intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giáo trình Tổng quan du lịch và khách sạn (Nghề: Quản trị nhà hàng - Trình độ: Cao đẳng) - CĐ Kỹ thuật Công nghệ Quy Nhơn

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:48

10
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Giáo trình "Tổng quan du lịch và khách sạn (Nghề: Quản trị nhà hàng - Trình độ: Cao đẳng)" được biên soạn với mục tiêu giúp các bạn sinh viên trình bày được những kiến thức khái quát về hoạt động du lịch và khách sạn và những kiến thức có liên quan đến phục vụ du lịch khách sạn; vận dụng được kiến thức có liên quan đến phục vụ du lịch khách sạn. Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giáo trình Tổng quan du lịch và khách sạn (Nghề: Quản trị nhà hàng - Trình độ: Cao đẳng) - CĐ Kỹ thuật Công nghệ Quy Nhơn

  1. UBND TỈNH BÌNH ĐỊNH TRƯỜNG CAO ĐẲNG KỸ THUẬT CÔNG NGHỆ QUY NHƠN GIÁO TRÌNH MÔN HỌC: TỔNG QUAN DU LỊCH VÀ KHÁCH SẠN NGHỀ: QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG TRÌNH ĐỘ: CAO ĐẲNG Ban hành kèm theo Quyết định số: 99/QĐ-CĐKTCNQN ngày 14 tháng 3 năm 2018 của Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Kỹ thuật Công nghệ Quy Nhơn Bình Định, năm 2018
  2. TUYÊN BỐ BẢN QUYỀN Tài liệu này thuộc loại sách giáo trình nên các nguồn thông tin có thể được phép dùng nguyên bản hoặc trích dùng cho các mục đích về đào tạo và tham khảo. Mọi mục đích khác mang tính lệch lạc hoặc sử dụng với mục đích kinh doanh thiếu lành mạnh sẽ bị nghiêm cấm. 2
  3. LỜI GIỚI THIỆU Giáo trình Tổng quan du lịch và khách sạn được biên soạn theo yêu cầu của chương trình khung trình độ cao đẳng ngành Quản trị nhà hàng. Giáo trình này cung cấp cho người học các kiến thức khái quát về hoạt động du lịch và khách sạn. Giáo trình gồm các nội dung: + Chương 1: Khái quát về hoạt động du lịch và khách sạn. + Chương 2: Mối quan hệ giữa du lịch và một số lĩnh vực khác - Các điều kiện để phát triển du lịch. + Chương 3: Khách sạn. Trong quá trình biên soạn tác giả đã tham khảo nhiều tài liệu của các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề, đồng thời cố gắng cập nhật những kiến thức mới. Tuy nhiên trong quá trình biên soạn, nội dung giáo trình không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong nhận được sự đóng góp quý báu của người sử dụng để giáo trình hoàn thiện hơn. Bình Định, ngày tháng năm 20 Tác giả Phạm Thị Phương Thanh MỤC LỤC 3
  4. CHƯƠNG TRÌNH MÔN HỌC Tên môn học: TỔNG QUAN DU LỊCH VÀ KHÁCH SẠN Mã số môn học: MH 08 Thời gian thực hiện môn học: 90 giờ; (LT: 59; TH: 29; KT: 2) I. VỊ TRÍ, TÍNH CHẤT MÔN HỌC: - Vị trí: Là môn học thuộc nhóm môn học, mô đun cơ sở trong chương trình đào tạo trình độ Cao đẳng nghề Quản trị nhà hàng, được học sau môn học An toàn lao động và trước môn học Văn hóa ẩm thực. - Tính chất: Là môn học mang tính lý thuyết kết hợp với thực hành trang bị cho người học kiến thức khái quát về lĩnh vực du lịch và khách sạn, kiến thức nền tảng cho nghề nhà hàng. II. MỤC TIÊU MÔN HỌC: - Về kiến thức: Trình bày được những kiến thức khái quát về hoạt động du lịch và khách sạn và những kiến thức có liên quan đến phục vụ du lịch khách sạn. - Về kỹ năng: Vận dụng được kiến thức có liên quan đến phục vụ du lịch khách sạn. - Về năng lực tự chủ và trách nhiệm: + Có khả năng làm việc độc lập trong công tác phục vụ du lịch, khách sạn; + Chịu trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm giám sát, hướng dẫn người khác thực hiện việc phục vụ du lịch và khách sạn. III. NỘI DUNG MÔN HỌC: 1. Nội dung tổng quát và phân phối thời gian: 4
  5. Tên chương, Thời gian (giờ) Số TT mục TS LT TH KT 1 Chương 1: 39 26 12 1 Khái quát về hoạt động du lịch và khách sạn 2 Chương 2: 21 12 9 0 Mối quan hệ giữa du lịch và một số lĩnh vực khác - Các điều kiện để phát triển du lịch 3 Chương 3: 30 21 8 1 Khái quát chung về khách sạn Tổng cộng 90 59 29 2 5
  6. CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG DU LỊCH Mã chương: MH 08 – 01 Thời gian: 39 giờ (LT: 8; TH:8; Tự học: 22, KT:1) Giới thiệu: Du 1ịch được hình thành và phát triển theo nhu cầu đời sống của con người từ những ngày xa xưa. Ngày nay khi khoa học kỹ thuật, giao thông và nền kinh tế phát triển đời sống con người được nâng lên thì nhu cầu du lịch càng lớn. Tùy theo điều kiện kinh tế mỗi nước, con người đã nghĩ đến việc dành một phần thu nhập của mình hàng năm cho nhu cầu du lịch. Trong số những nhu cầu của con người, nhu cầu về du lịch chưa bao giờ được thỏa mãn, càng đi du lịch cuộc sống của con người càng được nâng cao. Mục tiêu: - Trình bày được một số kiến thức cơ bản: hoạt động du lịch và khách sạn, các khái niệm cơ bản, các loại hình du lịch, nhu cầu du lịch và sản phẩm du lịch, thời vụ du lịch và một số loại hình cơ sở lưu trú du lịch tiêu biểu; - Vận dụng được các kiến thức cơ bản về hoạt động du lịch và khách sạn, các khái niệm cơ bản, các loại hình du lịch, nhu cầu du lịch và sản phẩm du lịch, thời vụ du lịch và một số loại hình cơ sở lưu trú du lịch tiêu biểu; - Phân loại được các loại hình cơ sở lưu trú; - Rèn luyện khả năng làm việc độc lập trong công tác phục vụ du lịch, khách sạn. Nội dung chính: 1.1. Một số khái niệm cơ bản 1.1.1. Khái niệm về du lịch Du lịch được hình thành và phát triển theo nhu cầu đời sống của con người từ những ngày xa xưa. Từ những năm 30 của thế kỷ này có rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu những mặt khác nhau của hiện tượng du lịch để đưa ra định nghĩa chính xác. Du lịch bắt nguồn từ tiếng Pháp theo từ “Tour” mà chúng ta thường hiểu là một cuộc hành trình bao giờ cũng trở lại điểm xuất phát. Từ những năm 30 của thế kỷ này có rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu những mặt khác nhau của hiện tượng du lịch để đưa ra một định nghĩa chính xác. Nhưng nhìn chung việc định nghĩa du lịch gặp rất nhiều khó khăn vì: - Du lịch có hai nghĩa. Một mặt khi nói đến du lịch người ta hiểu rằng đó là cuộc hành trình và lưu trú tạm thời của con người ở một nơi khác (cách xa nơi ở thường xuyên của họ) để nghỉ dưỡng chữa bệnh, thỏa mãn các nhu cầu về văn hóa, nghệ thuật, lịch sử, giao lưu tình cảm, công vụ... Mặt khác du lịch được hiểu là tập hợp các hoạt động kinh doanh nhằm giúp đỡ việc thực hiện các cuộc hành trình và lưu trú tạm thời của con người, thông qua việc tổ chức phục vụ vận chuyển, phục vụ lưu trú, phục vụ ăn uống, phục vụ hướng dẫn tham quan... Tất cả những hoạt động nêu trên tạo nên ngành kinh doanh du lịch. - Năm 1963 Hội nghị do Liên hiệp quốc tổ chức tại Rome (Ý) để thảo luận về du lịch đã đi đến kết luận phạm trù khách du lịch quốc tế như sau (Khách du lịch là người công dân của một nước sang thăm và lưu trú tại nước khác trong khoảng thời gian ít nhất là 24 giờ mà ở đó họ không có nơi ở thường xuyên). Nhưng cũng quy định không công nhận những người ở nước ngoài quá một năm hoặc những người đi ra nước ngoài thực hiện hợp đồng lao động, hoặc tìm nơi cư trú của mình cũng như những người ở vùng biên giới, sống ở nước này sang làm việc ở nước khác. Phạm trù “khách du lịch" phải xuất phát từ những đặc điểm riêng và giai đoạn cụ thể của từng nước. Điều này đóng một vai trò rất quan trọng trong việc hình thành cơ sở lý luận cũng như vận dụng vào thực tế sản xuất kinh doanh của ngành. Như vậy khái niệm chung về du lịch cần được nghiên cứu xuất phát từ đối tượng hoạt động của du lịch, đó là khách du lịch. Theo luật Du lịch Việt Nam: Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan , tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định. 1.1.2. Khái niệm về khách du lịch 1.1.2.1. Khách du lịch 6
