh nghiệp tư nhân, cho nên, điều kiện để trở thành chủ doanh nghiệp tư nhân cũng chính là các điều 11
  12. kiện được quy định tại Điều 13 Luật doanh nghiệp năm 2005. Theo đó, một số cá nhân sau đây không thể trở thành chủ doanh nghiệp tư nhân: + Cán bộ, công chức; + Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị trực thuộc quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp trong các cơ quan, đơn vị thuộc công an nhân dân; + Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong các doanh nghiệp 100% vốn sở hữu Nhà nước, trừ những người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp khác; + Người chưa thành niên, người thành niên bị hạn chế hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự; + Người đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị tòa án cấm hành nghề kinh doanh. ge + Các trường hợp khác theo quy định của Pháp luật về phá sản. - Điều kiện về vốn: Trước đây, theo quy định của Luật doanh nghiệp tư nhân năm 1990 thì le vốn pháp định là một điều kiện bắt buộc cho mỗi chủ thể đầu tư khi muốn thành lập doanh nghiệp tư nhân. Luật doanh nghiệp năm 1999 đã bỏ quy định về vốn ol pháp định như một điều kiện để thành lập doanh nghiệp tư nhân, trừ một số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh trong những ngành nghề mang tính chất đặc C thù thuộc hạng mục phải đáp ứng Điều lệ về vốn pháp định. Luật doanh nghiệp năm 2005, về nguyên tắc vẫn không quy định vốn pháp định đối với tất cả các ngành nghề kinh doanh, trừ một số ngành nghề đặc biệt. PD Như vậy, để thành lập một doanh nghiệp tư nhân, chủ đầu tư không phải đáp ứng điều kiện bắt buộc về một số vốn tối thiểu phải có nếu doanh nghiệp không đăng ký kinh doanh trong những ngành nghề thuộc danh mục phải có vốn quy định. Tuy nhiên, đã là đăng ký để thực hiện hoạt động kinh doanh thì phải C có vốn. Vốn ban đầu của doanh nghiệp tư nhân sẽ do chủ doanh nghiệp tư nhân tự khai và chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền tăng hoặc giảm vốn ban đầu này. - Các điều kiện khác: Ngoài hai điều kiện quan trọng là điều kiện về chủ thể có quyền thành lập doanh nghiệp và điều kiện về vốn, các điều kiện khác như điều kiện về ngành nghề kinh doanh, điều kiện về tên doanh nghiệp ... cũng đóng góp những phần không nhỏ để làm căn cứ xét tính hợp pháp của việc đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp tư nhân. Thứ nhất, điều kiện về ngành nghề kinh doanh: Đối với điều kiện về ngành nghề kinh doanh, pháp luật quy định, doanh nghiệp được kinh doanh trong tất cả các ngành nghề mà pháp luật không cấm. Về cơ bản, ngành nghề kinh doanh được chia theo các nhóm: Nhóm ngành nghề kinh doanh tự do, nhóm ngành nghề kinh doanh có điều kiện (phải có chứng chỉ 12
