intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình Nguyên lý Thống kê (Giáo trình đào tạo từ xa): Phần 1 - ThS. Trịnh Thị Huyền Thương

Chia sẻ: Lê Na | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:51

113
lượt xem
21
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nguyên lý Thống kê là bộ môn thuộc khoa học kinh tế. Môn học nhằm trang bị cho sinh viên các kiến thức cơ bản về thống kê kinh tế. Nội dung bao gồm hệ thống các phương pháp thu thập, tổng hợp trình bày số liệu thực tiễn, tính toán các đặc trưng của các đối tượng kinh tế được nghiên cứu, nhằm phục vụ cho quá trình nhận biết, tiếp cận điều tra, phân tích, dự đoán các hiện tượng và quá trình kinh tế. Giáo trình gồm 2 phần, phần 1 gồm nội dung 4 chương đầu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình Nguyên lý Thống kê (Giáo trình đào tạo từ xa): Phần 1 - ThS. Trịnh Thị Huyền Thương

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA VÀ QUAN HỆ DOANH NGHIỆP ----- o0o ----- TH.S TRỊNH THỊ HUYỀN THƯƠNG (CHỦ BIÊN) GIÁO TRÌNH NGUYÊN LÝ THỐNG KÊ VINH, NĂM 2011 1
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA VÀ QUAN HỆ DOANH NGHIỆP ----- o0o ----- TH.S TRỊNH THỊ HUYỀN THƯƠNG GIÁO TRÌNH NGUYÊN LÝ THỐNG KÊ GIÁO TRÌNH ĐÀO TẠO TỪ XA VINH, 2011 2
  3. LỜI NÓI ĐẦU Hiện nay, với chính sách đổi mới đúng đắn của Đảng và nhà nước, nền kinh tế nước ta đang thực hiện mở cửa để từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Trong bối cảnh đó, việc tổ chức sưu tầm, nghiên cứu và phổ biến kiến thức khoa học tiên tiến là yêu cầu hết sức cấp bách. Trong kinh tế thị trường, vấn đề thu thập và xử lý dữ liệu thực tế là không thể thiếu được và có ý nghĩa ngày càng lớn. Các nhà nghiên cứu kinh tế, quản lý nhà nước cũng như doanh nhân thường xuyên phải đối mặt với việc tìm ra quy luật biến động, suy diễn, giải thích và kết luận về các quá trình và hiện tượng kinh tế. Vì vậy, thống kê kinh tế học có vai trò quan trọng, là công cụ hỗ trợ đắc lực cho các nhà kinh tế và quản lý trong nghiên cứu thị trường để ra quyết định về chính sách và kinh doanh. Nguyên lý Thống kê là bộ môn thuộc khoa học kinh tế. Môn học nhằm trang bị cho sinh viên các kiến thức cơ bản về thống kê kinh tế. Nội dung bao gồm hệ thống các phương pháp thu thập, tổng hợp trình bày số liệu thực tiễn, tính toán các đặc trưng của các đối tượng kinh tế được nghiên cứu, nhằm phục vụ cho quá trình nhận biết, tiếp cận điều tra, phân tích, dự đoán các hiện tượng và quá trình kinh tế. Chương trình được biên soạn cho 3 đơn vị học trình (45 tiết) trong đó có 15 tiết dành cho thảo luận và bài tập. Cuốn giáo trình Nguyên lý thống kê được biên soạn dựa vào chương trình chuẩn của Bộ Giáo dục và Đào tạo và dựa trên cơ sở tham khảo các giáo trình được các tác giả ở các trường Đại học kinh tế nổi tiếng trong nước và quốc tế. Cuốn giáo trình này đặc biệt đáp ứng nhu cầu đào tạo từ xa, được thiết kế theo kết cấu khoa học bao gồm lý thuyết, tóm tắt, câu hỏi ôn tập, bài tập tự làm. Với kết cấu trên sẽ giúp cho người học nâng cao chất lượng tự học của mình. Tập thể tác giả biên soạn cuốn giáo trình gồm: Th.S Trịnh Thị Huyền Thương chủ biên. Th.S Nguyễn Thị Thúy Quỳnh biên soạn phần bài tập các chương. Mặc dù đã cố gắng và thận trọng trong quá trình biên soạn nhưng chắc chắn không tránh khỏi những hạn chế, khiếm khuyết. Chúng tôi mong nhận được sự góp ý của các đồng nghiệp, học viên và độc giả để chỉnh lý cho lần tái bản được hoàn thiện hơn. NHÓM TÁC GIẢ 3
  4. CHƯƠNG I GIỚI THIỆU VỀ THỐNG KÊ KINH TẾ 1. KHÁI NIỆM, ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN THỐNG KÊ 1.1. Thống kê là gì? Từ "Thống kê" được hình thành từ tiếng Latinh là "Status" hoặc từ tiếng Italia "Statista"… mỗi từ đều có ý nghĩa là "hình thái chính trị" hoặc "trạng thái hiện tượng". "Thống kê " được các tác giả dùng với nhiều nghĩa khác nhau. Trong giới hạn chương trình này, có thể hiểu khái niệm thống trên hai góc độ: Thống kê là một môn khoa học kinh tế, nghiên cứu mặt lượng trong mối quan hệ chặt chẽ với mặt chất của các hiện tượng và quá trình kinh tế xã hội phát sinh trong điều kiện thời gian, địa điểm cụ thể. Do đó, thống kê học thể hiện rõ tính khoa học bởi có cơ sở lý luận, cơ sở phương pháp luận và có đối tượng nghiên cứu riêng. Thống kê còn là một thuật ngữ đứng trên góc độ nghiệp vụ thực tế có thể hiểu với nghĩa công tác thống kê, vận dụng phương pháp nghiên cứu mặt lượng của các hiện tượng kinh tế xã hội trên cơ sở ứng dụng lý thuyết thống kê hình thành hệ thống phương pháp thống kê, hệ thống chỉ tiêu phân tích vận dụng trong công tác thống kê. Do đó, có thể coi thống kê là một môn khoa học về công tác thống kê. Các phương pháp thống kê được dùng nhiều trong nghiên cứu khoa học, là công cụ hữu hiệu cho việc lập kế hoạch và chính sách của Chính phủ. Khoa học thống kê ứng dụng trong kinh tế hình thành môn học thống kê kinh tế. 1.2. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của thống kê là các phương pháp để thu thập, xử lý và phân tích những tài liệu mà nó phản ánh mặt lượng trong mối liên hệ với mặt chất của hiện tượng số lớn, nhằm nêu lên đặc điểm, bản chất và quy luật của hiện tượng nghiên cứu trong điều kiện thời gia và địa điểm cụ thể. Chất là tổng hợp những đặc điểm, những thuộc tính vốn có của sự vật, hiện tượng (khách quan). Thông qua đó cho chúng ta biết sự vật hiện tượng đó là cái gì và trên cơ sở đó giúp chúng ta nhận biết được chúng với các sự vật hiện tượng khác. Những khái niệm phạm trù chính là phương tiện để thể hiện mặt chất của sự vật. Lượng là tổng hợp những đặc điểm, những thuộc tính vốn có của sự vật, hiện tượng. Thông qua đó cho chúng ta thấy quy mô và khối lượng về kết cấu, về tốc độ phát triển. Con số là phương tiện để thể hiện mặt lượng của sự vật, hiện tượng. Tuy nhiên con số đó phản ánh đúng hay không phụ thuộc nhiều vào phương pháp nghiên cứu. Quan hệ giữa chất và lượng rất mật thiết. Mặt chất mang tính ổn định tương đối, mặt lượng của hiện tượng không ngừng thay đổi theo không gian và thời gian. Sự thay đổi, tích lũy của lượng đến mức độ nào đó sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất. Ví dụ: Chất: Học sinh 4