  7. Nhà kinh tế học người Áo, Lozep Stander định nghĩa: Khách du lịch là hành khách xa hoa, ở lại theo ý thích ngoài nơi cư trú thường xuyên để thoả mãn những nhu cầu cao cấp mà không theo đuổi mục đích kinh tế. Kripendort đưa ra cách nhìn nhận chủ quan phiến diện của mình về du khách như sau: là những kẻ nực cười, ngốc nghếch ít học, những nhà giàu có, quen thói bóc lột và vô cảm với môi trường. Năm 1963, Hội nghị do liên hiệp quốc tổ chức tại Rôma (Ý) để thảo luận về du lịch đã đi đến kết luận phạm trù khách du lịch quốc tế như sau: Khách du lịch là công dân của một nước sang thăm và lưu trú tại nước khác trong khoảng thời gian ít nhất là 24 giờ mà ở đó họ không có nơi ở thường xuyên, nhưng cũng không công nhận những người nước ngoài ở quá một năm hoặc những người đi ra nước ngoài thực hiện hợp đồng, hoặc tìm nơi lưu trú của mình cũng như những người ở vùng biên giới, sống nước này sang làm việc nước khác. Theo luật Du lịch Việt Nam: Khách du lịch là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến. Như vậy, khách du lịch là đối tượng trực tiếp tham gia vào quá trình hướng dẫn du lịch của hướng dẫn viên, là đối tượng của các đơn vị phục vụ và kinh doanh du lịch. Nói đến du lịch người ta hiểu rằng đó là cuộc hành trình và lưu trú tạm thời của con người đến nơi khác nhằm mục đích thoả mãn mọi nhu cầu về nghỉ dưỡng, chữa bệnh, văn hoá, nghệ thuật, thể thao… Đối với hoạt động du lịch, con người với vai trò là một du khách có nhu cầu du lịch, rời khỏi nơi cư trú để thực hiện tour du lịch. Điều này có nghĩa để trở thành một khách du lịch, con người phải hội tụ các điều kiện sau: - Có thời gian rỗi. - Có khả năng thanh toán. - Có nhu cầu cần đươc thỏa mãn. 1.1.2.2. Khách tham quan Còn gọi là khách thăm viếng 1 ngày. Là khách thăm viếng, lưu lại một nơi nào đó khác với nơi ở thường xuyên dưới 24 giờ và không lưu trú qua đêm tại đó. 1.1.3. Khái niệm về điểm đến du lịch Theo Luật Du lịch: “Điểm đến du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, phục vụ nhu cầu tham quan của khách du lịch” Như vậy, điểm đến du lịch phải là nơi có tài nguyên du lịch, có sức hấp dẫn khách du lịch. Điểm đến du lịch dựa vào tài nguyên du lịch. Nhìn chung, do phần lớn các hoạt động du lịch diễn ra tại các điểm đến, nên có thể miêu tả điểm đến như là nơi có sự kết hợp các yếu tố vật chất và tinh thần, nhằm cung cấp cho du khách khi lưu trú (tạm thời tại một điểm du lịch của địa phương) để tham gia vào các hoạt động và giao tiếp liên quan đến du lịch. 1.1.4. Khái niệm khách sạn Lưu trú là một trong những nhu cầu cơ bản của khách du lịch. Các cơ sở lưu trú xuất hiện rất sớm từ thời La Mã. Đến nay, lưu trú là một trong những ngành kinh doanh du lịch lớn nhất, nó giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong ngành công nghiệp du lịch. Cơ sở lưu trú du lịch là cơ sở cho thuê buồng, giường và cung cấp các dịch vụ khác phục vụ khách lưu trú, trong đó khách sạn là cơ sở lưu trú du lịch chủ yếu. Mặc dù chức năng chủ yếu của các khách sạn là cung cấp các dịch vụ ngủ, ăn uống cho khách du lịch. Tuy nhiên, một người khách khi đi du lịch họ có những nhu cầu khác nhau. Vì vậy, trên thực tế, các cơ sở kinh doanh lưu trú thường cung cấp nhiều dịch vụ: - Các dịch vụ cơ bản bao gồm: phòng ngủ, nhà hàng. - Các dịch vụ bổ sung: dịch vụ lữ hành, phòng tiệc, quầy Bar, phòng hội nghị, vũ trường, bi da, sân golf, sauna, masage, chăm sóc sức khoẻ, quầy lưu niệm, trung tâm cung cấp thông tin cho khách hàng, dịch vụ đổi tiền, bưu điện, bãi đỗ xe; dịch vụ Internet, thuê thư ký, máy tính, photocopy, đánh máy... Tùy theo quy mô, cấp hạng mỗi khách sạn có thể kinh doanh đầy đủ hoặc chỉ một số các dịch vụ nêu trên. Các khách sạn đơn giản nhất thường chỉ cung cấp dịch vụ phòng ngủ và ăn sáng. 7
  8. Khách sạn là cơ sở kinh doanh dịch vụ, phục vụ du khách về các mặt như ăn, nghỉ, vui chơi giải trí và các dịch vụ cần thiết khác và là cơ sở vật chất quan trọng để phát triển ngành du lịch. 1.2. Phân loại các loại hình du lịch 1.2.1. Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ 1.2.1.1. Du lịch quốc tế Du lịch đón khách (Du lịch quốc tế chủ động): Là hình thức du lịch quốc tế phục vụ, đón tiếp khách nước ngoài đi du lịch nghỉ ngơi, tham quan các đối tượng du lịch trong đất nước của cơ quan cung ứng du lịch ( là hình thức của khách ngoại quốc đến một nước nào đó và tiêu thụ tiền tại nước đó làm tăng thu nhập ngoại tệ). Du lịch gửi khách (Du lịch quốc tế bị động): Là hình thức du lịch quốc tế phục vụ và tổ chức đưa khách từ nước lưu trú đi ra nước ngoài du lịch (là nước này gửi khách đi du lịch sang nước khác và phải mất một khoản ngoại tệ). 1.2.1.2. Du lịch nội địa Là các hoạt động tổ chức, phục vụ người trong nước đi du lịch, nghỉ ngơi và tham quan các đối tượng du lịch trong lãnh thổ quốc gia, về cơ bản không có sự giao dịch, thanh toán bằng ngoại tệ. 1.2.2. Căn cứ vào mục đích chuyến đi 1.2.2.1. Theo mục đích chung - Du lịch tham quan Tham quan là hành vi quan trọng của con người với mục đích chính là nâng cao hiểu biết cho cá nhân, loại hình du lịch này thoả mãn lòng ham hiểu biết và ham thích nâng cao văn hoá thông qua các chuyến đi du lịch đến những nơi lạ để tìm hiểu các di sản văn hoá, di tích lịch sử, các công trình kiến trúc nghệ thuật, các lễ hội độc đáo, các làng nghề thủ công truyền thống, các bản làng của ngưòi dân tộc thiểu số, phong tục tập quán và tìm hiểu những thành quả kinh tế, chế độ xã hội, chất lượng cuộc sống của mỗi địa phương mỗi quốc gia và có thể là một phong cảnh thiên nhiên kỳ thú…. Loại hình du lịch tham quan có tác dụng nhận thức là rất lớn. Thời gian lưu lại của khách đối với loại hình này trong thời gian rất ngắn, thường kéo dài một giờ. Đối tượng của loại hình du lịch này thường là những người có văn hoá cao như nhà giáo, nhà khoa học, nhà sử học, nhà báo…. Ưu thế của loại hình du lịch này là đại bộ phận không chịu ảnh hưởng của tính mùa vụ du lịch. Điều này nó giúp cho sự cân bằng trong việc phát triển du lịch. - Du lịch giải trí Mục đích chuyến đi là thư giãn, xả hơi, thoát ra khỏi những công việc thường nhật căng thẳng để phục hồi sức khỏe. Trong chuyến đi, nhu cầu giải trí là nhu cầu không thể thiếu được của du khách. Do vậy, ngoài thời gian tham quan, nghỉ ngơi, còn phải có các chương trình vui chơi, giải trí trong chuyến đi cho du khách. Với sự phát triển của xã hội, mức sống gia tăng, số người đi du lịch chỉ nhằm mục đích giải trí, tiêu khiển bằng các trò chơi cũng gia tăng đáng kể. Để đáp ứng xu thế này các điểm đến du lịch đã quan tâm mở rộng các loại hình dịch vụ và các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ vui chơi giải trí như các khu du lịch, làng du lịch, công viên, khu vui chơi giải trí, sòng bạc… - Du lịch nghỉ dưỡng Du khách tìm đến các vùng suối nước khoáng, nước nóng có giá trị y học cao để chữa bệnh. Bên cạnh đó do đời sống công nghiệp, sự làm việc căng thẳng nên tranh thủ những ngày nghỉ tìm đến với các bãi biển, miền núi, hoà mình vào thiên nhiên để thay đổi môi trường sống hàng ngày, tránh tình trạng stress. Vì vậy, với loại hình du lịch nghỉ dưỡng này đòi hỏi không gian du lịch phải thoáng mát, yên tĩnh. Và điều quan trọng là phải có đội ngũ phục vụ chuyên nghiệp. Thời gian lưu lại của khách đối với loại hình du lịch này là rất lớn. Đối tượng khách chủ yếu của loại hình du lịch này thương gia, viên chức nhà nước, người già. Do chịu ảnh hưởng của điều kiện thời tiết, khí hậu nên loại hình du lịch này ít nhiều chịu ảnh hưởng của tính mùa vụ. 1.2.2.2. Theo mục đích riêng - Du lịch thể thao 8