  13. hành nghề hoặc giấy phép hành nghề) và nhóm ngành nghề kinh doanh bị cấm. Như vậy, chủ đầu tư có thể lựa chọn bất cứ ngành nghề nào nằm ngoài nhóm ngành nghề bị cấm kinh doanh, đặc biệt đối với những ngành nghề kinh doanh có điều kiện thì việc chọn ngành nghề kinh doanh được coi là hợp pháp khi chủ đầu tư đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của pháp luật liên quan đến ngành nghề đó. Thứ hai, điều kiện về tên doanh nghiệp Với điều kiện về tên doanh nghiệp, khoản 1, khoản 2, Điều 31 Luật doanh nghiệp năm 2005 quy định: Tên doanh nghiệp phải được viết tắc bằng Tiếng Việt và có thể kèm theo chữ số và ký hiệu, phải phát âm được và có ít nhất 2 thành tố: loại hình doanh nghiệp và tên riêng. Như vậy, với quy định này, tên của tất cả các doanh nghiệp tư nhân đều phải kèm theo cụm từ "doanh nghiệp tư nhân". Ngoài ra, pháp luật còn nêu ra một số trường hợp cấm trong khi lựa chọn tên cho doanh nghiệp như: Không được đặt tên trùng hoặc tên gây nhầm lẫn với tên của doanh nghiệp đã đăng ký; không được sử dụng tên cơ quan Nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân, tên của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - ge xã hội để làm toàn bộ hoặc một phần tên riêng của doanh nghiệp, trừ trường hợp có sự chấp thuận của cơ quan, đơn vị hoặc tổ chức đó; không được sử dụng từ ngữ, ký hiệu vi phạm truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ le tục của dân tộc để đặt tên riêng cho doanh nghiệp. Ngoài ra, pháp luật cũng cho phép các doanh nghiệp được dịch tên doanh nghiệp sang tiếng nước ngoài hoặc ol viết tắt, tuy nhiên trong mọi trường hợp vẫn phải thể hiện đầy đủ tên doanh nghiệp bằng Tiếng Việt trên biển hiệu của doanh nghiệp. C * Thủ tục đăng ký kinh doanh: Với tư cách là một trong những loại hình doanh nghiệp được điều chỉnh bởi Luật doanh nghiệp năm 2005, doanh nghiệp tư nhân cũng phải tuân theo quy PD trình, cách thức, các bước giống như việc đăng ký kinh doanh cho các loại hình Công ty. Nhìn từ phía chủ đầu tư, các bước tiến hành đăng ký kinh doanh có thẩm C quyền. Hồ sơ đăng ký kinh doanh phải có đầy đủ các giấy tờ theo quy định của pháp luật (bao gồm: giấy đề nghị đăng ký kinh doanh theo mẫu thống nhất; bảng sao giấy chứng minh nhân dân, hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác; văn bản xác nhận phần vốn pháp định của doanh nghiệp nếu kinh doanh trong những ngành nghề yêu cầu có vốn pháp định; chứng chỉ hành nghề của chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc Giám đốc doanh nghiệp); - Nộp lệ phí đăng ký kinh doanh; - Bổ sung và hoàn tất hồ sơ nếu thiếu sót hoặc chưa đầy đủ; - Chậm nhất là 30 ngày, kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, phải công bố sự ra đời của doanh nghiệp tư nhân trên các báo hàng ngày của trung ương và địa phương trong 3 số liên tiếp với nội dung theo pháp luật quy định. 13
  14. - Nhìn từ phía các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp tư nhân, việc trả lời từ chối cấp hoặc quyết định cấp chứng nhận đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp bao gồm các bước sau: - Nhận hồ sơ đăng ký kinh doanh; - Xem xét tính hợp lệ của hồ sơ và các điều kiện đăng ký kinh doanh; - Cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp; hoặc thông báo bằng văn bản nêu rõ lý do từ chối cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp tư nhân có quyền đăng ký bổ sung, thay đổi ngành nghề kinh doanh, thay đổi địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp, thay đổi tên doanh nghiệp, đăng ký thay đổi vốn đầu tư của chủ doanh nghiệp. Doanh nghiệp tư nhân cũng có quyền được đăng ký lập chi nhánh, văn phòng đại diện của mình theo quy định của