intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

HEN PHẾ QUẢN (ASTHMA)

Chia sẻ: Nuyen Uyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:28

121
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Hen phế quản là một rối loạn viêm mãn tính, được đặc trưng bởi sự tắc nghẽn các tiểu phế quản (bronchiolar obstruction) và sự hẹp lại của các đường hô hấp, gây nên bởi sự co thắt cơ trơn do tăng hoạt, những thâm nhiễm tế bào, và sự sản xuất niêm dịch. - Hen phế quản được xếp loại “nhẹ từng cơn” (mild intermittent), “nhẹ kéo dài” (mild persistent), “trung bình” (moderate), hay “nghiêm trọng” (severe), căn cứ trên tần số và độ nghiêm trọng của các triệu chứng, trên sự ảnh hưởng lên chức năng hô...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: HEN PHẾ QUẢN (ASTHMA)

  1. HEN PHẾ QUẢN (ASTHMA) 1/ HEN PHẾ QUẢN LÀ GÌ ? VÀ ĐƯỢC XẾP LOẠI NHƯ THẾ NÀO ? - Hen phế quản là một rối loạn viêm mãn tính, được đặc trưng bởi sự tắc nghẽn các tiểu phế quản (bronchiolar obstruction) và sự hẹp lại của các đường hô hấp, gây nên bởi sự co thắt cơ trơn do tăng hoạt, những thâm nhiễm tế bào, và sự sản xuất niêm dịch. - Hen phế quản được xếp loại “nhẹ từng cơn” (mild intermittent), “nhẹ kéo dài” (mild persistent), “trung bình” (moderate), hay “nghiêm trọng” (severe), căn cứ trên tần số và độ nghiêm trọng của các triệu chứng, trên sự ảnh hưởng lên chức năng hô hấp, và sự cần thiết phải điều trị. Nói chung, tần số và độ nghiêm trọng của các cơn đột phát thay đổi. Tuy nhiên, những bệnh
  2. nhân với bất cứ mức độ nghiêm trọng nào cũng đều có thể bị những cơn hen phế quản nặng, đe dọa đến tính mạng. 2/ MÔ TẢ TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG CỔ ĐIỂN CỦA HEN PHẾ QUẢN. - Tam chứng cổ điển gồm có ho, tiếng thở khò khè (wheezing), và khó thở. Những triệu chứng khác của hen phế quản gồm có viêm mũi, cảm giác lồng ngực bị siết chặt (chest tightness), hết hơi (breathlessness), và hồi lưu dạ dày-thực quản (gastroesophageal reflux). Mặc dầu không phải luôn luôn có một tương quan tốt với các triệu chứng, mức độ tắc nghẽn xác định độ nghiêm trọng của cơn bộc phát. Người mắc bệnh hen với những cơn tái phát thường có cảm giác khó thở bị giảm. - Những triệu chứng và dấu chứng của hen phế quản tương quan kém với mức độ tắt nghẽn luồng không khí. Hãy xét đến chẩn đoán hen phế quản nơi những bệnh nhân với bệnh sử thở khò khè tái diễn, hơi thở ngắn (shortness of breath), cảm giác lồng ngực bị siết chặt, ho (đặc biệt nặng hơn về đêm), không chịu được thể dục (exercise intolerance), hay các triệu chứng trầm trọng thêm khi tiếp xúc với một dị ứng nguyên như sự thay đổi thời tiết, các chất hoá học được mang bằng đường không khí,..
  3. 3/ HEN PHẾ QUẢN : “ KHÒ KHÈ HAY KHÔNG KHÒ KHÈ ” - Một cơn hen phế quản có thể xảy ra mà không cần có triệu chứng khò khè (wheezing). Tiếng thở khò khè được phát sinh do dòng khí lưu chuyển bị hỗn loạn và sự tắc nghẽn đường hô hấp xảy ra đồng thời. Những bệnh nhân có dòng khí ít luu chuyển do tắc nghẽn quan trọng, có thể không có triệu chứng thở khò khè. Một số các bệnh nhân, nhất là trẻ em hay người già có hen dạng ho (cough-variant asthma) và chỉ có triệu chứng ho và khó thở mà thôi - Triệu chứng khò khè không tỷ lệ với mức độ tắc nghẽn dòng khí, bởi vì một lồng ngực yên lặng có thể là dấu hiệu của dòng khí bị tắc nghẽn nghiêm trọng. 4/ CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT THỞ KHÒ KHÈ (WHEEZING) ? Bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (COPD : chronic obstructive pulmonary disease), suy tim sung huyết (CHF: congestive heart failure), hít vật lạ (foreign body aspiration), phản vệ (anaphylaxis), viêm nắp thanh quản (epiglottitis), viêm khí-phế quản (tracheobronchitis), bệnh đường hô hấp phản ứng (reactive airway disease), và hen phế quản.