  5. Lượng: từ lớp 1 –12 Sau 12 năm, chất không là học sinh nữa mà có thể là sinh viên, công nhân… Phạm vi đối tượng nghiên cứu của thống kê bao gồm các hiện tượng và quá trình kinh tế - xã hội: + Các hiện tượng về dân số và lao động: tổng số dân, kết cấu dân số, lao động, biến động dân số… + Các hiện tượng về quá trình tái sản xuất ra của cải vật chất của nền kinh tế qua 4 khâu: sản xuất - phân phối - trao đổi - tiêu dùng. + Các hiện tượng về đời sống vật chất, văn hóa, giáo dục, y tế biểu hiện cụ thể bằng những chỉ tiêu thống kê: mức sống, trình độ văn hóa, chính sách…. Thống kê nghiên cứu số lớn các hiện tượng kinh tế - xã hội xuất phát từ tính quy luật số lớn trong lý thuyết xác suất. Thông qua nghiên cứu số lớn các đơn vị hiện tượng cá biệt nhằm loại bỏ tác động ngẫu nhiên, riêng lẻ cá biệt của chúng, làm bộc lộ rõ tính tất nhiên, tính phổ biến, điển hình chung của số lớn hiện tượng nghiên cứu. Từ đó chỉ ra đặc trưng, bản chất, tính quy luật chung phát triển của tổng thể hiện tượng nghiên cứu. Thống kê nghiên cứu các hiện tượng cá biệt, thông thường là những hiện tương mới nảy sinh trong đời sống kinh tế, xã hội. Trong những giai đoạn lịch sử phát triển và địa điểm cụ thể khác nhau, cùng một hiện tượng kinh tế - xã hội phát triển sẽ có biểu hiện về mặt số lượng và có đặc trưng về chất, tính quy luật không giống nhau… Từ đó sẽ rút ra những nhận định kết luận khác nhau về bản chất, về tính phổ biến, tính quy luật phát triển của hiện tượng nghiên cứu. Do vậy, con số thống kê không gắn với hiện tượng kinh tế nghiên cứu, thời gian và địa điểm cụ thể sẽ trở thành con số toán học đơn thuần, vô nghĩa, không có nội dung. Ví dụ: Những kinh nghiệm điển hình tiên tiến. Mục đích nghiên cứu: rút ra đặc điểm, bản chất, quy luật phát triển của hiện tượng để từ đó đưa ra những biện pháp để thúc đẩy hiện tượng phát triển theo quy luật. 1.3. Phương pháp tiếp cận thống kê Lý thuyết thống kê được chia làm 2 phần chính: Thống kê mô tả và thống kê suy rộng. Thống kê mô tả: số liệu được cô đọng vào một con số cần thiết (số trung bình, phương sai…), chọn lọc thông tin từ một khối thông tin bao la thành những tụ điểm cần thiết để diễn tả tổng thể hoặc đưa ra một ý niệm tổng quan về một vấn đề phức tạp của tổng thể. Thống kê suy rộng: Bao gồm lý thuyết chọn mẫu và dự báo thống kê, người ta nghiên cứu độ tin cậy của chỉ tiêu tính toán trên một mẫu hoặc chỉ tiêu dự đoán. Các giá trị trung bình cộng và tỉ lệ (%) như đã trình bày ở mục 2.3 là các giá trị chỉ tiêu thống kê và cho biết thông tin định lượng về toàn bộ tổng thể, chứ không phải về một cá thể cụ thể nào cả. Đây là điều cốt lõi của phương pháp tiếp cận thống kê. Trong nghiên cứu thống kê, nếu thông tin được thu thập trên toàn bộ các cá thể của tổng thể thì được gọi là tổng thể điều tra. Nhưng tiến hành tổng điều tra lại khó 5
  6. khăn vì mất nhiều thời gian, kinh phí điều tra lại lớn…Để khắc phục khó khăn này, người ta thường điều tra dựa trên nguyên tắc chọn mẫu ngẫu nhiên, nghĩa là thông tin chỉ cần thu thập trên một bộ phận của tổng thể, trong đó các cá nhân của bộ phận này được rút ra từ tổng thể một cách ngẫu nhiên. Bộ phận đó được gọi là mẫu. Theo lý thuyết chọn mẫu, nếu mẫu có quy mô đủ lớn thì các đặc trưng của mẫu hoàn toàn có thể đại diện cho tổng thể. Như vậy, cơ sở toán học của phương pháp tiếp cận thống kê là luật số lớn, để có thông tin chung về toàn bộ tổng thể người ta chỉ việc quan sát trên mẫu đủ lớn. Tóm lại, phương pháp tiếp cận thống kê là phương pháp nghiên cứu tổng thể thông qua miêu tả định lượng các đặc trưng của tổng thể từ quan sát đủ lớn các cá thể của nó. 2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN 2.1. Tổng thể thống kê Tổng thể là chỉ về một đối tượng nghiên cứu cụ thể thuộc hiện tượng kinh tế - xã hội trong đó bao gồm những đơn vị cá biệt được kết hợp với nhau trên cơ sở một hay một số đặc điểm, đặc trưng chung được đề cập quan sát, phân tích mặt số lượng của chúng nhằm rút ra những nhận định, kết luận về đặc trưng chung, bản chất chung của tổng thể hiện tượng nghiên cứu. Ví dụ 1: Giả sử bạn đang tiến hành điều tra về các hộ gia đình thường trú tại TP Vinh (tại một thời gian nhất định), thu thập tài liệu mỗi hộ gia đình các thông tin về các đặc tính sau đây: Bảng 1.1 Số thứ tự hộ Tên chủ hộ Số con Dân tộc Loại hộ Thu nhập hàng tháng 1 Nguyễn Văn An 2 3 . n Tổng Trong bảng 1.1, mỗi dòng liên quan đến các quan sát về một hộ nhất định, nhưng chỉ quan tâm nghiên cứu về tập hợp các hộ gia đình thường trú tại Thành phố Vinh. Như vậy: Tổng thể là một tập hợp các cá thể có cùng một số đặc tính nào đó. Tổng thể thống kê là hiện tượng kinh tế - xã hội số lớn, gồm những cá thể (hoặc phần tử) cá biệt cần được quan sát, phân tích mặt lượng của chúng.Ở ví dụ trên tổng thể là tập hợp các hộ gia đình thường trú tại Thành phố Vinh trong một khoảng thời gian cụ thể. 6