pháp luật. Sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp tư ge nhân có quyền hoạt động kinh doanh một cách hợp pháp. b. Chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp tư nhân: le * Giải thể doanh nghiệp tư nhân: Với tư cách là một loại hình doanh nghiệp, doanh nghiệp tư nhân cũng có ol cùng một quy chế giải thể chung với các loại hình doanh nghiệp khác như Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần và Công ty hợp danh. Tuy nhiên, ngoài C những quy định chung, xét riêng đối với doanh nghiệp tư nhân, quy chế giải thể cũng có một số điểm khác biệt. Theo Điều 157 Luật doanh nghiệp năm 2005, doanh nghiệp tư nhân giải PD thể theo các trường hợp sau đây: Thứ nhất, theo quyết định của chủ doanh nghiệp tư nhân có thể coi đây là trường hợp giải thể tự nguyện. Với quy định này, Luật doanh nghiệp trao cho chủ doanh nghiệp tư nhân được quyết định việc có giải thể doanh nghiệp hay C không, có nghĩa là lí do giải thể ở đây sẽ phụ thuộc vào ý chí và sự lựa chọn rộng rãi của chủ doanh nghiệp tư nhân. Như vậy, chủ doanh nghiệp tư nhân có thể giải thể doanh nghiệp với bất cứ lý do gì, khi cho rằng sự tồn tại của doanh nghiệp tư nhân là không còn có lợi ... Điều này cũng đảm bảo được một cách cao hơn quyền tự do kinh doanh và sở hữu doanh nghiệp của các nhà đầu tư. Thứ hai, bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Luật doanh nghiệp quy định trường hợp giải thể bắt buộc đối với doanh nghiệp tư nhân bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Việc quy định này xuất phát từ việc đảm bảo tính pháp chế tuyệt đối trong việc áp dụng Luật. Theo Luật doanh nghiệp, để thành lập doanh nghiệp tư nhân, người thành lập phải làm hồ sơ đăng ký kinh doanh và nộp cho cơ quan đăng ký kinh doanh đồng thời phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của nội hồ sơ đăng ký kinh doanh. Nội dung của giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh bao gồm 14
  15. những yếu tố cấu thành nên một doanh nghiệp tư nhân như: Tên chủ doanh nghiệp, số vốn đăng ký, thời hạn hoạt động, ngành nghề và phạm vi kinh doanh v.v... Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh chính là loại giấy tờ quan trọng nhất của doanh nghiệp, có được giấy này, chứng tỏ Nhà nước công nhận doanh nghiệp tư nhân là một chủ thể kinh doanh và có thẩm quyền kinh tế. Hay nói cách khác, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh chứng minh tính hợp pháp hay bất hợp pháp của hoạt động kinh doanh do doanh nghiệp tư nhân tiến hành. Có thể coi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh chính là tấm giấy "thông hành" để doanh nghiệp tư nhân có thể tiến hành các hoạt động của mình, xác lập các quan hệ với Nhà nước và với công chứng giao dịch. Bị thu hồi giấy chứng nhận kinh doanh cũng có nghĩa là Nhà nước rút lại sự công nhận tư cách chủ thể kinh doanh đối với doanh nghiệp tư nhân. Lúc này, doanh nghiệp tư nhân không còn thẩm quyền kinh tế, nghĩa là không còn được tiến hành các hoạt động kinh doanh. Mục đích của việc thành lập doanh nghiệp không có cơ hội để thực hiện nữa. Vì vậy, sự tồn tại của doanh nghiệp này cũng không có ý nghĩa. ge Điều 158 Luật doanh nghiệp năm 2005 quy định rất rõ về thủ tục