  4. 5/ BÀN VỀ NHỮNG BỆNH LÝ QUAN TRỌNG “KHÔNG THỂ BỎ SÓT” TRONG CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT VÀ ĐÁNH GIÁ BAN ĐẦU NHỮNG BỆNH NHÂN CÓ CÁC TRIỆU CHỨNG HO, HƠI THỞ NGẮN HAY THỞ KHÒ KHÈ. - Cơn bộc phát hen phế quản. - Viêm phổi : Khò khè khu trú và thường được liên kết với sự sinh đờm. - Phù phổi : Sự gia tăng cấp tính áp lực tâm nhĩ trái có thể gây nên hẹp đường khí và tiếng khò khè ( “ hen tim ”, asthme cardiaque ) - Nghẽn mạch phổi (pulmonary embolism) : tiếng thở khò khè có thể xảy ra - Viêm phế quản cấp tính : tương tự với những triệu chứng viêm phế quản, các cơn bộc phát cấp tính hen phế quản có thể được biểu hiện bởi ho có đờm và khó thở, được liên kết với sự viêm cấp tính của niêm mạc phế quản. Tuy nhiên, nơi những bệnh nhân với hen phế quản, chẩn đoán viêm phế quản cấp tính là thiếu sót, và điều trị không thích ứng (kháng sinh) và không hiệu quả.
  5. - Tắc nghẽn cơ học đường hô hấp trên : Hãy xét đến khi bệnh nhân có triệu chứng khó thở, thở rít kỳ thở vào, và tiếng thở khò khè khắp phế trường, mạnh nhất ở cổ. 6/ NHỮNG KHÍA CẠNH NÀO CỦA BỆNH SỬ QUAN TRỌNG ĐỐI VỚI CƠN KỊCH PHÁT HEN PHẾ QUẢN ĐANG XẢY RA ? Hãy đặt các câu hỏi về sự tiếp xúc của bệnh nhân đối với các tác nhân thông thường làm phát khởi cơn bộc phát hen phế quản, như nhiễm trùng đường hô hấp trên do virus, các dị ứng nguyên, khí lạnh, thể dục, và dùng aspirin hay AINS. Cũng quan trọng là thời gian và độ nghiêm trọng của các triệu chứng, tiền sử và tần số các đợt bộc phát đột ngột, những nhập viện trước đây và thông nội khí quản, số lần đến khám cấp cứu mới đây, thuốc đang dùng, các triệu chứng nặng dần trong khi đang d ùng hoặc khi ngừng corticosteroids, và những bệnh lý kèm theo khác. 7/ NHỮNG YẾU TỐ NÀO ĐÓNG MỘT VAI TRÒ TRONG NHỮNG CƠN BỘC PHÁT HEN PHẾ QUẢN Khoảng 20-30% những người mắc bệnh hen phế quản đến phòng cấp cứu cần phải được nhập viện. Những yếu tố khởi động thông thường nhất là những nhiễm trùng đường hô hấp trên do virus, đặc biệt là rhinovirus. Tuy
  6. nhiên, những nhiễm trùng với những tác nhân gây bệnh đường hô hấp khác, như influenza, parainfluenza, respiratory syncitial virus, adenovirus, và Mycoplasma pneumoniae và Chlamydia pneumoniae cũng có thể gây nên những cơn bộc phát. Những tác nhân khởi động khác gồm có các dị ứng nguyên (ví dụ animal dander, bụi nhỏ, con gián, phấn hoa, nấm mốc), việc không tuân thủ điều trị thuốc men, thể dục, khí lạnh, những t ình huống căng thẳng, AINS, những tác nhân kích thích nghề nghiệp, và hồi lưu dạ dày-thực quản. 8/ NHỮNG YẾU TỐ NÀO XÁC ĐỊNH MỨC ĐỘ NGHIÊM TRỌNG CỦA CƠN HEN PHẾ QUẢN ? Độ nghiêm trọng của cơn hen phế quản tùy thuộc vào nhiều yếu tố, gồm có tuổi tác, mức độ nghiêm trọng của bệnh hen cơ bản, những bệnh lý nội khoa xảy ra đồng thời, nơi và độ nghiêm trọng của nhiễm trùng, và tác nhân gây nhiễm đặc hiệu. 9/ NHỮNG LOẠI NHIỄM TRÙNG NÀO ĐÓNG MỘT VAI TRÒ TRONG SỰ BỘC PHÁT CỦA HEN PHẾ QUẢN ? Chứng cớ chắc chắn xác nhận những nhiễm trùng đường hô hấp trên gây nên bởi virus và Mycoplasma pneumoniae như là những tác nhân quan