  7. Ví dụ 2: Toàn bộ nhân khẩu nước ta vào một thời điểm nào đó là một tổng thể. Tổng thể thống kê được chia thành các loại: + Tổng thể thể hiện và tổng thể tiềm ẩn: Tổng thể thể hiện: Các cá thể cấu thành tổng thể có thể thấy được bằng trực quan. Ví dụ: Tổng thể nhân khẩu nước ta trong một thời điểm. Tổng thể tiềm ẩn: Là tổng thể các cá thể cấu thành nó không thể nhận biết được bằng trực quan. Ví dụ: Tổng thể những người mê tín dị đoan, Tổng thể những người trung thành với tổ quốc … + Tổng thể đồng chất và tổng thể không đồng chất: Tổng thể đồng chất bao gồm các cá thể giống nhau về một số đặc điểm chủ yếu có liên quan tới mục đích nghiên cứu. Tổng thể không đồng chất bao gồm các cá thể khác nhau về các đặc điểm loại hình. Ví dụ: Tổng thể các cơ sở sản xuất công nghiệp của toàn quốc là tổng thể đồng chất, nếu mục đích nghiên cứu là tìm hiểu kết quả hoạt động chế biến và sản xuất sản phẩm vật chất. Nó là tổng thể không đồng chất nếu mục đích nghiên cứu là tìm hiểu kết quả hoạt động chế biến và sản xuất sản phẩm vật chất theo hình thức sở hữu vốn. + Tổng thể chung và tổng thể bộ phận: Tổng thể chung là tổng thể bao gồm tất cả các đơn vị thuộc phạm vi nghiên cứu. Tổng thể bộ phận là tổng thể bao gồm một bộ phận đơn vị trong tổng thể chung có cùng tiêu thức nghiên cứu. Ví dụ, tổng thể dân số nam (trong tổng thể dân số cả nước) 2.2. Cá thể (Đơn vị tổng thể thống kê) Đơn vị tổng thể thống kê gọi tắt là đơn vị tổng thể, là phạm trù chỉ về đơn vị cá biệt có một hay một số đặc điểm, đặc trưng chung kết hợp tạo thành tổng thể thống kê. Nó là một phần tử hoặc một đơn vị, một yếu tố… mà dựa vào đó có thể quan sát, ghi chép, đo lường một số đặc tính cụ thể, trong ví dụ 1 cá thể là một hộ gia đình sinh sống tại thành phố Vinh. Cá thể có đơn vị tính toán giống đơn vị tính của tổng thể thống kê. Xác định chính xác đơn vị tổng thể thống kê là việc cụ thể hóa tổng thể thống kê. Muốn vậy, phải dựa trên sự phân tích sâu sắc về mặt lý luận kinh tế chính trị và mục đích yêu cầu nghiên cứu của từng trường hợp cụ thể để xác định đơn vị tổng thể cấu thành tổng thể thống kê. 2.3. Đơn vị điều tra Đơn vị điều tra là đơn vị bản thân trực tiếp có các tiêu thức trả lời theo yêu cầu ghi trên phiếu điều tra, đáp ứng mục đích nghiên cứu. Ví dụ, mỗi lao động là một đơn vị điều tra có chứa đựng các tiêu thức theo yêu cầu điều tra về mức năng suất lao động của doanh nghiệp như giới tính, tuổi đời, tuổi nghề, bậc thợ… 7
  8. 2.4. Tiêu thức thống kê Tiêu thức thống kê là đặc tính, đặc trưng nào đó của hiện tượng kinh tế - xã hội. Ví dụ, khi nghiên cứu kiến thức sau một năm học của một nhóm sinh viên. Mỗi sinh viên là một cá thể xem xét, toàn bộ sinh viên trong nhóm là tổng thể nghiên cứu. Quan sát mỗi sinh viên các đặc tính sau: Tuổi, giới tính, độ thông minh, điểm thi từng môn học… Từ đó cá thể tính được các đặc tính của tổng thể: Tuổi trung bình mỗi sinh viên trong nhóm, điểm thi trung bình từng môn học của nhóm sinh viên. Như vậy, khái niệm tiêu thức được dùng trong thống kê được trình bày ngắn gọn là: Tiêu thức là đặc tính riêng của từng cá thể của tổng thể. Tiêu thức thống kê là căn cứ để thực hiện phân tổ thống kê nên được gọi là tiêu thức phân tổ thống kê. Dựa trên những tiêu thức vốn có trong hiện tượng nghiên cứu, lựa chọn tiêu thức đáp ứng mục đích, yêu cầu nghiên cứu để thực hiện phân tổ thống kê phục vụ cho tổng hợp và phân tích tài liệu điều tra. Tiêu thức thống kê gồm các loại: Các tiêu thức định tính (thuộc tính) và các tiêu thức định lượng (Lượng biến). Tiêu thức định tính: là tiêu thức không trực tiếp biểu hiện bằng con số cụ thể như giới tính, dân tộc, thành phần kinh tế. Tiêu thức thuộc tính còn gọi là tiêu thức chất lượng hay tiêu thức phi lượng biến. Bao gồm: + Tiêu thức định tính không thể sắp tự được. Ví dụ giới tính, dân tộc… + Tiêu thức định tính có thể sắp tự được. Ví dụ khả năng hiểu biết của sinh viên có thể phân hạng theo các mức độ giỏi, khá, trung bình, yếu, kém… theo trật tự giảm dần. Tiêu thức định lượng: là tiêu thức trực tiếp biểu hiện bằng con số cụ thể, có thể đo lường bằng những đơn vị thích hợp như tuổi, điểm thi, thu nhập…. Chúng còn có thể gọi là những biến số. Có hai loại tiêu thức định lượng: + Các biến số rời rạc: Là những biến số được dùng trong thống kê. Ví dụ số con của một cặp vợ chồng, thu nhập hàng tháng của một hộ gia đình… + Biến số liên tục: Là cầu nối giữa thực tiễn thống kê với toán học. Ví dụ chiều cao, cân nặng của một người…có thể mang giá trị lấp đầy một khoảng xác định, bao gồm cảc phần thập phân như: Một nhóm 11 Sinh viên có chiều cao lần lượt là: 160 cm, 161 cm…170 cm là biến số ngẫu nhiên liên tục phân phối đều, có hàm mật độ: 1 (f) F = người 170 - 160 170 Chiều cao trung bình: Y =  F 160 Phân loại tiêu thức có ý nghĩa quan trọng trong việc lựa chọn phương pháp thống kê thích hợp khi phân tích số liệu. Chẳng hạn, người ta chỉ tính giá trị chỉ tiêu trung bình cộng đối với các biến số, không dùng nó đối với các tiêu thức thuộc tính. 8
  9. 2.5. Chỉ tiêu thống kê Chỉ tiêu thống kê là phạm trù biểu hiện tổng hợp đặc điểm về mặt lượng trong sự thống nhất với mặt chất của tổng thể hiện tượng nghiên cứu tại địa điểm và thời gian cụ thể. Chỉ tiêu là đặc tính chung của toàn bộ tổng thể. Ví dụ tổng khối lượng sản phẩm, năng suất lao động…. Có thể phân biệt khái niệm và mối liên hệ giữa tiêu thức và chỉ tiêu bằng cách xem xét ví dụ 2: Giả sử chúng ta đã thu thập được số liệu về tuổi và điểm thi trung bình của nhóm sinh viên, giả sử có giá trị là A và B, thì số A và B không cho biết vấn đề gì về một sinh viên cụ thể. Tuy nhiên, số A và B lại thông tin hữu ích về tuổi thọ trung bình, điểm thi trung bình của toàn bộ nhóm sinh viên. Như vậy, chỉ tiêu nói lên một ý niệm bao trùm và khái quát về một tổng thể, theo cách bao quát thì nó trái ngược thông tin về một tổng thể. Theo tính chất và nội dung biểu hiện có thể chia chỉ tiêu thống kê thành hai loại: chỉ tiêu khối lượng và chỉ tiêu chất lượng. Chỉ tiêu khối lượng là chỉ tiêu biểu hiện quy mô, khối lượng của hiện tượng kinh tế - xã hội. Ví dụ khối lượng sản phẩm, số lao động, doanh thu… Chỉ tiêu chất lượng là chỉ tiêu biểu hiện đặc trưng, mặt chất nhất định của hiện tượng nghiên cứu trên góc độ về trình độ phổ biến, đặc trưng điển hình chung của tổng thể hiện tượng như mức năng suất lao động nói lên mức độ tiêu biểu về hiệu quả lao động của tổng thể đơn vị nghiên cứu, giá thành đơn vị sản phẩm… Chỉ tiêu chất lượng thường là kết quả của phép chia hai chỉ tiêu số lượng. 