  9. Nhu cầu, sở thích của khách du lịch gắn với các môn thể thao. Loại hình này có hai loại khách chính đó là vận động viên trực tiếp tham gia thi tài ở các kì Thế Vận hội, World Cup hoặc đến các vùng có tiềm năng thể thao như leo núi, trượt tuyết, săn bắn, bơi lội… và các cổ động viên xem các cuộc thi đấu và cổ vũ. Loại hình du lịch thể thao là một trong những loại hình đem lại nguồn thu rất lớn cho địa phương vì nó thu hút một lượng lớn khách du lịch. Không phải ngẫu nhiên mà các quốc gia trên thế giới ngày càng ra sức chạy đua để được đăng cai một kì Thế vận hội, World Cup bên cạnh việc thu lợi nhuận là quảng bá hình hình ảnh đất nước nhằm mục đích phát triển du lịch. - Du lịch tôn giáo Loại hình này thoả mãn nhu cầu tín ngưỡng đặc biệt của những người theo các tôn giáo khác nhau (hiện nay, trên thế giới có các tôn giáo lớn như đạo Hồi, đạo Phật, đạo Thiên Chúa, đạo Tin Lành, Nho giáo, Do Thái…). Đây là loại hình du lịch lâu đời rất phổ biến. Vì tôn giáo là nhu cầu tinh thần và là tín ngưỡng trong những cá nhân theo tôn giáo của họ, do đó động cơ đi và đến những nơi cội nguồn của tôn giáo là mong muốn và là nguyện vọng hàng năm của họ. Ngoài ra còn có những đối tượng không thuộc thành phần tôn giáo, nhưng họ lại có xu hướng hiếu kỳ khi tham gia vào các hoạt động mang tính tôn giáo. Chính điều này mà mỗi năm tất cả các quốc gia trên thế giới hoạt động du lịch tôn giáo là rất lớn và không ngừng tăng trưởng về số lượng du khách. Các trung tâm nổi tiếng thế giới phát triển loại hình du lịch này là Vaticăng, Gieluxalem, thánh địa Mec-ca. Ở Việt Nam, vào mùa xuân, các tín đồ Phật giáo hành hương về Yên Tử - nơi khởi nguồn của đạo Phật, Chùa Hương… - Du lịch thăm hỏi Loại hình du lịch này nảy sinh do nhu cầu giao tiếp xã hội nhằm gặp mặt, thăm hỏi, trò chuyện, chia sẻ những niềm vui, nỗi buồn cùng bà con, họ hàng, bạn bè thân quen… Hình thức du lịch này có ý nghĩa quan trọng đối với những nước có nhiều người sống ở nước ngoài như Việt Nam, Ý, Anh, Tây Ban Nha. Đối tượng của loại hình du lịch này là những người thường đi trong thời gian dài ngày và thường diễn ra vào thời điểm sự kiện quan trọng như dịp tết, quốc khánh, lễ hội....Khách du lịch gần như chỉ mua những dịch vụ không trọn gói của các công ty lữ hành. Và mỗi lần trở về thăm quê hương, khách du lịch thuộc loại hình này mang về một lượng ngoại tệ lớn, tạo điều kiện tích lũy ngoại tệ cho quốc gia. - Du lịch chữa bệnh Du khách lựa chọn loại hình du lịch này là do nhu cầu điều trị các loại bệnh tật về thể xác và tinh thần nhằm mục đích phục hồi sức khỏe. Điểm đến thường là các khu nghỉ dưỡng, khu chữa bệnh như các điểm có suối nước khoáng, những nơi có không khí trong lành… ví dụ: + Chữa bệnh bằng khí hậu (thay đổi vùng khí hậu) – cảnh quan ven biển, ven núi. + Chữa bệnh bằng phương pháp thủy lý như tắm nước nóng, bùn khoáng, tắm biển. + Chữa bệnh bằng phương pháp y học cổ truyền như châm cứu, bấm huyệt (Trung Quốc, Việt Nam). + Trị bệnh bằng Tây y (Hoa Kỳ, Thái Lan, Singapore). - Du lịch khám phá Loại hình này phù hợp với du khách có nhu cầu khám phá thế giới xung quanh, khám phá về phong cách sinh hoạt, tâm lý, tính cách con người, ẩm thực, những mặt hàng lưu niệm, các danh thắng tự nhiên, môi trường hoang dã. Khám phá trong du lịch ngoài việc mở mang kiến thức, còn để lại cho du khách những cảm xúc thích thú. Loại hình du lịch này mang ý nghĩa khám phá, đi du lịch để hiểu người, hiểu đất nước, phát hiện những điều kỳ thú thiên nhiên, văn hóa, con người. Ở Việt Nam đã thiết kế và đưa vào khai thác các tour du lịch khám phá như Tour dọc đường Trường Sơn bằng xe gắn máy, “Khám phá Côn Đảo xưa và nay”, Khám phá hang Sơn Đoong, Quảng Bình… - Du lịch quá cảnh: Loại hình này nảy sinh từ nhu cầu của du khách đi qua lãnh thổ của một nước nào đó trong một thời gian ngắn để tiếp tục đi đến một nước khác. - Du lịch lễ hội 9
  10. Ngày nay lễ hội là một yếu tố hấp dẫn du khách. Chính vì vậy việc khôi phục các lễ hội truyền thống, việc tổ chức các lễ hội mới không chỉ là mối quan tâm của các cơ quan đoàn thể quần chúng, xã hội mà còn là một hướng quan trọng của ngành du lịch. Tham gia vào lễ hội du khách muốn hòa mình vào không khí tưng bừng của các cuộc biểu dương lực lượng, biểu dương tình đoàn kết của cộng đồng, tình yêu quê hương, đất nước... Đến với lễ hội du khách quên đi những khó chịu của cuộc sống đời thường. Có lẽ vì thế nên du khách đi vì mục đích này ít quan tâm đến những thiếu thốn, thiếu hụt trong dịch vụ du lịch. - Du lịch nghiên cứu (học tập) Đây là loại hình du lịch ngày càng phổ biến do nhu cầu kết hợp học tập lý thuyết với tìm hiểu thực tiễn, học đi đôi với hành. Nhiều môn học, ngành học cần hiểu biết thực tế như địa lý, địa chất, lịch sử, khảo cổ, môi trường, sinh học…Đối tượng chủ yếu của loại hình du lịch nghiên cứu (học tập) là học sinh, sinh viên, giáo viên, giáo sư, các nhà nghiên cứu…. 1.2.2.3. Theo trách nhiệm Du lịch MICE là loại hình du lịch kết hợp hội nghị, hội thảo, triển lãm, tổ chức sự kiện, du lịch khen thưởng của các công ty cho nhân viên, đối tác. MICE - viết tắt của Meeting (hội họp), Incentive (khen thưởng), Convention (hội nghị, hội thảo) và Exhibition (triển lãm). Tên đầy đủ tiếng Anh là Meeting Incentive Conference Event. Bởi vậy các đoàn khách MICE thường rất đông (vài trăm khách) và đặc biệt mức chi tiêu cao hơn khách đi tour bình thường (do Ban tổ chức các hội nghị quốc tế bao giờ cũng đặt phòng cho khách ở khách sạn 4 - 5 sao, dịch vụ cao cấp, tour sau hội nghị phải thiết kế chuyên biệt theo yêu cầu…). Du lịch MICE hiện là loại hình du lịch mang lại nguồn thu rất lớn cho ngành du lịch ở các nước. Đối với Việt Nam loại hình du lịch này đã được các công ty trong ngành du lịch khai thác từ nhiều năm nay, bước đầu đã có kết quả khả quan. Khai thác thị trường MICE là một trong những mục tiêu của chiến lược phát triển ngành du lịch Việt Nam. Đánh giá về tiềm năng phát triển MICE, đoàn chuyên gia WTO cho rằng: Việt Nam có tiềm năng rất lớn và nếu phát triển MICE sẽ là đối thủ đáng ngại của Singapore (trung tâm thu hút MICE lớn nhất Đông Nam Á hiện nay). Cảnh quan thiên nhiên ưu đãi, nhiều di sản văn hóa, thiên nhiên thuộc hàng kỳ quan thế giới, bãi biển đẹp, hệ thống khách sạn, resort phát triển… Tuy nhiên theo WTO để du lịch MICE phát triển, Việt Nam nên thành lập MICE Bureau (tổ chức xúc tiến phát triển MICE), xây dựng chiến lược marketing, cải thiện