giải thể doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp tư nhân. Cụ thể, thủ tục giải thể một doanh nghiệp tư nhân gồm có 3 bước: le - Bước 1: Chủ doanh nghiệp tư nhân quyết định giải thể doanh nghiệp. - Bước 2: Chủ doanh nghiệp trực tiếp tổ chức thanh lý tài sản doanh ol nghiệp. - Bước 3: Trong thời hạn 7 ngày làm việc, phải tiến hành gửi quyết định C giải thể đến cơ quan đăng ký kinh doanh và thông báo giải thể đến tất cả những người có quyền và lợi ích liên quan, các chủ nợ của doanh nghiệp (kèm theo phương án giải quyết nợ), tiến hành thông báo công khai về việc giải thể thông PD qua việc niêm yết quyết định giải thể tại trụ sở chính của doanh nghiệp và đăng báo địa phương hoặc trung ương trong 3 số liên tiếp (nếu pháp luật quy định phải đăng báo). C - Bước 4: Trong thời hạn 7 ngày kể từ sau khi thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ của doanh nghiệp, người đại diện cho doanh nghiệp phải gửi hồ sơ về giải thể doanh nghiệp tư nhân đến cơ quan đăng ký kinh doanh. Trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận hồ sơ về giải thể doanh nghiệp, cơ quan đăng ký kinh doanh phải xóa tên doanh nghiệp tư nhân đó trong sổ đăng ký kinh doanh. Đây là hành vi pháp lý cuối cùng chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp tư nhân với tư cách là một doanh nghiệp. * Phá sản doanh nghiệp tư nhân: Doanh nghiệp tư nhân lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ kéo dài đến mức không trả được các khoản nợ đến hạn. Doanh nghiệp tư nhân là một trong những đối tượng áp dụng của Luật phá sản năm 2004, vì thế khi doanh nghiệp tư nhân lâm vào tình trạng phá sản, nó sẽ được áp dụng các quy định của Luật phá sản năm 2004 để giải quyết. Được áp dụng Luật phá sản năm 2004 để giải quyết việc thanh toán nợ với các chủ nợ, doanh nghiệp 15
  16. tư nhân có những lợi ích nhất định, đó là việc chủ doanh nghiệp tư nhân sẽ thanh toán các khoản nợ theo quy định của pháp luật phá sản cho đến hết tài sản hiện có của doanh nghiệp. Sau khi thủ tục phá sản chấm dứt, tùy từng trường hợp theo quy định của pháp luật, chủ doanh nghiệp tư nhân có nghĩa vụ với các khoản nợ còn chưa thanh toán hết với các chủ nợ. II PHÁP LUẬT VỀ HỘ KINH DOANH CÁ THỂ 1. Khái niệm hộ kinh doanh cá thể: Điều 17 Nghị định của Chính phủ số 02/2000/NĐ-CP ngày 3/02/2000 về đăng ký kinh doanh quy định: Hộ kinh doanh cá thể do một cá nhân hoặc hộ gia đình làm chủ, kinh doanh tại một địa điểm cố định, không thường xuyên thuê lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh. Trước khi Nhà nước ban hành Nghị định của Chính phủ số 02/2000/NĐ- CP, những chủ thể kinh doanh dạng hộ kinh doanh, cá thể đã được điều chỉnh ge bởi Nghị định 66/HĐBT ngày 02/3/1992 về cá nhân kinh doanh và Nghị định 221/HĐBT về nhóm kinh doanh có vốn thấp hơn vốn pháp định ngày 23/7/1991. Những loại hình kinh doanh này, trước hết, cũng là loại hình kinh doanh của le một cá nhân duy nhất hoặc có sự liên kết của từ 2 thành viên trở lên, tiến hành các hoạt động kinh doanh và quan trọng nhất là chủ đầu tư đều chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ mà họ tạo ra trong hoạt động kinh doanh. Đặc điểm của ol những dạng chủ thể kinh doanh này rất