3. CÁC THƯỚC ĐO TRONG THỐNG KÊ 3.1. Thước đo danh nghĩa Thước đo danh nghĩa dùng để gán cho biểu hiện của tiêu thức thuộc tính tên từng cá thể so với một con số. Ví dụ: Giới tính của một người nam thì đánh số 1, nữ thì đánh số 0. Như vậy, giữa các số đo chỉ có quan hệ phân biệt và thước đo danh nghĩa gắn liền với việc phân hoạch tổng thể, phân tổ số liệu. Phân tổ là một vấn đề cơ bản của bất cứ một khoa học nào, một yếu tố liên hệ mật thiết với tất cả các thước đo. Tuy nhiên, thước đo danh nghĩa là thước đo đơn giản nhất, chỉ cho phép phân tổ theo tiêu thức định tính, không thể sắp tự. Dùng thước đo danh nghĩa, tính được các chỉ tiêu như số phần trăm, tỷ lệ thức. 3.2. Thước đo sắp tự Thước đo sắp tự dùng để gắn cho biểu hiện của tiêu thức định tính trên mỗi cá thể với một số đo, trong các số đo có quan hệ thứ tự. Chẳng hạn huân chương có ba loại: hạng nhất, hạng hai, hạng ba (giảm dần). Dùng thước đo này, các tổ dược sắp xếp theo một trình tự nhất định. Chính vì vậy việc đo lường theo thước đo này tốt hơn thước đo danh nghĩa. 3.3. Thước đo khoảng Thước đo khoảng là thước đo sắp tự, trong đó mỗi số đo ứng với một khoảng xác định. Ví dụ thu nhập bình quân của người dân mỗi năm (Tính bằng $) 9
  10. Dưới 500 500 - 1000 1000 - 1500… Thước đo khoảng chỉ dùng được với tiêu thức định lượng (biến số) với một chuẩn đo lường chung, chẳng hạn chiều dài, đo bằng mét, trọng lượng kg. Thước đo khoảng tốt hơn thước đo sắp tự và thước đo danh nghĩa. Dùng thước đo này có thể tiến hành phân tổ, các tổ được sắp xếp theo một trình tự nhất định, độ rộng của mỗi tổ được ấn định trước. Dùng thước đo này số liệu có thể được trình bày dưới dạng phân bố tần số, từ đó có thể tính được các chỉ tiêu về độ tập trung hay độ phân tán. 3.4. Thước đo tỉ lệ Đây là thước đo hoàn hảo nhất, số đo của biểu hiện tiêu thức định lượng ở mỗi cá thể là một con số cụ thể và có thể thực hiên tất cả các phép toán với số đo này, ví dụ thước đo về chiều dài, cân trọng lượng. Do vậy, người ta có thể khẳng định rằng yếu tố này không thể đo lường được hoặc yếu tố mang điểm 6 thì lớn gấp đôi yếu tố khác mang điểm 3 trong khi 3 thước đo trên không thể khẳng định như vậy. 4. QUÁ TRÌNH NGHIÊN CỨU THỐNG KÊ Trước khi tiếp cận nghiên cứu định lượng bằng phương pháp thống kê các nhà nghiên cứu phải nhìn tổng quan định tính hiện tượng kinh tế - xã hội cần nghiên cứu, xây dựng được một hệ thống chỉ tiêu cần thiết cho mục tiêu nghiên cứu. Nghiên cứu định lượng bằng phương pháp thống kê là một quá trình, bao gồm 3 giai đoạn có quan hệ chặt chẽ, mật thiết với nhau: điều tra thống kê, khái quát hoá thông tin (tổng hợp thống kê), phân tích và dự báo. Có thể khái quát hóa quá trình này bằng sơ đồ đơn giản sau: Điều tra thống kê Tổng hợp thống kê Phân tích và dự đoán thống kê (Thu thập thông tin) (Xử lý thông tin) (Diến giải, phân tích thông tin) Trong đó: Giai đoạn điều tra thống kê nhằm cung cấp các tài liệu về các cá thể của tổng thể. Giai đoạn này thực hiện việc ghi chép, thu thập tài liệu thống kê bao gồm số liệu và thông tin tình hình về hiện tượng kinh tế - xã hội cần nghiên cứu. Giai đoạn tổng hợp thống kê là tiến hành tập trung chỉnh lý và hệ thống hoá một cách khoa học các tài liệu thu thập được trong điều tra thống kê, chuyển các đặc trưng riêng của cá thể thành các đặc trưng chung của tổng thể, tính toán các chỉ tiêu của tổng thể và cơ cấu của nó. Giai đoạn phân tích và dự đoán thống kê là nêu lên một cách tổng hợp bản chất cụ thể và tính quy luật của hiện tượng, quá trình kinh tế- xã hội trong điều kiện lịch sử nhất định qua biểu hiện bằng số lượng, tính toán mức độ tương lai của hiện tượng, nhằm đưa ra những căn cứ cho quyết định quản lý. 10
  11. TÓM TẮT CHƯƠNG I Thống kê là một môn khoa học kinh tế, nghiên cứu mặt lượng trong mối quan hệ chặt chẽ với mặt chất của các hiện tượng và quá trình kinh tế xã hội phát sinh trong điều kiện thời gian, địa điểm cụ thể. Đối tượng nghiên cứu của thống kê là các phương pháp để thu thập, xử lý và phân tích những tài liệu mà nó phản ánh mặt lượng trong mối liên hệ với mặt chất của hiện tượng số lớn, nhằm nêu lên đặc điểm, bản chất và quy luật của hiện tượng nghiên cứu trong điều kiện thời gian và địa điểm cụ thể. Lý thuyết thống kê được chia làm 2 phần chính: Thống kê mô tả và thống kê suy rộng. Tổng thể là một tập hợp các cá thể có cùng một số đặc tính nào đó. Tổng thể thống kê là hiện tượng kinh tế - xã hội số lớn, gồm những cá thể (hoặc phần tử) cá biệt cần được quan sát, phân tích mặt lượng của chúng. Đơn vị tổng thể thống kê gọi tắt là đơn vị tổng thể, là phạm trù chỉ về đơn vị cá biệt có một hay một số đặc điểm, đặc trưng chung kết hợp tạo thành tổng thể thống kê. Nó là một phần tử hoặc một đơn vị, một yếu tố… mà dựa vào đó có thể quan sát, ghi chép, đo lường một số đặc tính cụ thể. Đơn vị điều tra là đơn vị bản thân trực tiếp có các tiêu thức trả lời theo yêu cầu ghi trên phiếu điều tra, đáp ứng mục đích nghiên cứu. Tiêu thức thống kê là đặc tính, đặc trưng nào đó của hiện tượng kinh tế - xã hội. Nó là đặc tính của từng cá thể của tổng thể. Tiêu thức thống kê gồm hai loại: Tiêu thức định tính (thuộc tính) và các tiêu thức định lượng. Chỉ tiêu thống kê là phạm trù biểu hiện tổng hợp đặc điểm về mặt lượng trong sự thống nhất với mặt chất của tổng thể hiện tượng nghiên cứu tại địa điểm và thời gian cụ thể. Chỉ tiêu là đặc tính chung của toàn bộ tổng thể. Nghiên cứu định lượng bằng phương pháp thống kê là một quá trình, bao gồm 3 giai đoạn có quan hệ chặt chẽ, mật thiết với nhau: điều tra thống kê, khái quát hoá thông tin (tổng hợp thống kê), phân tích và dự báo. CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Phân tích vai trò của thống kê trong quản lý nhà nước, quản lý kinh tế xã hội. 2. Nêu đối tượng và mục tiêu của thống kê. Cho ví dụ minh họa. 3. Trình bày các khái niệm thường dùng trong thống kê. Cho ví dụ cụ thể. 4. Phân loại tổng thể thống kê. Cho ví dụ minh họa. 5. Hãy nêu sự khác nhau và giống nhau giữa tiêu thức và chỉ tiêu? 11