ngay hạ tầng phục vụ khách MICE: visa, sân bay, hệ thống khách sạn, trong đó, việc xác định vị trí xây dựng trung tâm hội chợ triển lãm quốc tế rất quan trọng. Các trung tâm này phải gần sân bay, khách sạn, thuận tiện đi lại, giao dịch. Các giải pháp khác phải hướng vào việc phân tích số liệu thông tin thị trường, thiết lập chiến lược thông tin quảng bá MICE và xây dựng website, phát triển thương mại điện tử, mở các lớp đào tạo nguồn nhân lực trong và ngoài nước. 1.2.3. Căn cứ vào loại hình lưu trú 1.2.3.1. Du lịch ở khách sạn Khách sạn là cơ sở lưu trú có đầy đủ tiện nghi phục vụ việc qua đêm và các nhu cầu khác của du khách như: ăn, ngủ, vui chơi giải trí … Tùy theo mức độ sang trọng của cơ sở vật chất, trang thiết bị và chế độ phục vụ…mà khách sạn được phân hạng khác nhau. Ở Việt Nam khách sạn được phân hạng từ 1 đến 5 sao. Đối tượng du khách cũng khá phong phú, từ khách có khả năng chi trả trung bình đến khách có khả năng chi trả cao. 1.2.3.2. Du lịch ở Motel Là một dạng cơ sở lưu trú được xây dựng gần đường giao thông, có kiến trúc thấp tầng (thường chỉ là 1 tầng) dùng để phục vụ du khách đi bằng phương tiện riêng (xe con). Tại cơ sở lưu trú này có bộ phận bảo dưỡng, kiểm tra, sửa chữa xe cho khách. 1.2.3.3. Du lịch ở nhà trọ Đây là dạng cơ sở lưu trú phục vụ chủ yếu cho thanh niên, sinh viên và những người không có khả năng thanh toán cao. Tiện nghi và các dịch vụ ở đây khá khiêm tốn như phòng nhiều giường, khu vệ sinh chung…bù lại giá thấp. 1.2.3.4. Du lịch Camping 10
  11. Camping là một khu vực mà ở đó người ta phân lô theo một quy hoạch nhất định. Tại các lô này, bằng các vật liệu khác nhau người ta tạo nên các nền (ví dụ bằng xi măng, bằng chất dẻo, bằng gỗ hoặc tre nứa …). Đoàn khách có thể chọn một địa điểm để dựng lều trại. 1.2.4. Căn cứ vào thời gian của chuyến đi 1.2.4.1. Du lịch dài ngày Du lịch dài ngày thường từ 1 tuần trở lên, nhiều chuyến du lịch kéo dài đến cả năm. Du lịch dài ngày thường là các chuyến đi thám hiểm của các nhà nghiên cứu, chuyến đi nghỉ dưỡng, chữa bệnh, các chuyến du lịch bằng thuyền. Ở Việt Nam có các chuyến đi xuyên Việt. 1.2.4.2. Du lịch ngắn ngày Các chuyến du lịch được thực hiện trong thời gian dưới một tuần lễ được coi là du lịch ngắn ngày. 1.2.5. Căn cứ vào lứa tuổi của du khách 1.2.5.1. Du lịch của những người cao tuổi Về mặt sinh học người cao tuổi có sức ỳ lớn, có thời gian nhiều, điều kiện kinh tế tốt nhưng chi trả ở mức trung bình. Người cao tuổi bị hạn chế về mặt sức khỏe, thích đi du lịch ở những nơi sạch sẽ, yên tĩnh, giao thông thuận lợi, khoảng cách giữa các điểm du lịch tương đối gần. Động cơ du lịch về nguồn, thăm viếng hoài niệm người xưa, cảnh cũ. 1.2.5.2. Du lịch của những người trung niên Tầng lớp trung niên có khả năng chi trả lớn hơn các tầng lớp khác, thể lực còn chưa giảm sút, địa vị và tư cách xã hội đòi hỏi họ tiến hành du lịch ở cấp độ tương đối cao. 1.2.5.3. Du lịch của tầng lớp thanh niên Thiếu niên, thanh niên luôn có nhu cầu vận động, dễ tiếp thu tư tưởng mới, ham muốn tìm tòi kiến thức, có sức khỏa, thích đi du lịch. Thanh niên còn phụ thuộc vào kinh tế gia đình nên khả năng chi trả thấp chỉ có khả năng đi du lịch dưới hình thức như du lịch ba lô. 1.2.5.4. Du lịch của tầng lớp thiếu niên và trẻ em - Tính cách hiếu động, nghịch ngợm, mải chơi, liều lĩnh. - Hay bắt chước người lớn và bạn bè, không biết tính toán trong chi tiêu. - Còn phụ thuộc vào kinh tế gia đình. 1.2.6. Căn cứ vào quốc tịch của du khách - Du lịch cho khách quốc tế. - Du lịch cho khách nội địa. 1.2.7. Căn cứ vào việc sử dụng các phương tiện giao thông 1.2.7.1. Du lịch đường bộ - Du lịch xe đạp Là loại hình vừa kết hợp tham quan và thể thao. Loại hình này giúp du khách tiết kiệm một số tiền về phương tiện đi lại để phục vụ vào mục đích khác. Bên cạnh đó du khách có thể xâm nhập dễ dàng với cuộc sống dân bản xứ và đi tới những nơi đường sá chưa phát triển. Loại hình này chủ yếu xuất hiện và được ưa chuộng ở châu Âu, đặc biệt ở các nước có địa hình bằng phẳng như Hà Lan, Đan Mạch. Ở Việt Nam chỉ có một số cơ sở làm dịch vụ cho khách là người nước ngoài thuê xe đạp, xe gắn máy đi du lịch (ví dụ phố Phạm Ngũ Lão – Tp.Hồ Chí Minh). - Du lịch xe ôtô Ở những nước công nghiệp phát triển hầu như gia đình nào cũng có xe ô tô. Ở Tây Ban Nha, Thụy Sĩ, Tây Đức du lịch ôtô chiếm trên 90%. Sử dụng ôtô có thể đi được nhiều nơi, thích hợp với nhiều dạng địa hình. Các gia đình thường dùng ôtô nghỉ ngơi cuối tuần. Đặc biệt sự phát triển du lịch nội địa gắn liền với loại hình du lịch ô tô. Tuy nhiên, một số khách thường bị dị ứng khi đi du lịch bằng ôtô. Điều này thường dẫn tới tâm lý ngần ngại của du khách, ảnh hưởng đến quyết định chọn sản phẩm du lịch của họ. 1.2.7.2. Du lịch đường không Là một trong những loại hình tiên tiến nhất, đáp ứng nhu cầu của khách, có thể tới tham quan, nghỉ dưỡng tại những nước, những vùng xa xôi nhất, tranh thủ sử dụng những ngày nghỉ cuối tuần trong thời gian di chuyển ngắn nhất. 11
  12. Ưu điểm: giảm thời gian di chuyển và làm tăng thời gian đi du lịch, phục vụ du khách với tiện nghi hiện đại, sang trọng. Nhược điểm: giá thành vận chuyển cao. Các phương tiện chính trong loại hình du lịch bằng đường không thường gặp là: máy bay dân dụng, máy bay lên thẳng, khinh khí cầu, cáp treo, các tàu vũ trụ. 1.2.7.3. Du lịch đường thủy Từ xa xưa vua chúa đã đi du ngoạn bằng thuyền trên sông, biển. Năm 1819 tàu Savannah là chiếc tàu thủy hơi nước đầu tiên vượt đại dương với lộ trình Savannah (Georgia) đến Liverpool (Anh) chuyến hành trình dài 29 ngày. Ngày nay, nhiều hãng tàu có các loại tàu với chất lượng tương đương khách sạn 5 sao với nhiều loại dịch vụ phong phú như thể thao, bơi, massage… có thể đáp ứng nhu cầu cao của du khách. Hiện nay có các công ty tàu biển lớn chở khách gồm có: P&O Princess (Vương quốc Anh), Star Cruise (Malaysia), Costa Crociere (Italia)… Đối tượng khách là những người có thu nhập cao. Loại hình du lịch này là trọn gói, đặc biệt thích hợp với những chuyến du lịch dài ngày, ghé thăm nhiều nơi, nhiều quốc gia. Ưu điểm của loại hình du lịch này là du khách có thể sống thỏa mái dài ngày trên tàu, luôn được hưởng một bầu không khí trong lành và tươi mát từ biển và được thăm nhiều địa điểm trong một chuyến đi. Nhược điểm của loại hình du lịch này là chi phí cao, những người có sức khỏe yếu thường không chịu được do dễ bị say sóng. 1.2.7.4. Du lịch bằng tàu hỏa Sự phát minh ra đầu máy hơi nước vào đầu thế kỷ 19 đã đánh dấu bước bứt phá mạnh mẽ trong việc đi lại. Sau bỡ ngỡ ban đầu thì xã hội đã dần coi tàu hỏa là một phương tiện đi lại ưa chuộng. Đi du lịch bằng tàu hỏa đã trở thành mơ ước, ham muốn và hứng thú của mỗi người. Ưu điểm cơ bản của loại hình du lịch này là vận chuyển được số lượng lớn du khách với chi phí tương đối rẻ, hành trình bằng tàu hỏa không làm hao tổn nhiều sức khỏe du khách. Tuy nhiên, loại hình du lịch này cũng có nhiều nhược điểm như: tính cơ động thấp vì tuyến đường không tiếp cận đến các điểm du lịch nên phải kết hợp với phương tiện khác để trung chuyển khách, du khách cũng tốn nhiều thời gian để di chuyển. 1.2.8. Căn cứ vào phương thức hợp đồng 1.2.8.1. Du lịch trọn gói Khách du lịch thường kí hợp đồng trọn gói với các công ty lữ hành khi muốn tham gia vào một tuyết du lịch với một số tiền nhất định. Thường các các dịch vụ trọn gói mà công ty lữ hành liên kết với các đơn vị kinh doanh khác nhau cung cấp cho khách đó là: - Dịch vụ lưu trú. - Dịch vụ vận chuyển. - Dịch vụ ăn uống. - Dịch vụ hướng dẫn. - Dịch vụ bảo hiểm. - Vé tham quan. 1.2.8.2. Du lịch từng phần Du khách chọn một hay vài dịch vụ của các công ty du lịch, có thể là dịch vụ lưu trú, có thể là dịch vụ ăn uống, có thể là vận chuyển… Còn lại khách tự tổ chức và liên hệ các dịch vụ khác nhau hay tự mình có. 1.2.9. Căn cứ vào tài nguyên du lịch 1.2.9.1. Du lịch sinh thái - Du lịch sinh thái có thể được biết đến dưới nhiều tên gọi khác nhau + Du lịch thiên nhiên. + Du lịch môi trường. + Du lịch xanh. + Du lịch có trách nhiệm. - Sau đây là một số khái niệm về du lịch sinh thái + Theo hiệp hội du lịch sinh thái Hoa Kì, 1998 12
