TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 19, 2003<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
HÀNH ĐỘNG THIẾT LẬP TƯ THẾ NGƯỜI <br />
TRONG KHÔNG GIAN VÀ CÁC PHƯƠNG THỨC<br />
BIỂU ĐẠT CHÚNG TRONG TIẾNG VIỆT<br />
<br />
Nguy ễn Tình<br />
Tr ường Đại học Sư phạm, Đại học Huế<br />
<br />
<br />
1. Đối chiếu tiếng Việt với tiếng Nga chúng tôi thấy có sự bất tương đồng <br />
trong phương thức biểu đạt các hành động thiết lập tư thế của người trong không <br />
gian. Khảo sát cho thấy, trong tiếng Nga để biểu thị hành động thiết lập tư thế có <br />
các động từ sau: лечь ложиться (nằm xuống), сесть садиться (ngồi xuống), <br />
встать вставать (đứng dậy)... Khác với tiếng Nga, trong tiếng Việt không có các <br />
động từ độc lập và chuyên dụng biểu thị các hành động này mà thay vào đó là các <br />
động từ chỉ tư thế (đứng, quỳ, ngồi, nằm) với nhiều phương thức biểu đạt khác <br />
nhau.<br />
Trong bài viết này chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát và nghiên cứu các hành <br />
động tự thiết lập tư thế cơ bản của người trong không gian và các phương thức <br />
biểu đạt chúng trong tiếng Việt nhằm chỉ ra cơ sở ngữ nghĩa cho việc xác định các <br />
đơn vị “tương đương chức năng” của các động từ tiếng Nga nêu trên trong tiếng <br />
Việt. <br />
Ở đây chúng tôi cũng xin nói thêm, như chúng ta đã biết, tư thế của người <br />
trong không gian rất đa dạng. Song trong bài viết này chúng tôi chỉ đề cập đến các tư <br />
thế được xem là cơ bản và phổ biến nhất, đó là: đứng, quỳ, ngồi, nằm. Bên cạnh <br />
đó, hành động thiết lập tư thế mà chúng tôi vừa trình bày ở trên là hành động tự thiết <br />
lập tư thế, tức là chủ thể tự tiến hành nhằm đạt một tư thế nào đó. Sở dĩ phải nói <br />
thêm điều này là vì trong thực tế, mỗi tư thế có được không phải bao giờ cũng do <br />
chính chủ thể tạo nên, mà có khi là do một chủ thể khác tác động vào để tạo nên. <br />
Chẳng hạn như tư thế nằm của đứa bé trong nôi, có thể là do người mẹ hoặc ai đó <br />
đã đặt đứa bé nằm vào đấy chứ không phải đứa bé tự thiết lập cho mình tư thế nằm.<br />
<br />
<br />
<br />
49<br />
2. Để giải quyết nhiệm vụ vừa nêu trên, trước tiên chúng tôi muốn đề cập <br />
đến mối quan hệ giữa tư thế và hành động thiết lập tư thế, qua đó làm rõ hơn khái <br />
niệm hành động tự thiết lập tư thế của người trong không gian.<br />
2.1. Mối quan hệ giữa tư thế và hành động thiết lập tư thế<br />
Như chúng ta đã biết, để biểu thị các tư thế cơ bản của người, trong tiếng <br />
Việt có các động từ chuyên dụng sau: đứng, quỳ, ngồi, nằm. Bản thân ý nghĩa từ <br />
vựng của các từ này đã cho biết về tư thế của người trong không gian. Động từ <br />
đứng là biểu thị tư thế của người thẳng đứng và vuông góc với mặt phẳng ngang. <br />
Hai động từ ngồi và quỳ cũng tương tự như vậy, tức là chỉ tư thế vuông góc với mặt <br />
phẳng ngang nhưng điểm tiếp giáp có sự khác nhau. Riêng động từ nằm biểu thị tư <br />
thế không vuông góc với mặt phẳng ngang mà song song và tiếp giáp với mặt phẳng <br />
ngang với kích thước và hình dạng vừa bằng với chủ thể. Có thể minh họa điều này <br />
bằng các ví dụ sau:<br />
Xuân tóc đỏ và người đàn bà kia thì đứng ở ngoài cửa (Vũ Trọng Phụng, “Số <br />
đỏ”).<br />
Vua lại nhìn tên ác bá quỳ trước ghế, mặt xám như chì (Bùi Văn Nguyên, <br />