  12. 6. Hãy tìm trong thực tế các ví dụ về tổng thể thể hiện, tổng thể tiềm ẩn, tổng thể đồng chất và tổng thể không đồng chất. 7. Phân tích các nhiệm vụ chủ yếu, vai trò của từng giai đoạn trong quá trình nghiên cứu thống kê. 12
  13. CHƯƠNG II ĐIỀU TRA THỐNG KÊ 1. ĐIỀU TRA THỐNG KÊ 1.1. Khái niệm Điều tra thống kê là việc thu thập tài liệu về các hiện tượng, quá trình kinh tế- xã hội một cách khoa học và theo một kế hoạch thống nhất. Điều tra thống kê là cung cấp tài liệu về các cá thể của tổng thể. Do đó, Điều tra thống kê cung cấp số liệu, tài liệu cho nghiên cứu các hiện tượng kinh tế - xã hội. 1.2. Ý nghĩa Điều tra thống kê nếu được tổ chức theo những nguyên tắc khoa học, chặt chẽ sẽ đáp ứng được nhiều yêu cầu khác nhau về cả lý thuyết cũng như thực tế đặt ra. Trước hết, tài liệu do điều tra thống kê thu được là căn cứ tin cậy để kiểm tra, đánh giá thực trạng hiện tượng nghiên cứu, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của từng đơn vị, từng địa phương và toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Thứ hai, điều tra thống kê cung cấp những luận cứ xác đáng cho việc phân tích, phát hiện, tìm ra những yếu tố tác động, những yếu tố quyết định sự biến đổi của hiện tượng nghiên cứu. Trên cơ sở đó, tìm biện pháp thích hợp thúc đẩy hiện tượng phát triển theo hướng có lợi nhất. Thứ ba, những tài liệu điều tra thống kê cung cấp một cách hệ thống còn là căn cứ vững chắc cho việc phát hiện, xác định xu hướng, quy luật biến động của hiện tượng và dự đoán xu hướng biến động của hiện tượng trong tương lai. Trong quá trình điều hành, quản lý kinh tế - xã hội, các tài liệu này giúp cho việc xây dựng các định hướng, các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong tương lai, quản lý quá trình thực hiện các kế hoạch đó. 1.3. Các yêu cầu cơ bản của điều tra thống kê Muốn thực hiện được nhiệm vụ và các mục đích nghiên cứu nói trên, điều tra thống kê cần đảm bảo được các yêu cầu cơ bản của một hoạt động thống kê nói chung là trung thực, chính xác, đầy đủ và kịp thời. Yêu cầu chính xác: Có nghĩa tài liệu thống kê phải phản ánh trung thực thực tế. Đây là yêu cầu cơ bản nhất của điều tra thống kê. Do đó đối với từng tổng thể cụ thể người ta áp dụng phương pháp quan sát, loại điều tra thích hợp và những người tham gia cuộc điều tra phải có kiến thức chuyên môn, trách nhiệm. Yêu cầu kịp thời: Điều tra thống kê phải cung cấp tài liệu đúng lúc cho người sử dụng, nhất là đối với những nhà quản lý. Yêu cầu đầy đủ: Điều tra thống kê phải thu thập đúng nội dung và số lượng cá thể đã được quy định trong văn kiện điều tra. Đầy đủ cũng còn có nghĩa là phải thu 13
  14. thập thông tin đối với tất cả các đơn vị của hiện tượng nghiên cứu, không được đếm trùng hay bỏ sót bất kỳ một đơn vị nào. 2. PHÂN LOẠI ĐIỀU TRA THỐNG KÊ Điều tra thống kê có nhiều loại khác nhau, tùy theo mục đích nghiên cứu, đặc điểm của đối tượng điều tra và điều kiện thực tế mà người ta có thể sử dụng loại nào cho phù hợp. 2.1. Điều tra thường xuyên và điều tra không thường xuyên Căn cứ vào tính liên tục, tính hệ thống của các cuộc điều tra, có thể phân điều tra thống kê thành hai loại là: Điều tra thường xuyên và điều tra không thường xuyên. Điều tra thường xuyên tiến hành thu thập tài liệu của các cá thể của tổng thể một cách liên tục, theo sát với quá trình phát sinh, phát triển của hiện tượng nghiên cứu. Ví dụ trong mỗi đơn vị sản xuất người ta thường ghi chép hàng ngày người đi làm, số lượng nguyên vật liệu tiêu thụ, số lượng sản phẩm sản xuất ra… Điều tra thường xuyên tạo khả năng theo dõi tỉ mỉ tình hình biến động của hiện tượng theo thời gian, thường dùng trong các đơn vị sản xuất, kinh doanh, lưu thông và dịch vụ. Điều tra không thường xuyên là tiến hành thu thập các tài liệu của các cá thể trong tổng thể không liên tục, không gắn với quá trình phát sinh và phát triển của hiện tượng. Tài liệu của điều tra không thường xuyên chỉ phản ánh trạng thái của hiện tượng ở một thời gian nhất định. Ví dụ các cuộc điều tra năng suất, sản lượng cây trồng, hàng hoá tồn kho,… Như vậy, điều tra không thường xuyên đáp ứng cho những trường hợp hiện tượng xảy ra không thường xuyên, cho những trường hợp không cần theo dõi thường xuyên hoặc điều kiện vật chất, thời gian không cho phép điều tra thường xuyên. 2.2. Điều tra toàn bộ và điều tra không toàn bộ Tuỳ theo phạm vi, mục đích điều tra phản ánh toàn bộ hay một bộ phận của tổng thể có thể phân loại điều tra theo sơ đồ sau: - Điều tra toàn bộ Điều tra thống kê - Điều tra chọn mẫu - Điều tra không toàn bộ - Điều tra trọng điểm - Điều tra chuyên đề 2.2.1. Điều tra toàn bộ (tổng điều tra) Điều tra toàn bộ là tiến hành thu thập tài liệu về toàn bộ các cá thể của tổng thể, không bỏ sót bất cứ cá thể nào. Ví dụ tổng điều tra dân số ngày 1/4/2009 ở nước ta. Điều tra toàn bộ cung cấp đầy đủ thông tin về hiện tượng nghiên cứu trên quy mô toàn bộ tổng thể. Có thể nói, điều tra toàn bộ là nguồn cung cấp thông tin thống kê 14