  13. “Du lịch sinh thái là du lịch có mục đích với các khu tự nhiên, hiểu biết về lịch sử văn hóa và lịch sử tự nhiên của môi trường, không làm biết đổi tình trạng của hệ sinh thái, đồng thời ta có cơ hội phát triển kinh tế, bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên và lợi ích tài chính của địa phương”. + Theo hiệp hội du lịch sinh thái Australia Du lịch sinh thái là hình thức du lịch dựa vào thiên nhiên và định hướng môi trường tự nhiên và nhân văn, được quản lí một cách bền vững và có lợi cho sinh thái. - Định nghĩa về du lịch sinh thái ở Việt Nam “Du lịch sinh thái là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên và văn hóa bản địa, gắn với giáo dục môi trường, có đóng góp cho nỗ lực bảo tốn và phát triển bền vững, với sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương”. 1.2.9.2. Du lịch văn hóa Du lịch văn hóa là loại hình du lịch mà du khách muốn được thẩm nhận bề dày văn hóa của một nước, một vùng thông qua các di tích lịch sử, văn hóa, những phong tục tập quán còn hiện diện. 1.2.10. Một số cách phân loại khác 1.2.10.1. Căn cứ vào đặc điểm địa lý của điểm đến du lịch - Du lịch miền biển Mục đích chủ yếu của du khách là tắm biển, tắm nắng và tham gia các loại hình thể thao như: lướt ván, lặn biển, bóng chuyền trên biển… - Du lịch miền núi Du lịch miền núi thường gắn với hoạt động thể thao, chữa bệnh, hòa mình vào thiên nhiên để thư giãn, lấy lại sự thăng bằng về tâm lí. Các điểm nghỉ mát Tam Đảo, Sa Pa, Đà Lạt, Ba Vì… là những điểm nghỉ dưỡng miền núi đã xuất hiện khá lâu ở nước ta. Ngoài loại hình này, du lịch miền núi còn rất thích hợp cho việc xây dựng và phát triển các loại hình du lịch tham quan, cắm trại, mạo hiểm…đây là nhữngloại hình du lịch rất được các thanh thiếu niên ưa chuộng. Nó đáp ứng nhu cầu tự thể hiện mình, tự hoàn thiện mình của giới trẻ. - Du lịch đô thị Các thành phố, trung tâm hành chính có sức hấp dẫn bởi các công trình kiến trúc lớn có tầm cỡ quốc gia và quốc tế. Mặt khác đô thị cũng là đầu mối thương mại lớn của đất nước. Vì vậy không chỉ người dân ở các vùng nông thôn bị hấp dẫn bởi các công trình đương đại đồ sộ trong các đô thị mà du khách từ các miền khác nhau, từ các thành phố khác cũng có nhu cầu đến để chiêm ngưỡng phố xá và mua sắm. - Du lịch nông thôn Đối với người dân các đô thị, làng quê là nơi có không khí trong lành, cảnh vật thanh bình và không gian thoáng đãng. Tất cả các yếu tố đó lại hoàn toàn không tìm thấy ở thành thị. Như vậy về nông thôn có thể giúp họ phục hồi sức khỏe sau những chuỗi ngày làm việc căng thẳng. Về phương diện kinh tế, người dân đô thị nhận thấy giá cả nhiều mặt hàng nông sản thực phẩm ở nông thôn rẻ hơn, tươi hơn, an toàn hơn. Mặt khác, về mặt tình cảm, người dân đô thị tìm thấy ở nông thôn cội nguồn, tuổi thơ của mình. 1.2.10.2. Căn cứ vào thành phần du khách - Du lịch cho du khách thượng lưu Là những loại hình du lịch phục vụ đối tượng du khách có khả năng thanh toán cao, sử dụng những dịch vụ cao cấp. Để phục vụ những du khách này đòi hỏi nhân viên trong ngành du lịch phải có trình độ chuyên môn cao. - Du lịch cho du khách bình dân Là những loại hình du lịch phục vụ đối tượng du khách có khả năng thanh toán trung bình và thấp. Những dịch vụ cung cấp cho những du khách loại này thường ở mức trung bình, nhưng không được quá sơ sài, tránh làm ảnh hưởng đến uy tín của công ty kinh doanh du lịch. 1.2.10.3. Căn cứ vào hình thức tổ chức du lịch - Du lịch theo đoàn 13
  14. Các thành viên đi du lịch được tổ chức theo đoàn và thường có chuẩn bị chương trình du lịch sẵn Du lịch theo đoàn được chia ra làm hai loại: + Du lịch theo đoàn không thông qua tổ chức du lịch: đoàn tự chọn chuyến hành trình, thời gian, điểm lưu trú, điểm tham quan, ăn uống. + Du lịch theo đoàn thông qua tổ chức du lịch: loại hình này thường gắn với việc kinh doanh ở các công ty lữ hành. Khách được tổ chức đi tập thể theo một chương trình định sẵn, cùng phương tiện vận chuyển, cùng một hướng dẫn viên và thường trả theo giá trọn gói. Ưu điểm: khách an tâm trong việc tham quan, mọi việc đã có hướng dẫn viên và công ty lữ hành lo. Nhược điểm: bị lệ thuộc vào thời gian chuyến đi, phụ thuộc vào chương trình của đoàn. - Du lịch cá nhân Cá nhân du khách tự định ra tuyến hành trình, kế hoạch tham quan, lưu trú, ăn uống hay giải trí theo sở thích, thị hiếu riêng của mình Loại này cũng được chia ra hai loại: + Du lịch cá nhân không thông qua tổ chức du lịch: khách tự lên kế hoạch tham quan, lưu trú, ăn uống hoặc giải trí theo sở thích, thị hiếu riêng của mình. + Du lịch cá nhân có thông qua tổ chức du lịch (khách lẻ): cá nhân đi du lịch theo kế hoạch định trước của các tổ chức du lịch. Du khách đi du lịch cá nhân phải chi trả cao hơn từ 10 – 25% giá tour so với giá hợp đồng tập thể. 1.3. Nhu cầu du lịch và sản phẩm du lịch 1.3.1. Nhu cầu du lịch Nhu cầu du lịch là sự mong muốn của con người đi đến một nơi khác với nơi ở thường xuyên của mình để có được những xúc cảm mới, trải nghiệm mới, hiểu biết mới, để phát triển các mối quan hệ xã hội, phục hồi sức khoẻ, tạo sự thoải mái dễ chịu về tinh thần. Nhu cầu du lịch khác với nhu cầu của khách du lịch. Nhu cầu du lịch không phải là nhu cầu cơ bản, do vậy, nhu cầu du lịch chỉ được thoả mãn trong những điều kiện nhất định, đặc biệt là điều kiện về kinh tế, kỹ thuật, xã hội... còn nhu cầu của khách du lịch là những mong muốn cụ thể của khách du lịch trong một chuyến du lịch cụ thể, nó bao gồm: nhu cầu thiết yếu, nhu cầu đặc trưng và nhu cầu bổ sung. - Nhu cầu thiết yếu trong du lịch là những nhu cầu về vận chuyển, lưu trú và ăn uống cần phải được thoả mãn trong chuyến hành trình du lịch. - Nhu cầu đặc trưng là những nhu cầu xác định mục đích chính của chuyến đi, ví dụ nhu cầu nghỉ dưỡng, tham quan, giải trí, thăm viếng, tham gia lễ hội, học tập nghiên cứu... - Nhu cầu bổ sung là những nhu cầu chưa định hình trước, nó phát sinh trong chuyến hành trình du lịch như: thông tin, tư vấn, mua sắm... Về cơ bản, nhu cầu du lịch được phân làm 3 nhóm: nhu cầu thực tế, nhu cầu bị kìm chế và nhu cầu không xuất hiện. - Nhu cầu thực tế: là nhu cầu du lịch được thoả mãn, được thực hiện trong thực tế. Nhu cầu thực tế được thể hiện qua chỉ tiêu: số lượt khách đi du lịch trong một khoảng thời gian nào đó. - Nhu cầu bị kìm chế: là nhu cầu của một bộ phận dân cư muốn đi du lịch nhưng không thực hiện được vì một lý do nào đó. Các nguyên nhân kìm chế nhu cầu có thể là chủ quan hoặc khách quan. Các nguyên nhân chủ quan có thể là: + Thu nhập của những người đó thấp, chỉ đủ để đáp ứng các nhu cầu cơ bản, chưa thể đáp ứng các nhu cẫu cao hơn (tức là không có phần thu nhập được tự do chi phối); + Quá bận rộn, không đủ thời gian để thực hiện các chuyến đi du lịch (tức là không có thời gian rảnh rỗi được tự do chi phối). Các nguyên nhân khách quan có thể là: + Hoàn cảnh gia đình (bố mẹ già, con nhỏ, người nhà đau ốm...); 14