giống với đặc điểm của doanh nghiệp tư nhân, nhất là trong trường hợp cá nhân kinh doanh. Tuy nhiên, trước khi có Luật C doanh nghiệp năm 1999, cá nhân kinh doanh được phân biệt với doanh nghiệp tư nhân chủ yếu ở quy định vốn pháp định. Luật doanh nghiệp tư nhân năm 1990 yêu cầu tất cả các chủ đầu tư khi thành lập doanh nghiệp tư nhân đều phải PD đáp ứng điều kiện về một mức vốn tối thiểu khi thành lập và đăng ký kinh doanh nhưng điều kiện này lại không đặt ra với các cá nhân kinh doanh. Từ sau khi có Luật doanh nghiệp năm 1999, điều kiện bắt buộc về vốn pháp định về cơ bản được bãi bỏ, vì thế không phải lúc nào đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp tư C nhân cũng phải đáp ứng vốn pháp định. Tiêu chí để phân biệt giữa doanh nghiệp tư nhân và cá nhân kinh doanh có vẻ như không còn tồn tại nữa. Sự ra đời của Luật doanh nghiệp năm 1999 cùng các văn bản hướng dẫn thi hành đã làm cho một số văn bản trước đó quy định về cá nhân kinh doanh và nhóm kinh doanh hết hiệu lực. Đồng thời, tên gọi của các chủ thể kinh doanh này cũng thay đổi. Nghị định của Chính phủ số 02/2000/NĐ-CP không còn nhắc đến cá nhân kinh doanh hay nhóm kinh doanh nữa mà thay vào đó là một loại hình chủ thể kinh doanh mới: Hộ kinh doanh cá thể. Như vậy, hộ kinh doanh cá thể là tên gọi để chỉ những cá nhân kinh doanh hoặc hộ gia đình kinh doanh không dưới danh nghĩa một doanh nghiệp. Hộ kinh doanh cá thể không thể hiểu là một nhóm kinh doanh như bản chất của nhóm kinh doanh trước đây, bởi hộ kinh doanh cá thể chỉ chấp nhận chủ đầu tư hoặc là một cá nhân duy nhất hoặc một hộ gia đình (đáp ứng các tiêu chuẩn của một hộ gia đình theo quy định của pháp luật). 16
  17. Mặt khác, hộ kinh doanh cá thể theo quy định của Nghị định của Chính phủ số 02/2000/NĐ-CP không bao gồm các hộ gia đình sản xuất nông, lâm ngư nghiệp, làm muối và những người bán hàng rong, quà vặt, làm dịch vụ có thu nhập thấp. Những đối tượng này không bắt buộc phải đăng ký kinh doanh mặc dù vẫn có thể tiến hành các hoạt động mang tính chất kinh doanh thu lợi nhuận, ví dụ như bán các sản phẩm do mình tạo ra hoặc mua đi bán lại những mặt hàng nhỏ lẻ, không có giá trị đáng kể hoặc thực hiện những dịch vụ có thu nhập thấp để kiếm lời. Quy định này phân chia các đối tượng thực hiện kinh doanh dựa trên quy mô kinh doanh, ở tầm doanh nghiệp, có doanh nghiệp tư nhân; ở tầm quy mô thấp hơn và không kinh doanh dưới danh nghĩa doanh nghiệp thì có hộ kinh doanh cá thể; cuối cùng, với một quy mô quá nhỏ lẻ và các đối tượng có tính chất giống với hộ kinh doanh cá thể nhưng không phải đăng ký kinh doanh. Nghị định của Chính phủ số 109/2004/NĐ-CP ngày 02/4/2004 về đăng ký kinh doanh thay thế Nghị định của Chính phủ số 02/2000/NĐ-CP đã đưa ra một định nghĩa mới về hộ kinh doanh cá thể: Hộ kinh doanh cá thể do một cá nhân ge hoặc hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm, sử dụng không quá 10 lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh. le Về cơ bản, với định nghĩa trên, Nghị định của Chính phủ số 109/2004/NĐ-CP vẫn nhìn nhận hộ kinh doanh cá thể vẫn trên tinh thần của ol Nghị định của Chính phủ số 02/2000/NĐ-CP. Tuy nhiên, Nghị định của Chính phủ số 109/2004/NĐ-CP