  15. đầy đủ, toàn diện và trực tiếp, nên nó có thể đáp ứng được nhiều yêu cầu nghiên cứu khác nhau, đặc biệt là trong điều tra nắm bắt tình hình cơ bản của hiện tượng. Tuy nhiên, chi phí cho điều tra toàn bộ rất lớn, số người tham gia đông, thời gian dài, quy mô tổng thể càng lớn thì chi phí càng lớn. Vì vậy, điều tra toàn bộ ít được tiến hành thường xuyên và thường được giới hạn ở một số nội dung chủ yếu. 2.2.2. Điều tra không toàn bộ Điều tra không toàn bộ là tiến hành điều tra thu thập tài liệu của một số cá thể được chọn ra từ tổng thể chung. Do chỉ tiến hành điều tra trên một số đơn vị của tổng thể nghiên cứu, nên điều tra không toàn bộ có thể rút ngắn được thời gian, tiết kiệm công sức, giảm chi phí. Đặc biệt là loại điều tra này vừa có điều kiện mở rộng nội dung điều tra, thu thập số liệu chi tiết trên nhiều mặt của hiện tượng, vừa có thể kiểm tra, đánh giá độ chính xác của số liệu thu được một cách thuận lợi. Tuy nhiên, điều tra không toàn bộ cũng có những hạn chế nhất định. Hạn chế lớn nhất của nó là luôn phát sinh sai số do chỉ dựa trên cơ sở số liệu của một số đơn vị để nhận định, đánh giá cho toàn bộ hiện tượng nghiên cứu. Hạn chế này có thể được khắc phục bằng cách áp dụng những phương pháp khoa học, phù hợp với hiện tượng nghiên cứu trong quá trình tổ chức điều tra. Tuỳ theo mục đích nghiên cứu, cách lựa chọn các đơn vị để điều tra, điều tra không toàn bộ được phân ra thành điều tra chọn mẫu, điều tra trọng điểm và điều tra chuyên đề. + Điều tra chọn mẫu: Chỉ tiến hành điều tra một số cá thể được lựa chọn ra từ tổng thể. Những cá thể được lựa chọn, được gọi là mẫu điều tra, phải đại diện được cho toàn bộ tổng thể. Kết quả trên mẫu điều tra được tính toán suy rộng cho toàn bộ tổng thể. Ví dụ: Điều tra năng suất, sản lượng lúa người ta lựa chọn một số điểm gặt thống kê vào mẫu điều tra, kết quả điều tra trên mẫu được tính toán suy rộng cho toàn bộ diện tích trồng lúa. + Điều tra trọng điểm: Chỉ điều tra ở bộ phận chủ yếu của tổng thể. Khác với điều tra chọn mẫu, điều tra chuyên đề không dùng để đại diện được cho toàn bộ tổng thể, chỉ cho phép nhận thức được tình hình cơ bản của tổng thể. Điều tra trọng điểm thích hợp với tổng thể có một bộ phận tương đối tập trung, chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng thể. Ví dụ: Điều tra năng suất, sản lượng chè. Vì đây là cây trồng tập trung nên người ta người ta tiến hành điều tra trọng điểm ở Bắc Thái, Vĩnh Phúc. + Điều tra chuyên đề chỉ tiến hành ở một số ít đơn vị, thậm chí chỉ trên một cá thể của tổng thể, nhưng lại đi sâu nghiên cứu rất nhiều đặc điểm của chúng. Mục đích của điều tra chuyên đề là nghiên cứu các nhân tố mới, xu hướng phát triển của hiện tượng, rút ra được bài học cho công tác quản lý, chỉ đạo. Mục đích của điều tra chuyên đề còn để nghiên cứu tìm ra nguyên nhân lạc hậu của một (hoặc một số) cá thể. 3. CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC ĐIỀU TRA Có 2 hình thức tổ chức điều tra là: Báo cáo thống kê định kỳ và điều tra chuyên môn. 15
  16. Báo cáo thống kê định kỳ là một hình thức điều tra thống kê thường xuyên, có định kỳ, theo nội dung, phương pháp và chế độ báo cáo thống nhất của cơ quan có thẩm quyền quy định. Ví dụ: Hàng tháng, hàng quý... các cơ quan thuộc thẩm quyền quản lý của Nhà nước phải lập và gửi báo cáo thuế theo mẫu biểu thống nhất lên cơ quan quản lý cấp trên. Báo cáo thống kê định kỳ là hình thức tổ chức điều tra theo con đường hành chính bắt buộc, bắt đơn vị báo cáo phải thực hiện đúng quy định, nếu sai là vi phạm kỷ luật báo cáo. Nó được áp dụng chủ yếu đối với các cơ quan nhà nước và đơn vị quốc doanh. Đối với khu vực ngoài quốc doanh, nó cũng được áp dụng nhưng với nội dung hạn chế. Nội dung của báo cáo thống kê bao gồm những chỉ tiêu có liên quan đến quản lý vĩ mô toàn bộ nền kinh tế, phục vụ cho công tác quản lý tập trung và thống nhất. Điều tra chuyên môn là hình thức tổ chức điều tra không thường xuyên được tiến hành theo một kế hoạch và phương pháp quy định riêng cho mỗi lần điều tra. Ví dụ: Điều tra dân số, điều tra dư luận xã hội… Điều tra chuyên môn được vận dụng trong trường hợp không có báo cáo thống kê hoặc báo cáo thống kê không đầy đủ hoặc không chính xác. Điều tra chuyên môn là hình thức tổ chức điều tra được vận dụng phổ biến nhất. 4. XÂY DỰNG PHƯƠNG ÁN ĐIỀU TRA Để tổ chức tốt một cuộc điều tra chuyên môn đòi hỏi phải xây dựng được phương án điều tra thật chi tiết, tỉ mỉ, cụ thể và toàn diện. Phương án điều tra là một văn kiện trong đó quy định rõ những vấn đề cần được giải quyết và hiểu thống nhất trong suốt quá trình điều tra. Nó có tác dụng như một bản kế hoạch hướng dẫn điều tra. Nội dung của phương án điều tra luôn thay đổi cho phù hợp với mỗi cuộc điều tra. Nhưng nhìn chung mỗi phương án điều tra có những vấn đề cơ bản sau đây: 4.1. Xác định mục đích của cuộc điều tra Xác định mục đích của cuộc điều tra là vấn đề quan trọng đầu tiên của phương án điều tra, nó quy định rõ cuộc điều tra tìm hiểu vấn đề gì, phục vụ yêu cầu nghiên cứu nào. Xác định đúng mục đích điều tra giúp xác định đúng phạm vi đối tượng, đơn vị và nội dung điều tra, tạo điều kiện cho việc thu thập tài liệu đầy đủ, hợp lý, đáp ứng yêu cầu nghiên cứu và tránh lãng phí. Với ý nghĩa quan trọng đó, mục đích điều tra thường được xác định trên cơ sở: - Yêu cầu quản lý và chủ đạo thường xuyên về kinh tế - xã hội của các cơ quan có trách nhiệm. - Khả năng kinh phí và sức người có thể đáp ứng cho cuộc điều tra. 4.2. Xác định đối tượng điều tra và đơn vị điều tra Đối tượng điều tra là cá thể trong tổng thể hiện tượng nghiên cứu cần tiến hành điều tra. Xác định đối tượng điều tra là xác định xem những đơn vị tổng thể nào thuộc phạm vi điều tra, thu thập thông tin. Xác định đúng đối tượng có nghĩa là quy định rõ 16