  15. + Điểm đến du lịch không đảm bảo an toàn, hoặc không đủ khả năng đón tiếp (thời tiết xấu, phòng ngủ không đủ, chính trị không ổn định, dịch bệnh...); + Phương tiện vận chuyển không đáp ứng đủ nhu cầu đi lại; + Cơ chế, chính sách của chính phủ nơi khách đi hoặc đến không khuyến khích đi du lịch hoặc tiếp nhận khách du lịch... Tùy thuộc vào nguyên nhân, nhu cầu bị kìm chế được chia làm 2 bộ phận: - Nhu cầu tiềm tàng: bao gồm những người thích đi du lịch nhưng chưa cố khả năng thực hiện do những nguyên nhân chủ quan. Những người này sẽ đi du lịch trong tương lai khi thu nhập của họ tăng lên hoặc họ cố thời gian rảnh rỗi nhiều hơn. - Nhu cầu bị trì hoãn: bao gồm những người đã có nhu cầu đi du lịch nhưng chuyến đi của họ bị hoãn lại do các nguyên nhân khách quan xuất hiện trong một thời gian ngắn như: hoàn cảnh gia đình, khó khăn trở ngại từ phía cung (thiếu phòng ngủ, thiếu phương tiện vận chuỵển, thời tiết xấu...) hoặc do cơ chế chính sách của nước nơi khách du lịch cư trú. Nhu cầu thuộc bộ phận này sẽ trở thành nhu cầu thực tế trong tương lai gần khi các nguyên nhân khách quan được loại trừ. - Không có nhu cầu: Gồm những người có đủ điều kiện nhưng không muốn đi du lịch và những người trong suốt cuộc đời không thể đi du lịch vì lý do hoàn cảnh gia đình, sức khỏe, lối sống, văn hóa .... 1.3.2. Sản phẩm du lịch 1.3.2.1. Khái niệm về sản phẩm du lịch Du lịch là ngành kinh tế dịch vụ mang tính tổng hợp cao nhằm phục vụ và làm thỏa mãn các nhu cầu của con người, do vậy, cần tạo ra các sản phẩm du lịch phục vụ du khách. Có rất nhiều khái niệm liên quan đến sản phẩm du lịch “Sản phẩm du lịch là một tổng thể phức tạp bao gồm nhiều thành phần không đồng nhất cấu tạo thành, đó là tài nguyên tự nhiên, tài nguyên nhân văn, cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng dịch vụ du lịch và đội ngũ cán bộ nhân viên du lịch”. Theo tiến sĩ Thu Trang Công Thị Nghĩa, tiến sĩ sử học, ủy viên đoàn chủ tịch hội người Việt Nam tại Pháp: “Sản phẩm du lịch là một loại sản phẩm tiêu dùng đáp ứng cho nhu cầu của du khách, nó bao gồm di chuyển, ăn ở và giải trí”. Theo Luật Du lịch, “Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch trong chuyến đi du lịch”. 1.3.2.2. Cơ cấu sản phẩm du lịch - Những thành phần tạo lực hút (lực hấp dẫn đối với du khách) Bao gồm các điểm du lịch, các tuyến du lịch để thỏa mãn cho nhu cầu tham quan, thưởng ngoạn của du khách, đó là những cảnh quan thiên nhiên đẹp nổi tiếng, các kỳ quan, các di sản văn hóa thế giới, các di tích lịch sử mang đậm nét văn hóa đặc sắc của các quốc gia, các vùng… - Cơ sở du lịch ( điều kiện vật chất để phát triển ngành du lịch) Cơ sở du lịch bao gồm mạng lưới cơ sở lưu trú như khách sạn, làng du lịch để phục vụ cho nhu cầu lưu trú của du khách, cửa hàng phục vụ ăn uống, cơ sở kỹ thuật phục vụ nhu cầu vui chơi giải trí cho du khách, hệ thống các phương tiện vận chuyển nhằm phục vụ cho việc đi lại của du khách. - Dịch vụ du lịch Bộ phận này được xem là hạt nhân của sản phẩm du lịch, việc thực hiện nhu cầu chi tiêu du lịch của du khách không tách rời các loại dịch vụ mà nhà kinh doanh du lịch cung cấp. Sản phẩm du lịch mà nhà kinh doanh du lịch cung cấp cho du khách ngoài một số sản phẩm vật chất hữu hình như: ăn, uống, phần nhiều thể hiện bằng các loại dịch vụ. Dịch vụ du lịch là một qui trình hoàn chỉnh, là sự liên kết hợp lý các dịch vụ đơn lẻ tạo nên. Do vậy, phải tạo ra sự phối hợp hài hòa, đồng bộ trong toàn bộ chỉnh thể để tạo ra sự đánh giá tốt của du khách về sản phẩm du lịch hoàn chỉnh. 1.3.2.3. Giá trị và giá trị sử dụng của sản phẩm du lịch - Giá trị sử dụng của sản phẩm du lịch Giá trị sử dụng của sản phẩm du lịch là ở chỗ nó có thể thỏa mãn nhu cầu có tính tổng hợp của du khách trong quá trình du lịch, một mặt vừa bao gồm nhu cầu sinh lý cơ bản như: 15
  16. ăn, ở, đi lại, mặt khác còn bao gồm nhu cầu tinh thần như: tham quan, du ngoạn, làm phong phú kiến thức, tăng cường giao lưu…Vì vậy, giá trị sử dụng của sản phẩm du lịch có tính đa chức năng và mang tính trừu tượng. - Giá trị sản phẩm du lịch Có thể chia giá trị sản phẩm du lịch ra làm ba nội dung: + Giá trị sản phẩm vật chất: có thể dùng thời gian lao động tất yếu của xã hội để đo lường. + Giá trị dịch vụ du lịch: quyết định bởi trình độ thiết bị, đầu tư, lực lượng lao động, thái độ phục vụ, phương thức dịch vụ và năng suất hiệu quả dịch vụ. + Giá trị sản phẩm vật chất là nội dung quan trọng tạo nên giá trị của sản phẩm du lịch. 1.3.2.4. Mô hình sản phẩm du lịch Mô hình 4S - Sea: biển. - Sun: mặt trời, tắm nắng. - Shop: cửa hàng lưu niệm, mua sắm. - Sand: bãi cát. Mô hình 3H - Heritage (di sản văn hóa, di sản truyền thống dân tộc) Di sản văn hóa, di tích lịch sử, kiến trúc, mỹ thuật, nghệ thuật là những yếu tố đặc sắc, quan trọng của tài nguyên nhân văn của thế giới và mỗi quốc gia, nó tạo ra lực hấp dẫn rất lớn đối với du khách quốc tế và nội địa. - Hospitality (lòng mến khách) Lòng mến khách thể hiện qua sự giao tiếp giữa du khách với cán bộ, nhân viên du lịch, giữa du khách với cư dân địa phương nhằm tăng thêm sự hài lòng và góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch. - Honesty (Tính lương thiện) Kinh doanh du lịch muốn thành công thì phải lấy chữ tín làm đầu, phải tạo được sự tin cậy vững chắc của du khách vào chất lượng của sản phẩm du lịch để họ sẵn sàng bỏ tiền ra mua sản phẩm du lịch mà họ tin tưởng. 1.3.2.5. Đặc tính sản phẩm du lịch - Tính tổng hợp Tính tổng hợp của sản phẩm du lịch thể hiện ở sự kết hợp các loại dịch vụ mà cơ sở kinh doanh du lịch cung ứng nhằm thỏa mãn nhu cầu của du khách, nó bao gồm sản phẩm lao động vật chất và phi vật chất. Mặt khác, tính tổng hợp của sản phẩm du lịch thể hiện ở việc sản xuất liên quan tới rất nhiều ngành nghề và bộ phận. - Tính không dự trữ Là một loại sản phẩm dịch vụ, sản phẩm du lịch có tính chất “không thể dự trữ” như sản phẩm vật chất nói chung, có nghĩa là không thể tồn kho. - Tính không thể chuyển dịch Việc tiêu dùng sản phẩm du lịch xảy ra song song cùng một thời gian và không gian sản xuất ra chúng, vì vậy du khách chỉ có thể tiêu thụ sản phẩm nơi sản xuất ra sản phẩm du lịch chứ không thể như sản phẩm vật chất nói chung có thể chuyển ra khỏi nơi sản xuất và đem đi tiêu thụ ở nơi khác. Trong quá trình trao đổi sản phẩm du lịch không xảy ra việc chuyển dịch quyền sở hữu sản phẩm, du khách chỉ có quyền sử dụng tạm thời đối với sản phẩm du lịch. - Tính dễ dao động (dễ bị thay đổi) Con người luôn có nhu cầu khám phá, tìm hiểu cái mới, do vậy du khách ít trung thành với một sản phẩm du lịch duy nhất, việc tiêu dùng sản phẩm du lịch luôn thay đổi phụ thuộc vào trào lưu tiêu thụ du lịch và mốt du lịch. - Tính thời vụ Việc tiêu thụ sản phẩm du lịch có tính thời vụ; nguyên nhân là do lượng cung sản phẩm du lịch khá ổn định trong một thời gian nhất định, trong khi đó nhu cầu thường xuyên 16