“Truyện danh nhân”).<br />
Hắn (Chí Phèo) về hôm trước, hôm sau đã thấy ngồi ở chợ uống rượu với thịt <br />
chó (Nam Cao, “Truyện ngắn chọn lọc”).<br />
Chí Phèo nằm dài không nhúc nhích, rên khe khẽ như gần chết (Nam Cao, <br />
“Truyện ngắn chọn lọc”).<br />
Qua các ví dụ trên chúng ta dễ dàng nhận thấy các tư thế được biểu thị bởi <br />
các động từ đứng, quỳ, ngồi, nằm đều mang đặc tính chung là ở trạng thái tĩnh tại <br />
(bất động). Thực tế cho thấy các trạng thái này của chủ thể bao giờ cũng là kết quả <br />
liền sau của các hành động tự thiết lập tư thế. Hay nói cách khác, hành động tự thiết <br />
lập tư thế kết thúc thì lập tức chủ thể sẽ chuyển vào một tư thế nào đó, tức là <br />
chuyển qua trạng thái tĩnh tại. Mặt khác, trước khi tiến hành thiết lập một tư thế nào <br />
đó chủ thể bao giờ cũng đang ở trong một tư thế nhất định. Chẳng hạn, tư thế đứng <br />
là kết quả liền sau của hành động tự thiết lập tư thế đứng, nhưng đồng thời trước <br />
khi tiến hành thiết lập tư thế đứng, chủ thể bao giờ cũng đang ở trong một tư thế <br />
nào đó, mà thông thường là quỳ, ngồi hoặc nằm. Như vậy có thể nói rằng sự luân <br />
phiên giữa tư thế và hành động thiết lập tư thế đã tạo nên vòng tuần hoàn biến thiên <br />
giữa nguyên nhân và kết quả, giữa hành động và trạng thái, giữa động và tĩnh. Có thể <br />
biểu diễn điều vừa trình bày ở trên bằng biểu đồ sau: <br />
A B <br />
<br />
50<br />
A : Tư thế <br />
B : Hành động tự thiết lập tư thế<br />
Â<br />
B A<br />
2.2. Các phương thức biểu đạt hành động tự thiết lập tư thế của người<br />
Từ những trình bày trên đây chúng ta thấy rằng tư thế và hành động tự thiết <br />
lập tư thế là hai sự thể (states of affairs) khác nhau và trong ngôn ngữ chúng được <br />
biểu đạt bằng các phương thức khác nhau.<br />
2.2.1. Phương thức tổ hợp từ<br />
Nếu như các tư thế cơ bản của người được biểu đạt bằng các từ chuyên <br />
dụng, như đã trình bày ở trên, là các động từ: đứng, quỳ, ngồi, nằm, thì các hành <br />
động tự thiết lập tư thế không có các từ chuyên dụng mà thay vào đó là các tổ hợp từ <br />
như: đứng lên, quỳ xuống, ngồi xuống, nằm xuống, v.v...<br />
Ví dụ:<br />
Tuy Chính ủy gàn nhưng Châu vẫn đứng lên lấy đĩa bày bánh kẹo (Lê Lựu, <br />
“Thời xa vắng”.<br />
Tên tướng giặc hốt hoảng quỳ xuống trước con ngựa bạch của Hoài Văn <br />
Hầu (Bùi Văn Nguyên, “Truyện danh nhân”).<br />
Mời bà ngồi xuống đây mà nghĩ – Tú nói với bà nội (Hữu Anh, “Xế chiều”<br />
Vậy chú vào lễ các cụ rồi nằm xuống đây – ông Phủ nói với ông Tham <br />
( Nguyễn Công Hoan, “Lá ngọc cành vàng”).<br />
Như vậy, mặc dù đều là các sự thể nhưng giữa tư thế và hành động tự thiết <br />
lập tư thế không tương xứng với nhau về phương thức biểu đạt. Nếu như tư thế <br />
được biểu thị bằng một từ thì hành động tự thiết lập tư thế được biểu thị bằng <br />
một tổ hợp từ. Xin hãy so sánh:<br />
đứng đứng lên nằm nằm xuống<br />
quỳ quỳ xuống ngồi ngồi xuống<br />
Hơn thế nữa, qua khảo sát cũng như thực tế cho thấy trong tiếng Việt để <br />
biểu thị hành động tự thiết lập tư thế, bên cạnh các tổ hợp từ vừa nêu, còn có các tổ <br />
hợp tương đương khác. Chẳng hạn để biểu thị hành động tự thiết lập tư thế ngồi, <br />
bên cạnh tổ hợp từ ngồi xuống còn có các tổ hợp từ như: ngồi lên, ngồi dậy, ngồi <br />