  7. trọng làm bộc phát cơn hen phế quản. Sự liên kết này đặc biệt rõ rệt nơi trẻ em. Respiratory syncytial virus, parainfluenza, influenza A, rhinovirus, và adenovirus cũng có can dự vào. 10/ NHỮNG NHIỄM TRÙNG DO VI KHUẨN CÓ ĐÓNG MỘT VAI TRÒ TRONG SỰ BỘC PHÁT CỦA HEN PHẾ QUẢN ? Những nhiễm trùng do vi khuẩn của đường hô hấp, ngoại trừ các tác nhân gây bệnh của viêm xoang mãn tính, thường không liên kết với các cơn bộc phát của hen phế quản, nhưng chúng có thể là một nguyên nhân quan trọng gây bộc phát nơi những bệnh nhân với bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (COPD), trong đó sự co thắt phế quản (bronchospasm) được khởi động bởi những kích thích dị ứng. Do những mối tương quan này, liệu pháp kháng sinh, mặc dầu thường được sử dụng trong các cơn bộc phát hen phế quản nơi người lớn và trẻ em, nhưng thường không đưa đến sự giảm các triệu chứng. Trong những trường hợp như thế, điều quan trọng hơn là gia tăng liều lượng corticosteroids hít. 11/ MỘT BỆNH NHÂN 22 TUỔI CÓ NHỮNG TRIỆU CHỨNG HEN SAU KHI CHƠI BASKETBALL. VÌ SAO ?
  8. Bệnh nhân này có thể bị hen phế quản do hoạt động vật lý (EIA : exercise-induced asthma). Trong trường hợp điển hình, sự co thắt khí quản bắt đầu sau khi ngừng thể dục và thường tối đa 3-12 phút sau đó. Mức độ nghiêm trọng thay đổi nhưng hầu như luôn luôn ngắn hạn. 12/ CHỈ DẤU LÂM SÀNG HỮU ÍCH NHẤT CỦA CO THẮT PHẾ QUẢN ? - Sự đo lường chính xác nhất của sự co thắt phế quản (bronchoconstriction) là phép đo thông khí (spirometry) bằng phế dung kế (spirometer), để xác định thể tích thở ra tối đa giây (FEV1: forced expiration volume in 1 second hay volume maximal expiré dans une seconde : VEMS, là số lít tối đa thở ra được trong một giây đầu) hay lưu lượng đỉnh (peak expiratory flow rate : PEFR hay PEF hay PF hay débit expiratoire de pointe : DEP). Hãy tính tỷ lệ bách phân của gắng sức cá nhân tốt nhất ha y được dự kiến (percent predicted or best personal effort). Các đợt kịch phát hen phế quản có thể được chia làm 3 loại : (1) nhẹ (PEFR > hoặc =80%), (2) trung bình (PEFR : 50% đến 80%), và (3) nghiêm trọng (PEFR < hoặc = 50%). FEV1 hay PEFR nên được thực hiện lúc bệnh nhân đến phòng cấp cứu và sau điều trị ban đầu để xác định nhu cầu cần liệu pháp tích cực hơn hay nhập viện.
  9. - phép đo thông khí (spirometry) thường được sử dụng để xác định độ nghiêm trọng của sự tắc nghẽn dòng khí và sự hiệu quả của trị liệu bằng cách đo FEV1 và PEFR. Đo FEV1 và PEFR đánh giá sự đáp ứng của điều trị và có thể được sử dụng để tiên liệu sự cần nhập viện. 13/ NHỮNG THĂM DÒ CHẨN ĐOÁN NÀO NÊN ĐƯỢC THỰC HIỆN ĐỂ ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ NGHIÊM TRỌNG CỦA MỘT CƠN HEN ? Sự đánh giá dòng khí (air flow), thường được thực hiện bằng cách kiểm tra lưu lượng đỉnh (PEF) bằng một lưu lượng đỉnh kế (peak flow meter), là phương pháp nhanh nhất và dễ dàng nhất để đánh giá mức độ nghiêm trọng của một cơn hen phế quản. Sự tắc nghẽn đường khí có thể đảo ngược, cũng có thể được chứng minh bằng cách đo thể tích thở ra tối đa giây (FEV1). Đo nhiều lần giúp các nhà lâm sàng đánh giá sự đáp ứng với điều trị và giúp tránh được những nhập viện không cần thiết hoặc cho xuất viện sớm. Tắc nghẽn đường khí được chỉ rõ bởi sự giảm FEV1 và sự giảm tỷ suất FEV1/FVC, so với những trị số đối chiếu. Một sự gia tăng FEV1 sau điều trị giãn phế quản chỉ rõ tắc nghẽn có thể đảo ngược. Thực hiện những thủ thuật thở vào-thở ra tối đa tự nó có thể gây nên co thắt phế quản. Do đó, nơi