  17. phạm vi của hiện tượng nghiên cứu, phân định rõ ranh giới hiện tượng điều tra với hiện tượng khác, nhằm tránh sự trùng lặp hay bỏ sót khi thu thập tài liệu. Muốn xác định đúng đối tượng điều tra, một mặt phải dựa vào sự phân tích lý luận, nêu lên những tiêu chuẩn cơ bản để phân biệt hiện tượng nghiên cứu với các hiện tượng khác, phân biệt tổng thể này với tổng thể khác, đồng thời cũng còn phải căn cứ vào mục đích nghiên cứu. Ví dụ, điều tra các xí nghiệp công nghiệp, đối với mỗi loại xí nghiệp, cần nêu rõ tiêu chuẩn cụ thể để người điều tra có thể phân biệt chính xác như quy định rõ xí nghiệp thuộc thành phần kinh tế - xã hội nào: quốc doanh, công ty hợp doanh, hợp tác xã thủ công nghiệp... Đơn vị điều tra là đơn vị thuộc đối tượng điều tra và được điều tra thực tế. Đơn vị điều tra chính là nơi phát sinh các tài liệu ban đầu, điều tra viên cần đến đó để thu thập trong mỗi cuộc điều tra. Như vậy, việc xác định đối tượng điều tra là trả lời câu hỏi “điều tra ai”, thì việc xác định đơn vị điều tra là trả lời câu hỏi “ điều tra ở đâu?” 4.3. Xác định nội dung điều tra Xác định nội dung điều tra là chỉ rõ cuộc điều tra cần ghi chép, thu thập những tài liệu gì trong từng đơn vị điều tra. Nội dung điều tra là toàn bộ các đặc điểm cơ bản của từng đối tượng, từng đơn vị điều tra mà ta cần thu được thông tin. Đó là mục lục tất cả các tiêu thức cần thu thập trên từng đơn vị điều tra, được diễn đạt thành những câu hỏi. Ngoài ra, nó còn có những câu hỏi phụ nhằm kiểm tra logic đúng đắn các tiêu thức đã thu thập được trên đơn vị điều tra. Việc xác định nội dung điều tra, cần căn cứ vào các yếu tố: Mục đích điều tra, đặc điểm của hiện tượng nghiên cứu, năng lực, trình độ thực tế của đơn vị, của người tổ chức điều tra. Ngoài ra, nội dung điều tra cũng chỉ nên bao gồm những tiêu thức có liên hệ chặt chẽ với nhau, để có thể kiểm tra tính chính xác của những thông tin thu được. 4.4. Xác định phương pháp quan sát Có hai phương pháp quan sát thu thập tài liệu: Trực tiếp và gián tiếp Phương pháp quan sát trực tiếp: Người điều tra trực tiếp quan sát, đo lường, phỏng vấn đơn vị điều tra và ghi chép số liệu. Ví dụ trong điều tra năng suất, sản lượng lúa, điều tra viên trực tiếp tiến hành hoặc giám sát việc đo kích thước điểm gặt thống kê: gặt, phơi, cân và tính năng suất thu hoạch tại gốc của điểm gặt thống kê. Ưu điểm của phương pháp này là có thể kịp thời phát hiện thiếu sót của tài liệu vừa mới thu thập được mà uốn nắn, nhưng nhược điểm là chi phí tốn kém. Phương pháp quan sát gián tiếp là phương pháp thu thập tài liệu qua thư từ, điện thoại với đơn vị điều tra hoặc qua bản giấy tờ sẵn có. Ví dụ trong điều tra dân số người ta thường thu thập từ sổ sách ghi sổ những người sinh và chết tại địa phương. Ưu điểm của phương pháp này là ít tốn kém, nhưng nhược điểm là chất lượng tài liệu thu thập được thường không cao vì điều tra viên khó phát hiện được sai sót kịp thời để uốn nắn. 4.5. Quy định rõ thời điểm và thời kỳ điều tra 17
  18. Quy định rõ thời điểm điều tra là xác định mốc thời gian cụ thể thống nhất tiến hành ghi chép tài liệu trên các đơn vị điều tra. Thời điểm điều tra có thể chính xác tới từng phút, giờ, ngày. Ví dụ một công ty quy định thời điểm điều tra hàng hoá, vật tư tồn kho hàng năm là 0 giờ ngày 31/ 12/N. Quy định rõ thời kỳ điều tra có nghĩa xác định độ dài thời gian để thu thập tài liệu của các đơn vị điều tra. Thời kỳ điều tra có thể là ngày, tuần, tháng, quý, năm. Ví dụ điều tra sản lượng sản phẩm của doanh nghiệp theo thời kỳ hàng tháng, thời kỳ điều tra nộp ngân sách nhà nước của doanh nghiệp là một năm. 4.6. Thiết kế biểu mẫu điều tra và bản giải thích cách ghi biểu mẫu điều tra Biểu mẫu điều tra (phiếu điều tra) là tập hợp các câu hỏi của nội dung điều tra, được sắp xếp theo một trật tự logic nhất định giúp người điều tra có thể thu được thông tin về hiện tượng nghiên cứu một cách đầy đủ, đáp ứng mục tiêu nghiên cứu đã được thiết lập. Biểu mẫu điều tra dùng để ghi chép tài liệu của đơn vị điều tra theo yêu cầu nghiên cứu. Nội dung ghi chép được thể hiện bằng câu hỏi để dễ thu thập thông tin và mã số. Biểu mẫu điều tra phải thoã mãn ba yêu cầu: dễ thu thập thông tin, chứa đựng đủ nội dung điều tra, dễ kiểm tra logic tính xác thực và tổng hợp được. Thông thường, trong các văn kiện điều tra, người ta còn ban hành bản giải thích cách ghi phiếu điều tra. Bản giải thích ghi những chú thích khoa học về câu hỏi đã được mã số, phương pháp ghi chép tài liệu… giúp cho việc ghi chép được thuận lợi, thống nhất, đáp ứng yêu cầu nghiên cứu. Trong quá trình thiết kế biểu mẫu điều tra, có thể sử dụng kết hợp các loại câu hỏi đóng, câu hỏi mở hoặc câu hỏi nửa đóng nửa mở (câu hỏi hỗn hợp) nhằm đạt được mục đích tổng hợp và phân tích dữ liệu điều tra. Ví dụ: Trong phiếu điều tra khảo sát doanh nghiệp về năng lực cạnh tranh năm 2009 của tỉnh Quảng Ninh có các câu hỏi sai: - Câu hỏi đóng: 1. Bạn hãy đánh giá về chính sách cổ phần hoá của tỉnh Rất hài lòng Hài lòng Không hài lòng Rất không hài lòng 2. Vốn điều lệ (VND): Dưới 1 tỷ Từ 1-5 tỷ Từ 5- 10 tỷ Từ 10- 50 tỷ Từ 50- 200 tỷ Trên 200 tỷ 3.Bạn có tin rằng doanh nghiệp/cá nhân sẽ nhận được bồi thường thoả đáng cho mảnh đất nếu bị thu hồi không ? Không bao giờ Nhiều khả năng Hiếm khi Luôn luôn Có khả năng 18