đã đưa ra một tiêu chí định lượng trong việc sử dụng lao động của hộ kinh doanh cá thể nhằm phân biệt với các loại hình kinh doanh C khác. Với số lượng lao động là 10 người, hộ kinh doanh cá thể vẫn giữ nguyên hình thức hoạt động của mình nhưng nếu có sử dụng quá 10 lao động, pháp luật yêu cầu hộ kinh doanh cá thể phải chuyển thành doanh nghiệp. PD 2. Đặc điểm pháp lý của hộ kinh doanh cá thể: a. Hộ kinh doanh cá thể do một cá nhân hoặc một hộ gia đình làm chủ: C Tên gọi chung là hộ kinh doanh cá thể nhưng kinh doanh dưới hình thức này có thể do một cá nhân duy nhất hoặc một hộ gia đình. Vốn kinh doanh ban đầu của hộ kinh doanh cá thể là vốn của một cá nhân duy nhất hoặc vốn chung của một hộ gia đình. Như vậy, một số đông những chủ đầu tư không phải là hộ gia đình, nếu muốn cùng nhau góp vốn kinh doanh sẽ không có sự lựa chọn nào khác là cùng nhau thành lập doanh nghiệp, bởi vì mô kinh doanh không dưới danh nghĩa danh nghiệp không quy định cho những nhóm kinh doanh kiểu này. Đối với trường hợp hộ gia đình do một cá nhân duy nhất làm chủ sở hữu thì cá nhân này đồng thời là người quyết định mọi vấn đề liên quan đến hộ kinh doanh cá thể, quyết định việc đăng ký kinh doanh, thực hiện hoạt động kinh doanh hoặc chấm dứt sự tồn tại của hộ. Đương nhiên, chủ hộ kinh doanh cá thể sẽ là đối tượng duy nhất có quyền hưởng mọi lợi nhuận do công việc kinh doanh của hộ tạo ra, là người duy nhất chịu mọi nghĩa vụ tài chính với Nhà nước và cũng là người duy nhất chịu mọi rủi to đối với hoạt động của hộ. 17
  18. Trong trường hợp hộ kinh doanh cá thể do một hộ gia đình làm chủ thì hộ gia đình này phải cử ra một đại diện. Người đại diện này sẽ thay mặt hộ thực hiện các quyền, nghĩa vụ của cả hộ. Tuy nhiên, người đại diện không chịu trách nhiệm thay cho những thành viên khác trong gia đình. Lợi nhuận cũng như rủi ro sẽ chia cho các thành viên trong hộ gia đình theo thỏa thuận của tất cả các thành viên (có thể dựa vào số vốn của mỗi thành viên đóng góp trong hộ hoặc công sức của từng thành viên cấu thành nên lợi nhuận của hộ). b. Hộ kinh doanh cá thể thường kinh doanh với quy mô nhỏ hẹp: Đối với các loại hình doanh nghiệp, pháp luật không thể đưa ra một hạn chế nào trong việc các doanh nghiệp sử dụng bao nhiêu lao động, việc sử dụng lao động làm thuê có diễn ra thường xuyên hay không cũng như việc doanh nghiệp có bao nhiêu cơ sở sản xuất và kinh doanh. Không giống như vậy, đối với hộ kinh doanh cá thể, pháp luật đưa ra một số dấu hiệu nhận biết loại hình kinh doanh này chủ yếu dựa vào những đặc điểm làm cho hộ kinh doanh cá thể dường như có quy mô nhỏ hẹp. Những dấu hiệu mà pháp luật lựa chọn là địa ge điểm kinh doanh; số lượng lao động mà hộ gia đình sử dụng; con dấu riêng. Mặc dù được phân biệt với các loại hình doanh nghiệp bởi quy mô kinh doanh nhỏ hẹp nhưng hộ kinh doanh cá thể không phải là đối tượng có quy mô le kinh doanh nhỏ nhất. Loại hình kinh doanh này vẫn được coi là có quy mô kinh doanh lớn hơn và ổn định hơn so với một số hộ gia đình sản xuất nông, lâm, ngư ol nghiệp, làm muối và những người bán hàng rong, quà vặt, làm dịch vụ có thu nhập thấp. Những đối tượng trên đây không phải đăng ký kinh doanh mặc dù C vẫn thực hiện hành