  17. thay đổi làm cho quan hệ cung – cầu cũng thay đổi, có thể cung vượt cầu và cầu vượt cung, gây khó khăn lớn trong việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm du lịch. 1.4. Thời vụ du lịch 1.4.1. Khái niệm và đặc điểm của thời vụ du lịch 1.4.1.1. Khái niệm “ Thời vụ du lịch được hiểu là những biến động lặp đi lặp lại hàng năm của cung và cầu các dịch vụ và hàng hóa du lịch dưới tác động của một số nhân tố xác định”. Thời vụ du lịch ở một quốc gia hoặc một vùng là một tập hợp của sự tương tác theo mùa của đại lượng cung và đại lượng cầu trong tiêu dùng du lịch. 1.4.1.2. Đặc điểm của thời vụ du lịch - Tính thời vụ trong du lịch mang tính phổ biến ở tất cả các nước và các vùng có hoạt động du lịch. Về mặt lý thuyết, nếu một vùng du lịch kinh doanh nhiều thể loại du lịch và đảm bảo được cường độ hoạt động đều đặn trong các tháng của năm (luôn giữ được lượng khách và doanh thu nhất định) thì tại vùng đó tính thời vụ là không tồn tại. Tuy nhiên, khả năng đó là rất khó thực hiện vì có rất nhiều yếu tố tác động lên hoạt động kinh doanh du lịch làm cho hoạt động đó khó có thể đảm bảo được cường độ hoạt động đều đặn trong năm và vì vậy tồn tại tính thời vụ trong du lịch. - Một nước hoặc một vùng du lịch có thể có một hoặc nhiều thời vụ du lịch tùy thuộc vào các thể loại du lịch phát triển ở đó. Một nước hay một vùng chỉ phát triển một loại hình du lịch là chủ yếu như nghỉ biển hay nghỉ núi thì ở đó chỉ có một mùa du lịch là vào mùa hè hoặc mùa đông. Chẳng hạn như các vùng biển Đồ Sơn, Sầm Sơn, Vũng Tàu của Việt Nam chỉ kinh doanh (và phát triển) loại hình du lịch nghỉ biển là chủ yếu thì mùa du lịch sẽ vào mùa hè. Nhưng nếu như tại một khu nghỉ mát biển lại có nhiều nguồn nước khoáng giá trị, ở đó phát triển mạnh 2 thể loại du lịch: du lịch nghỉ biển vào mùa hè và du lịch nghĩ dưỡng chữa bệnh vào mùa đông dẫn đến ở đó có 2 mùa du lịch. Tại một số vùng núi ở châu Âu (tại Áo, Pháp) phát triển 2 mùa du lịch chính là mùa đông trượt tuyết, mùa hè leo núi nghĩ dưỡng và chữa bệnh. - Độ dài của thời gian và cường độ của thời vụ du lịch không bằng nhau đối với các thể loại du lịch khác nhau. Du lịch chữa bệnh thường có mùa dài hơn và cường độ vào mùa chính yếu hơn. Du lịch nghỉ biển (vào mùa hè), nghỉ núi (trượt tuyết vào mùa đông) có mùa ngắn hơn và cường độ mạnh hơn (do phụ thuộc vào yếu tố thiên nhiên nhiều hơn). - Cường độ của thời vụ du lịch không bằng nhau theo thời gian của chu kỳ kinh doanh. Thời gian mà ở đó cường độ lớn nhất được quy định là thời vụ chính (mùa chính), còn thời kỳ có cường độ nhỏ hơn ngay trước mùa chính gọi là thời vụ trước mùa, ngay sau mùa chính gọi là thời vụ sau mùa. Thời gian còn lại trong năm còn được gọi là ngoài mùa. Ở một số nước chỉ kinh doanh du lịch nghỉ biển là chủ yếu thời gian ngoài mùa người ta gọi là “mùa chết”. Thí dụ: Tại bãi biển Sầm Sơn vào tháng 6, 7, 8 là thời gian tắm biển đẹp nhất, nhiều người đi tắm nhất (và cũng vì vào kỳ nghỉ hè). Vào thời gian đó số khách đông nhất, cường độ thời vụ là lớn nhất hoặc gọi là mùa chính. Vào tháng 4, 5, 9, 10 nước biển cũng tương đối ấm, có thể tắm biển được vẫn còn có khách đến tắm biển, nghỉ ngơi hoặc trước mùa và sau mùa. Còn lại tháng 11, 12, 1, 2, 3 là những tháng ngoài mùa (mùa chết). - Độ dài của thời gian và cường độ của thời vụ du lịch phụ thuộc vào mức độ phát triển và kinh nghiệm kinh doanh du lịch của các quốc gia du lịch, điểm du lịch và các nhà kinh doanh du lịch. Cùng kinh doanh một loại hình du lịch, với các điều kiện về tài nguyên du lịch tương đối như nhau thì ở các nước, các vùng, các cơ sở kinh doanh du lịch phát triển hơn, có kinh nghiệm kinh doanh tốt hơn thì thời vụ du lịch thường kéo dài hơn và cường độ của mùa du lịch yếu hơn. Ngược lại, các nước, vùng, cơ sở du lịch mới phát triển, chưa có nhiều kinh 17
  18. nghiệm kinh doanh (chính sách tiếp thị, quảng cáo chưa tốt) thường có mùa du lịch ngắn hơn và cường độ của mùa du lịch chính thể hiện mạnh hơn. - Cường độ và độ dài của thời vụ du lịch phụ thuộc: + Cơ cấu của khách đến vùng du lịch Các trung tâm dành cho du lịch thanh, thiếu niên (sinh viên, học sinh) thường có mùa ngắn hơn và có cường độ mạnh hơn so với những trung tâm đón khách ở độ tuổi trung niên. Nguyên nhân chính ở đây là do thanh, thiếu niên thường hay đi theo đoàn, hội vào các dịp nghỉ hè, nghỉ tết ngắn hạn. + Số lượng các cơ sở lưu trú chính Ở đâu (đất nước, vùng) có chủ yếu là các cơ sở lưu trú chính – khách sạn, motel, nhà nghỉ, khu điều dưỡng, mùa du lịch kéo dài hơn và cường độ của mùa chính là yếu hơn so với nơi sử dụng nhiều nhà trọ và Camping. Ở đó mùa du lịch thường ngắn hơn và cường độ thường mạnh hơn. Đặc điểm này là hậu quả của nhiều nguyên nhân khác nhau như: Những nơi có chủ yếu là các cơ sở lưu trú chính thì việc đầu tư và bảo dưỡng tốn kém hơn dẫn đến các nhà kinh doanh phải tìm nhiều biện pháp kéo dài thời vụ hơn. Những nơi có thời vụ du lịch ngắn thì nhu cầu đầu tư và xây dựng các cơ sở lưu trú chính ít hơn. Cơ sở lưu trú là nhà trọ và Camping vừa linh hoạt lại vừa tốn ít chi phí hơn. 1.4.2. Các nhân tố tác động đến tính thời vụ của hoạt động du lịch 1.4.2.1. Nhân tố tự nhiên Khí hậu là nhân tố có ý nghĩa quan trọng trong việc hình thành tính thời vụ du lịch. Nó tác động mạnh lên cả cung và cầu du lịch. Ảnh hưởng của nhân tố khí hậu thể hiện rõ nét ở các loại hình du lịch nghỉ biển, nghỉ núi và mức độ nhất định trong du lịch chữa bệnh. Đối với các du lịch nghỉ biển, các thành phần như ánh nắng, độ ẩm, hướng gió, nhiệt độ và một số đặc điểm như vị trí địa lý, độ sâu, chiều dài - rộng của bãi tắm… sẽ quyết định đến nhu cầu của khách. 1.4.2.2. Nhân tố kinh tế - xã hội - tâm lý Thu nhập là yếu tố quan trọng có ảnh hưởng quyết định tới nhu cầu đi du lịch bởi để thực hiện được chuyến đi du lịch thì cần phải có một lượng tiền cần thiết, nên thu nhập của người dân càng cao thì họ có nhu cầu đi du lịch càng nhiều. Sự thay đổi tỉ giá hối đoái cũng tác động khá lớn đến nhu cầu đi du lịch. Chẳng hạn đồng tiền quốc gia nơi đến bị mất giá so với đồng tiền có khả năng chuyển đổi cao như USD, EURO… thì sẽ làm tăng nhu cầu du lịch và ngược lại. Sự thay đổi có thể kéo theo làm thay đổi mức độ, thời vụ của du lịch. 1.4.2.3. Thời gian nhàn rỗi Thời gian nhàn rỗi là nhân tố ảnh hưởng đến sự phân bố không đều của nhu cầu du lịch, con người chỉ có thể đi du lịch vào thời gian nhàn rỗi. 1.4.2.3. Sự quần chúng hóa trong du lịch Là nhân tố ảnh hưởng đến cầu trong du lịch. Sự tham gia của số đông khách có khả năng thanh toán trung bình (thường ít có kinh nghiệm đi du lịch) họ thường thích đi nghỉ biển vào mùa hè mùa du lịch chính Vì vậy, sự quần chúng hóa trong du lịch làm tăng tính thời vụ vốn có trong du lịch. Để khắc phục ảnh hưởng này người ta thường dùng chính sách giảm giá vào trước và sau mùa chính, đồng thời tăng cường quảng cáo các điều kiện nghỉ ngơi ngoài mùa chính để thu hút khách. 1.4.2.4. Phong tục tập quán Thông thường là các phong tục có tính chất lâu dài và được hình thành dưới tác động của các điều kiện kinh tế - xã hội. Các điều kiện này thay đổi sẽ tạo ra các phong tục mới nhưng không thể xóa bỏ phong tục cũ và chúng có thể chấp nhận được. Ví dụ: ở miền Bắc nước ta vào mùa xuân là mùa lễ hội như Chùa Hương, Chùa Thầy, Đền Hùng, Hội Lim… chiếm tới 74% trong tổng số lễ hội trong năm. 1.4.2.5. Điều kiện về tài nguyên du lịch Điều kiện về tài nguyên du lịch như bờ biển đẹp, dài... mùa du lịch biển tăng và ngược lại hoặc các danh lam thắng cảnh phong phú sẽ làm tăng cường độ du lịch tham quan. Ở những vùng có suối nước khoáng tạo điều kiện du lịch chữa bệnh phát triển… Độ dài của thời 18