vào v.v... <br />
Ví dụ:<br />
Thái chưa kịp ngồi lên, nằm nguyên trong võng nghiêng đầu nhìn sang <br />
(Huỳnh Thế Phước, “Trở về”).<br />
<br />
51<br />
Minh ú ớ một lúc rồi mới lồm cồm ngồi dậy (Nguyễn Cao Thâm, “Đa <br />
mang”).<br />
Mọi người ngồi vào mâm rượu với sự uể oải (Nguyễn Tuân, “Vang bóng <br />
một thời”).<br />
2.2.2 Phương thức kết hợp ngữ cảnh<br />
Các ví dụ ở trên cho thấy mối liên kết giữa các thành tố trong các tổ họp từ <br />
này rất lỏng lẻo và cũng khá tùy tiện. Có lẽ nhờ vậy mà chúng có khả năng biến đổi <br />
rất linh hoạt trong từng ngữ cảnh cụ thể, đặc biệt là thành tố thứ hai (ra, vào, lên, <br />
xuống...) và cũng chính vì vậy mà trong một số trường hợp chúng (thành tố thứ hai) <br />
có thể không xuất hiện.<br />
Ví dụ: <br />
Em ngồi cái ghế này có đệm êm và ấm hơn – Chương bảo Tuyết (Khái <br />
Hưng Nhất Linh, “Đời mưa gió”) (1).<br />
Dạ... mời anh ngồi ! Thảo nói với Hùng (Chu Lai, “Phố”) (2).<br />
Đức kéo ghế ngồi cạnh chị Kim (Trần Quốc Khải, “Mối tình của người con <br />
trai đạp xích lô”).<br />
Động tư ngồi trong các ví dụ vừa nêu được ngầm hiểu là ngồi xuống tức là <br />
hành động tự thiết lập tư thế chứ không phải là tư thế ngồi. Hay nói cách khác, động <br />
từ ngồi ở đây được dùng để biểu thị một hành động chứ không phải là một trạng <br />
thái.<br />
Như vậy, trong trường hợp có sự hỗ trợ của ngữ cảnh thì thành tố thứ hai có <br />
thể được lược bớt nhưng chức năng định danh của tổ hợp từ không bị ảnh hưởng. <br />
Điều này được giải thích trước hết bởi cấu trúc ngữ nghĩa của các tổ hợp từ được <br />
dùng để biểu thị các hành động tự thiết lập tư thế. Kết quả phân tích cho thấy, trong <br />
cấu trúc ngữ nghĩa của mỗi tổ hợp từ này đều có chứa hai nghĩa tố cơ bản, đó là vận <br />
động và tư thế (như là kết quả cuối cùng của vận động). Nghĩa tố tư thế được hàm <br />
chứa trong cấu trúc ngữ nghĩa của các động từ chỉ tư thế (đứng, quỳ, ngồi, nằm). <br />
Nghĩa tố vận động được hàm chứa trong cấu trúc ngữ nghĩa của các động từ vận <br />
động chỉ hướng ( ra, vào, lên, xuống...) và cũng chính nghĩa tố này đã làm cho các <br />
động từ chỉ tư thế, vốn dùng để biểu thị trạng thái, chuyển sang biểu thị hành động.<br />
Như vậy, các động từ đứng, quỳ, ngồi, nằm được hiểu là hành động tự thiết <br />
lập tư thế khi, và chỉ khi chúng được bổ sung thêm nghĩa tố vận động (hay còn gọi là <br />
nét nghĩa “động” để đối lập với nét nghĩa “tĩnh”). Vì vậy, để có nét nghĩa “động” <br />
các động từ chỉ tư thế phải kết hợp với các động từ vận động chỉ hướng. Kết quả là <br />
ta có các tổ hợp từ bao gồm các động từ chỉ tư thế kết hợp với các động từ vận động <br />
<br />
<br />
52<br />
chỉ hướng mà cấu trúc ngữ nghĩa của từng tổ hợp bao giờ cũng hàm chứa đầy đủ cả <br />
nghĩa tố tư thế lẫn nghĩa tố vận dộng.<br />
Trở lại các ví dụ trên chúng ta thấy, động từ ngồi được dùng trong trường <br />
hợp không kết hợp với các động từ vận động chỉ hướng nhưng vẫn được hiểu là <br />
hành động tự thiết lập tư thế ngồi là vì nó đã được bổ sung nét nghĩa “động” từ ngữ <br />
cảnh. Xét ngữ cảnh chúng ta thấy, trong các câu vừa nêu đều chứa tiền giả định là <br />
chủ thể không phải đang ở trong tư thế ngồi. Do vậy, động từ ngồi trong câu (1) và <br />