vi mua bán hàng hóa để kiếm lời. Dấu hiệu để phân biệt những đối tượng này với hộ kinh doanh cá thể đó là mức thu nhập thấp. Mức thu nhập được coi là thấp theo quy định cụ thể của ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố PD trực thuộc trung ương, tuy nhiên, mức thu nhập này không được vượt quá mức khởi điểm chịu thuế thu nhập cá nhân đối với người có thu nhập cao. c. Chủ hộ kinh doanh cá thể chịu trách nhiệm vô hạn trong hoạt động kinh doanh: C Chủ hộ kinh doanh cá thể ở đây phải được hiểu là cá nhân người đầu tư trong trường hợp hộ kinh doanh cá thể do một cá nhân làm chủ sở hữu hoặc là tất cả các thành viên của hộ gia đình trong trường hợp một hộ gia đình đầu tư kinh doanh dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể. Cũng giống như đối với chủ doanh nghiệp tư nhân, chủ hộ kinh doanh cá thể sẽ chịu chế độ trách nhiệm vô hạn trong hoạt động kinh doanh của hộ, có nghĩa là, chủ hộ không chỉ chịu trách nhiệm bằng phần vốn và tài sản dùng để trực tiếp kinh doanh mà còn phải chịu nghĩa vụ trên phần tài sản thuộc sở hữu của mình mặc dù không đưa vào kinh doanh trong trường hợp số nợ lớn hơn số vốn kinh doanh của hộ. Nếu chủ hộ là một hộ gia đình, mỗi thành viên trong hộ sẽ chịu trách nhiệm vô hạn bằng tất cả tài sản của mình, cụ thể, nếu số vốn chung không đủ để trả nợ thì mỗi thành viên sẽ đóng góp thêm bằng tài sản riêng của mình hoặc tài sản dân sự chung của cả hộ để trả nợ. Việc góp thêm này sẽ chỉ chấm dứt khi số nợ của cả hộ kinh doanh cá thể được trả hết. Mức 18
  19. góp của mỗi thành viên có thể đồng đều hoặc khác nhau phụ thuộc vào thỏa thuận của hộ gia đình nhưng trong mọi trường hợp, các thành viên phải có trách nhiệm thanh toán hết nợ cho các chủ nợ. Nếu một trong các thành viên không có khả năng góp thêm để trả nợ như thỏa thuận của hộ thì các thành viên khác có nghĩa vụ phải lấy tài sản của mình để tiếp tục trả nợ. Quan hệ nợ nần chỉ được coi như chấm dứt khi hộ kinh doanh cá thể đã thanh toán hết các khoản nợ. 3. Đăng ký kinh doanh đối với hộ kinh doanh cá thể: a. Điều kiện đăng ký kinh doanh: Không phải là một trong các loại hình doanh nghiệp nhưng để có tư cách một chủ thể kinh doanh, hộ kinh doanh cá thể vẫn phải thực hiện việc đăng ký kinh doanh nhằm tạo ra quyền hoạt động kinh doanh cho mình. Nghị định của Chính phủ số 109/2004/NĐ-CP quy định các điều kiện để đăng ký kinh doanh đối với một hộ kinh doanh cá thể. Về cơ bản, các điều kiện này cũng bao gồm điều kiện về chủ thể, điều kiện về ngành nghề kinh doanh và ge một số điều kiện khác. Pháp luật cho phép tất cả công dân Việt Nam có đủ 18 tuổi có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; các hộ gia đình đều có quyền tham gia đăng ký kinh doanh loại hình hộ kinh doanh cá thể, trừ những người chưa thành le niên, người bị hạn chế hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự, người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đang phải chấp hành hình phạt tù hoặc bị tòa án tước quyền hành nghề. Pháp luật quy định mỗi một cá nhân hoặc một hộ gia ol đình chỉ được đăng ký kinh doanh đối với một hộ kinh doanh cá thể. C Theo nguyên tắc, các chủ đầu tư chỉ được đăng ký kinh doanh cho hộ cá thể với những