  19. vụ du lịch của một vùng phụ thuộc vào sự đa dạng của các thể loại du lịch có thể phát triển ở đó. 1.4.2.6. Nhân tố mang tính tổ chức- kĩ thuật Sự sẵn sàng đón tiếp khách du lịch có ảnh hưởng đến độ dài thời vụ du lịch thông qua cung. Cơ cấu của cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch và cách tổ chức hoạt động trong các cơ sở du lịch ảnh hưởng đến việc phân bố nhu cầu theo thời gian. Việc phân bố hợp lý các hoạt động vui chơi, giải trí, tổ chức cho du khách có ảnh hưởng nhất định đến việc khắc phục sự tập trung những nhân tố tác động đến thời vụ du lịch. Chính sách giá của các cơ quan du lịch ở từng nước, từng vùng, các tổ chức kinh doanh du lịch - khách sạn thường giảm giá các dịch vụ và hàng hóa trước và sau mùa chính hoặc dùng các hình thức khuyến mãi để kéo dài thời vụ du lịch. Các hoạt động tuyên truyền, quảng cáo ảnh hưởng không nhỏ đến sự phân bố của luồng khách du lịch giúp cho khách du lịch nắm được các thông tin về điểm du lịch để họ có kế hoạch đi nghỉ sớm hoặc sau mùa chính một khi họ thấy có lợi. 1.4.3. Đề xuất giải pháp khắc phục sự bất lợi của thời vụ du lịch 1.4.3.1. Xác định khả năng kéo dài thời vụ du lịch - Xác định thể loại du lịch nào phù hợp. - Giá trị và khả năng tiếp nhận của tài nguyên du lịch. - Số lượng du khách trong đó và tiềm năng. - Sức tiếp nhận của cơ sở vật chất – kỹ thuật du lịch. - Khả năng cung ứng nguồn lao động. - Kinh nghiệm tổ chức. - Khả năng kết hợp các thể loại du lịch khác nhau. 1.4.3.2. Hình thành thời vụ du lịch thứ hai trong năm Cần phải xác định được những loại hình du lịch và phải dựa trên các tiêu chuẩn sau: + Tính hấp dẫn của các tài nguyên du lịch đưa vào khai thác cho thời vụ thứ hai. + Xác định nguồn khách tiềm năng theo số lượng và cơ cấu. + Lượng vốn đầu tư cần thiết để xây dựng thêm trang thiết bị nhằm thỏa mãn nhu cầu cho du khách quanh năm. 1.4.3.3. Nghiên cứu thị trường Để xác định số lượng và thành phần của luồng du khách triển vọng ngoài mùa du lịch chính, phải chú ý đến các nhóm du khách sau : + Khách du lịch công vụ. + Công nhân viên không được sử dụng phép năm vào mùa du lịch chính. + Các gia đình có con nhỏ không bị hạn chế thời gian nghỉ vào mùa chính. + Những người hưu trí. + Những người có nhu cầu đặc biệt. 1.4.3.4. Nâng cao sự sẵn sàng đón tiếp du khách quanh năm cho cả nước, vùng và khu du lịch + Thực hiện sự phối hợp giữa những người tham gia vào việc cung ứng sản phẩm du lịch ngoài thời vụ du lịch chính để tạo được sự thống nhất về quyền lợi và hành động. + Nâng cao chất lượng và cải tiến cơ cấu của cơ sở vật chất - kỹ thuật du lịch, tạo cho nó có khả năng thích ứng để thỏa mãn nhu cầu đa dạng của du khách. 1.4.3.5. Sử dụng tích cực các động lực kinh tế + Đối với du khách, các tổ chức và công ty du lịch sử dụng chính sách giảm giá, khuyến mãi để kích thích du khách đi du lịch ngoài mùa chính. + Khuyến khích tính chủ động của của các tổ chức kinh doanh du lịch, các cơ sở trong việc kéo dài thời vụ du lịch. 1.5. Một số loại hình cơ sở lưu trú du lịch tiêu biểu 1.5.1. Khách sạn du lịch (Hotel) 19
  20. Khách sạn du lịch là cơ sở kinh doanh dịch vụ, phục vụ du khách về các mặt như ăn, nghỉ, vui chơi giải trí và các dịch vụ cần thiết khác và là cơ sở vật chất quan trọng để phát triển ngành du lịch. Ưu điểm: - Khách sạn được đầu tư đội ngũ nhân viên phục vụ được đào tạo, đảm bảo cung cấp đầy đủ các dịch vụ như cam kết trong giá phòng thuê. - Nằm ở các vị trí tốt, tiện cho nhu cầu tham quan du lịch hoặc công tác. - Có nhiều phòng đủ đáp ứng cho đoàn lớn như các nhóm gia đình, công ty. - Có nhiều phương án cho khách đặt như phòng đơn, hay villa cho nhóm. - Có hệ thống an ninh tốt, có bảo vệ trực 24/24. - Các bữa ăn luôn đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. - Có nhiều dịch vụ và tiện ích đi kèm cho du khách như quầy thông tin tư vấn, xe đưa đón, phòng gym, xông hơi … - Phòng tương đối yên tĩnh, cách âm tốt. - Có hóa đơn đỏ cho khách công ty. Khuyết điểm: - Mặt bằng chi phí cao hơn phân khúc homestay hay nhà nghỉ tự phát. - Phòng ốc tương đối trang trí tương đồng nhau ở nhiều khách sạn. Chỉ có các khách sạn lớn từ 4 sao trở lên mới có được những lối kiến trúc và trang trí đặc sắc hơn, do đó sự trải nghiệm văn hóa vùng miền qua kiến trúc bị giới hạn. - Giới hạn giờ nhận phòng và trả phòng theo quy định chung và có phụ thu khi nhận phòng sớm/ trả phòng trễ. - Giới hạn số lượng khách ở, phụ thu khi thêm khách hoặc trẻ em đi cùng. Nhóm khách phù hợp: - Khách du lịch đòi hỏi cao về dịch vụ đi kèm phòng ở. - Khách cần sự yên tĩnh và an ninh. - Khách công tác cần vị trí tốt và hóa đơn tài chính. - Khách nhóm lớn từ 10 người trở lên. 1.5.2. Khách sạn ô tô (Motel – Hotel and Motor) Motel là những khách sạn thấp tầng và gần đường giao thông, gắn liền với dịch vụ bảo dưỡng; sửa chữa phương tiện vận chuyển của khách. Motel được xuất hiện đầu tiên ở Mỹ vào năm 1930 sau đó mới xuất hiện ở Tây Âu và Đông Âu. Vị trí thường được xây dựng ở vùng ngoại ô hay trên các trục đường cao tốc, những nơi thuận tiện cho xe ô tô qua lại. - Đặc trưng của Motel thể hiện ở mặt: + Là cơ sở lưu trú phục vụ theo mùa hay quanh năm cho du khách đi du lịch bằng ô tô. + Thời gian lưu trú trong các Motel thường ngắn. + Thường được xây dựng cạnh các tuyến đường giao thông hay ở giao điểm các trục đường chính. + Motel có các dịch vụ như ở khách sạn nhưng cũng rất hạn chế nhưng bao giờ cũng có dịch vụ giành cho khách có phương tiện xe riêng như ôtô, môtô như: có nơi để xe khách, có cây xăng, xưởng sửa chữa và bảo hành xe. + Số lượng nhân viên hạn chế, khách tự phục vụ là chính. + Trong các Motel khách có được phục vụ ăn, nhưng chủ yếu là phục vụ ăn sáng, các món ăn rất hạn chế. Motel có bố trí bếp để khách tự nấu ăn. 1.5.3. Làng du lịch Trong cuốn sổ tay du lịch quốc tế đã đưa ra định nghĩa về làng du lịch như sau: “Làng du lịch là một trung tâm riêng biệt, gồm nhiều lán, nhà dành cho cá nhân hoặc gia đình lưu trú, tập hợp xung quanh các cơ sở sinh hoạt công cộng phục vụ trong giá trọn gói, bao gồm ăn uống, vui chơi giải trí”. Theo Luật du lịch : Làng du lịch là khu vực được quy hoạch, xây dựng gồm các biệt thự hoặc Bungalow đảm bảo chất lượng về cơ sở vật chất, trang thiết bị dịch vụ phục vụ nhu cầu sinh hoạt, giải trí, nghỉ dưỡng và các nhu cầu cần thiết khác của khách du lịch. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2