câu (2) được hiểu là chủ thể được yêu cầu (mời, khuyên) tự thiết lập tư thế ngồi, <br />
còn trong câu (3) hành động “kéo ghế” là đấu hiệu báo trước chủ thể sắp thực hiện <br />
hành động tự thiết lập tư thế ngồi. Như vậy, động từ ngồi ở đây không nên hiểu là <br />
tư thế mà phải được hiểu là hành động tự thiết lập tư thế.<br />
2.2.3. Phương thức hỗn hợp<br />
Cũng tương tự như vậy, các động từ đứng, quỳ, ngồi, nằm trong các câu sau <br />
đây được hiểu là hành động tự thiết lập tư thế của người trong không gian.<br />
<br />
Ví dụ:<br />
Ông (Đồ Khang) lần ra đầu ngõ, lặng lẽ đứng giữa sương giá (Lê Lựu, “Thời <br />
xa vắng”).<br />
Khăn áo chỉnh tề, Hoài Văn bước lên đàn cao, quỳ trước hương án (Bùi Văn <br />
Nguyên, “Truyện danh nhân”). <br />
Chị (Tư Thơm) lặng lẽ làm cơm, tắm rửa cho các cháu, sau đó chốt cửa lên <br />
giường ngồi (Nguyễn Cao Thâm, “Đa mang”).<br />
Nàng (Nga) ôm đầu, trống ngực thình thịch rồi lên giường nằm (Nguyễn <br />
Công Hoan, “Lá ngọc cành vàng”).<br />
Xét các ví dụ vừa nêu chúng ta thấy các động từ đứng, quỳ, ngồi, nằm không <br />
trực tiếp kết hợp với các động từ vận động chỉ hướng để tạo nên các tổ hợp từ như <br />
đã trình bày ở trên. Tuy nhiên, các động từ này cũng được hiểu là hành động tự thiết <br />
lập tư thế bởi vì xét toàn câu (ngữ cảnh) chúng ta dễ dàng nhận thấy trong mỗi câu <br />
đều có các động từ chuyển động đi trước (lần ra, bước lên, lên...). Các động từ này <br />
một mặt, tiền giả định rằng chủ thể chưa thiết lập tư thế, mặt khác, chúng cung cấp <br />
cho các động từ đằng sau chúng (đứng, quỳ, ngồi, nằm), vốn dùng chỉ tư thế, nét <br />
nghĩa “động” làm cho các động từ này biến nghĩa và chuyển qua biểu thị hành động <br />
tự thiết lập tư thế.<br />
3. Từ những phân tích và trình bày trên đây có thể rút ra các phương thức biểu <br />
đạt hành động tự thiết lập tư thế cơ bản của người dưới dạng tổng quát như sau:<br />
3.1. Động từ chỉ tư thế + động từ vận động chỉ hướng.<br />
53<br />
3.2. Động từ chỉ tư thế + ngữ cảnh.<br />
3.3. Động từ chuyển động + động từ chỉ tư thế.<br />
Tóm lại, để biểu đạt hành động tự thiết lập tư thế của người, trong tiếng <br />
Việt có ba phương thức biểu đạt cơ bản như đã nêu. Mặc dù chúng không đồng nhất <br />
về cấu trúc, thành phần cũng như phương thức biểu đạt, nhưng chúng đều biểu hiện <br />
cùng một chức năng địng danh, đó là biểu thị hành động tự thiết lập tư thế của người <br />
trong không gian.<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1. Diệp Quang Ban. Ngữ pháp tiếng Việt phổ thông, Nxb Giáo dục, Hà Nội, <br />
1996.<br />
2. Lê Biên. Từ loại tiếng Việt hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998.<br />
3. Đỗ Hữu Châu. Cơ sở ngữ nghĩa từ vựng, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998.<br />
4. Nguyễn Lai. Nhóm từ vựng chỉ hướng vận động trong tiếng Việt, Hà Nội, <br />
1990.<br />
5. Siewierska A. Functional Grammar, Chaper 3, “ States of affairs and <br />
semantic functions”, 1991. <br />
<br />
<br />
<br />
<br />
54<br />
TÓM TẮT<br />
1. Đối chiếu tiếng Việt với tiếng Nga chúng tôi thấy, khác với tiếng Nga trong tiếng <br />
Việt không có các động từ chuyên dụng biểu thị hành động tự thiết lập tư thế của người, mà <br />
thay vào đó là các động từ chỉ tư thế (đứng, quỳ, ngồi, nằm) với các phương thức biểu đạt <br />