ngành nghề kinh doanh không bị pháp luật cấm, với những ngành nghề kinh doanh có điều kiện thì các chủ hộ phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện PD này. Về tên kinh doanh của hộ kinh doanh cá thể, chủ hộ có thể lựa chọn có dùng tên riêng cho hộ hoặc không dùng tên riêng. Trường hợp hộ kinh doanh cá thể có tên riêng thì tên đó không được trùng với tên chủ hộ kinh doanh cá thể đã C đăng ký trong phạm vi huyện. b. Thủ tục đăng ký kinh doanh: Với một quy mô nhỏ hẹp, hơn nữa, hộ cá thể không phải là một trong những loại hình doanh nghiệp, vì vậy, việc cấp đăng ký kinh doanh cho hộ kinh doanh cá thể do cơ quan đăng ký cấp huyện thực hiện. Cơ quan này do Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập với tên gọi là Phòng đăng ký kinh doanh cấp huyện. Mặc dù vậy, không nhất thiết lúc nào cũng phải thành lập phòng đăng ký kinh doanh cấp huyện, trong trường hợp không thành lập cơ quan này thì cơ quan đăng ký kinh doanh cho hộ kinh doanh cá thể sẽ hoặc là phòng tài chính - kế hoạch hoặc là phòng kinh tế (theo quyết định của Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương). Cá nhân hoặc người đại diện hộ gia đình của hộ kinh doanh cá thể sẽ phải thực hiện các bước sau để đăng ký kinh doanh cho hộ: 19
  20. - Gửi đơn đăng ký kinh doanh hộ kinh doanh cá thể đến cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện nơi đặt địa điểm kinh doanh. Đối với những ngành, nghề mà luật, pháp lệnh, nghị định quy định phải có chứng chỉ hành nghề thì kèm theo đơn phải có bản sao hợp lệ chứng chỉ hành nghề của cá nhân hoặc đại diện hộ gia đình. - Nộp đủ lệ phí đăng ký kinh doanh theo quy định. Trong quy trình xét cấp chứng nhận đăng ký kinh doanh cho hộ kinh doanh cá thể, cơ quan đăng ký kinh doanh sẽ tiến hành các bước sau đây: - Nhận đơn đăng ký kinh doanh của chủ hộ; - Trao giấy biên nhận cho chủ hộ; - Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận đơn, trao giấy biên nhận đăng ký kinh doanh cho hộ kinh doanh cá thể nếu hồ sơ đăng ký kinh doanh đầy đủ và hợp lệ: ge - Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện gửi bản sao giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hộ kinh doanh cá thể cho cơ quan thuế cùng cấp và sở chuyên ngành. le Hộ kinh doanh cá thể có quyền tiến hành hoạt động kinh doanh sau khi ol được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, trừ trường hợp kinh doanh các ngành, nghề kinh doanh phải có điều kiện. C Trong quá trình hoạt động kinh doanh, hộ kinh doanh cá thể sẽ bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đối với hộ kinh doanh cá thể trong các trường hợp sau đây: PD - Không tiến hành hoạt động kinh doanh trong thời hạn sáu mươi ngày, kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; - Ngừng hoạt động kinh doanh quá 60 ngày liên tục mà không thông báo với cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện nơi đăng ký kinh doanh; C - Chuyển địa điểm kinh doanh sang quận, huyện khác; - Kinh doanh ngành, nghề bị cấm. Hộ kinh doanh bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh sẽ không có quyền tiếp tục thực hiện hoạt động kinh doanh và có thể coi như bị giải thể. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2