  19. - Câu hỏi mở: 1. Doanh nghiệp vui lòng liệt kê 5 vấn đề khó khăn nhất về môi trường kinh doanh ở tỉnh hiện nay( xếp theo thứ tự ưu tiên) mà doanh nghiệp gặp phải ? 1. ............................................................................................................................................ 2. ............................................................................................................................................ 3. ............................................................................................................................................ 4. ............................................................................................................................................ 5. ............................................................................................................................................ 2. Theo doanh nghiệp, 5 giải pháp cụ thể mà chính quyền cần ưu tiên thực hiện( xếp theo thứ tự ưu tiên) trong thời gian tới là gì ? 1. ............................................................................................................................................ 2. ............................................................................................................................................ 3. ............................................................................................................................................ 4. ............................................................................................................................................ 5. ............................................................................................................................................ 3. Các vấn đề khác mà doanh nghiệp muốn phản ánh về môi trường kinh doanh của tỉnh hiện nay ? - Câu hỏi hỗn hợp: 1. Loại hình doanh nghiệp Công ty THHH Công ty Cổ phần Doanh nghiệp tư nhân Công ty hợp danh Loại hình khác............................................................................... 2. Ngành sản xuất kinh doanh chính (có thể chọn nhiều mục) Cơ khí, xây dựng Công nghiệp nhẹ và hàng tiêu dùng Nông lâm thuỷ sản Thủ công mỹ nghệ Thiết bị điện tử và viễn thông Thương mại, dịch vụ Khác (nêu cụ thể) ..............................…………………………………………………… 5. SAI SỐ TRONG ĐIỀU TRA THỐNG KÊ Yêu cầu của điều tra thống kê là phải đảm bảo tính chính xác với mức độ tin cậy cao. Tuy vậy, trong thực tế điều tra đảm bảo được yêu cầu này không đơn giản. Sai số trong điều tra là mức chênh lệch giữa các giá trị của tiêu thức điều tra trên các cá thể với giá trị thực tế của nó. Sai số làm ảnh hưởng chất lượng điều tra và chất lượng kết quả tổng hợp phân tích số liệu. Muốn hạn chế sai số đến mức thấp nhất thì phải tìm hiểu nguyên nhân phát sinh sai số. Có hai loại sai số chủ yếu: sai số do ghi chép tài liệu và sai số có tính chất đại diện + Sai số do ghi chép tài liệu không chính xác bắt nguồn từ rất nhiều nguyên nhân: do người thực hiện công việc quan sát , đo lường ghi chép sai, hoặc do người trả lời sai vì không hiểu hết nghĩa câu hỏi, do người diều tra hoặc đơn vị điều tra cố tình trả lời không đúng sự thật, cũng có thể do phương pháp đo lường hoặc dụng cụ do lường không chính xác… 19
  20. + Sai số có tính chất đại diện chỉ xảy ra trong điều tra chọn mẫu, do mẫu điều ra không đủ sức đại diện cho tổng thể. Từ đó, suy rộng kết quả điều tra trên mẫu cho đặc điểm của tổng thể sẽ có sai số nhất định. Để đảm bảo các kết quả điều tra đạt độ chính xác cao, cần áp dụng một số phương pháp để hạn chế sai số. - Làm tốt công tác chuẩn bị điều tra , trong đó xây dựng phương án điều tra tốt nhất để có thể khả thi được. - Kiểm soát một cách có hệ thống toàn bộ cuộc điều tra. trong đó quan trọng nhất là kiểm tra tính xác thực, khách quan của tài liệu thu thập được, tính chất đại diện của mẫu điều tra. - Kiểm tra tính chất chính xác của phương pháp quan sát, đo lường và dụng cụ đo lường, việc tính toán và kết quả tính toán được. - Kiểm tra tính logic và hợp lý của tài liệu điều tra TÓM TẮT CHƯƠNG II Điều tra thống kê là việc thu thập tài liệu về các hiện tượng, quá trình kinh tế - xã hội một cách khoa học và theo một kế hoạch thống nhất. Điều tra thống kê cần đảm bảo được các yêu cầu cơ bản của một hoạt động thống kê nói chung là trung thực, chính xác, đầy đủ và kịp thời. Căn cứ vào tính liên tục, tính hệ thống của các cuộc điều tra, có thể phân điều tra thống kê thành hai loại là: Điều tra thường xuyên và điều tra không thường xuyên. Điều tra thường xuyên tiến hành thu thập tài liệu của các cá thể của tổng thể một cách liên tục, theo sát với quá trình phát sinh, phát triển của hiện tượng nghiên cứu. Điều tra không thường xuyên là tiến hành thu thập các tài liệu của các cá thể trong tổng thể không liên tục, không gắn với quá trình phát sinh và phát triển của hiện tượng. Tuỳ theo phạm vi, mục đích điều tra phản ánh toàn bộ hay một bộ phận của tổng thể có thể phân loại điều tra thành điều tra toàn bộ và điều tra không toàn bộ. Điều tra toàn bộ là tiến hành thu thập tài liệu về toàn bộ các cá thể của tổng thể, không bỏ sót bất cứ cá thể nào.Điều tra không toàn bộ là tiến hành điều tra thu thập tài liệu của một số cá thể được chọn ra từ tổng thể chung. Có 2 hình thức tổ chức điều tra là: Báo cáo thống kê định kỳ và điều tra chuyên môn. Để tổ chức tốt một cuộc điều tra chuyên môn đòi hỏi phải xây dựng được phương án điều tra thật chi tiết, tỉ mỉ, cụ thể và toàn diện. Phương án điều tra là một văn kiện trong đó quy định rõ những vấn đề cần được giải quyết và hiểu thống nhất trong suốt quá trình điều tra. Nó có tác dụng như một bản kế hoạch hướng dẫn điều tra. Nội dung của phương án điều tra luôn thay đổi cho phù hợp với mỗi cuộc điều tra. Nhưng nhìn chung mỗi phương án điều tra có những vấn đề cơ bản sau đây: - Xác định mục đích của cuộc điều tra 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1