khác nhau.<br />
Nhiệm vụ và phạm vi của bài viết này là khảo sát và nghiên cứu các phương thức <br />
biểu đạt hành động tự thiết lập tư thế cơ bản của người trong không gian.<br />
2. Để làm rõ khái niệm hành động tự thiết lập tư thế, trước tiên chúng tôi muốn đề <br />
cập đến mối quan hệ giữa tư thế và hành động tự thiết lập tư thế của người.<br />
Nghiên cứu cho thấy, tư thế và hành động tự thiết lập tư thế, là hai sự thể (States of <br />
affairs) khác nhau, nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Thực tế cho thấy, mỗi tư thế <br />
của chủ thể có được bao giờ cũng là kết quả của hành động tự thiết lập tư thế. Mặt khác, <br />
trước khi thực hiện hành động tự thiết lập tư thế, chủ thể bao giờ cũng đang ở trong một tư <br />
thế nhất định. Như vậy hai sự thể này luôn nằm trong thế đối lập giữa hành động và trạng <br />
thái giữa nguyên nhân và kết quả, giữa động và tĩnh.<br />
3. Khảo sát cho thấy, trong tiếng Việt, để biểu thị thị hành động tự thiết lập tư thế <br />
của người có các phương thức biểu đạt sau:<br />
3.1. Phương thức tổ hợp từ: Động từ chỉ tư thế kết hợp với động từ vận động chỉ <br />
hướng (đứng lên, ngồi xuống, quỳ xuống, nằm vào ...).<br />
3.2. Phương thức ngữ cảnh: Động từ chỉ tư thế kết hợp với ngữ cảnh (“kéo ghế <br />
ngồi”, “mời ngồi”, “trải chiếu nằm” ...).<br />
3.3. Phương thức hổn hợp: Động từ chỉ tư thế kết hợp với động từ chuyển động đi <br />
trước chúng (lên.....nằm, ra..... ngồi, vào..... quỳ, đến ... đứng v.v...) <br />
<br />
WAYS OF EXPRESSING THE ACTION OF FORMING <br />
PERSON’S POSITION IN VIETNAMESE<br />
<br />
Nguyen Tinh<br />
College of Pedagogy, Hue University<br />
<br />
SUMMARY<br />
<br />
1. Comparing Vietnamese with Russian, we discover that in Vietnamese, there are no <br />
particular verbs that express the action of forming preson’s positions but verbs of stand (đứng), <br />
knee (quỳ), sit (ngồi), lie (nằm) expressed with different meaning ways. This article is an <br />
attempt to examine and study the ways mentioned above.<br />
<br />
<br />
55<br />
2. To make the notion of action of forming person’s position clear, first, we would like <br />
to mention to the relationship between position and action of forming person’s position. They <br />
are the two different states of affairs, but be closely related to each other.<br />
The fact shows that the position of actor is the result of the forming position action. <br />
Moreover, before forming position, actor is always in a certain position. So these two states of <br />
affairs are in the opposition of cause and consequence, of state and action and of motion and <br />
non motion.<br />
3. In Vietnamese language, there are ways of expressing the action of forming person’s <br />
position as folows:<br />
3.1. Verbs expressing position combine with verbs of directional movement (đứng lên, <br />
ngồi xuống, quỳ xuống, nằm vào...).<br />
3.2. Verbs expressing position are helped with the context (“m ời ng ồi”, “kéo ghế <br />
ngồi”, “trải chiếu nằm” ...).<br />
3.3. Verbs expressing position are supported with verbs of directional movement <br />
standing just before them (lên ..... nằm, ra ..... ngồi, vào ..... quỳ, đến ..... đứng, etc...).<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
56<br />