  10. những bệnh nhân bị một cơn cấp tính có vẻ nặng, khôn ngoan là đợi 1-2 giờ sau khi điều trị rồi mới thực hiện sự đo đầu tiên FEV1 hay PF. 14/ CÓ NHỮNG XÉT NGHIỆM HỮU ÍCH NÀO KHÁC NỮA KHÔNG ? Hầu hết các xét nghiệm, gồm cả khí máu động mạch (ABG, gazométrie) đều không hữu ích trong điều trị hen ngoại trừ những trường hợp suy hô hấp đang tiến triển hoặc sắp xảy ra. Một đếm máu toàn bộ có thể có ích nếu bệnh nhân sốt và có đờm. Nên đo nồng độ theophylline nếu bệnh nhân đang dùng theophylline, để loại bỏ ngộ độc thuốc. 15/ CÓ NÊN THỰC HIỆN KHÍ MÁU ĐỘNG MẠCH (ABG) KHI ĐÁNH GIÁ NHỮNG BỆNH NHÂN HEN PHẾ QUẢN VỚI NHỮNG TRIỆU CHỨNG CẤP TÍNH ? - Khí máu động mạch (ABG) hiếm khi cần thiết trong sự đánh giá ban đầu. Những bệnh nhân với các cơn nhẹ thường có giảm oxy-huyết nhẹ với mức độ bảo hòa oxy bình thường (Pa02, 66-69 mmHg), giảm thán huyết (hypocapnia) (PaC02, 33-36 mmHg), và nhiễm kiềm hô hấp (respiratory alcalosis). Lý do chính để đo khí máu động mạch (gazométrie) là để phát hiện sự ứ đọng C02 (tăng thán huyết, hypercapnia). Lưu lượng đỉnh (peak
  11. flow rate) là yếu tố tiên đoán tồi của tình trạng giảm oxy-huyết (hypoxemia) nhưng là một công cụ hữu ích để đánh giá sự tăng thán huyết (hypercapnia), thường chỉ xảy ra khi lưu lượng đỉnh (peak flow rate) hạ xuống dưới 25% của mức bình thường. Respiratory drive thường gia tăng trong các cơn hen phế quản, vì thế một trị số bình thường đối với PC02 có thể chỉ rõ sự tắc nghẽn luồng khí nghiêm trọng (FEV1 < 15-20% của trị số được dự kiến) và mệt cơ hô hấp. - Khí máu động mạch (ABG) có thể được sử dụng trong các cơn hen phế quản trung bình và nặng để đánh giá tình trạng tăng thán huyết (hypercapnia) và nhiễm toan hô hấp (respiratory acidosis). PC02 bình thường trong bối cảnh một cơn hen phế quản cấp tính là một dấu hiệu xấu và chỉ rõ sự tắc nghẽn và tình trạng mệt mỏi cực kỳ của đường hô hấp với khả năng khởi đầu suy hô hấp cấp tính. 16/ KHI NÀO THÌ NÊN CHỤP X QUANG NGỰC ? - Chụp X quang ngực có thể hữu ích nếu bệnh nhân không đáp ứng với điều trị ban đầu hoặc nếu nghi ngờ có biến chứng phổi, như tắc nghẽn do vật lạ, viêm phổi, tràn khí trung thất (pneumomediastinum), tràn khí màng phổi, hay suy tim sung huyết.
  12. - Chụp X quang ngực không được đòi hỏi khi đánh giá thường quy một bệnh nhân với cơn hen phế quản. Có thể có chỉ định nếu khám lâm sàng nghi ngờ nhiễm trùng hay khi có những chẩn đoán khả dĩ khác, như nghẽn mạch phổi (pulmonary embolism), tràn khí màng phổi (pneumothorax), hay suy tim. 17/ ĐIỀU TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA HEN PHẾ QUẢN CẤP TÍNH Ở PHÒNG CẤP CỨU ? Những mục tiêu chính của phòng cấp cứu là ngăn ngừa tình trạng giảm oxy mô (hypoxia) và làm hủy bỏ sự co thắt tiểu phế quản (bronchiolar constriction). Nên cho bệnh nhân thở oxy (giữ Sa02 > hoặc = 90% đến 95%). Liệu pháp thuốc hít đồng vận β-2, hoặc bằng bình thuốc hít (aérosol- doseur hay MDI : metered-dose inhaler) hoặc bằng những dung dịch khí dung (aerosolized solutions), là trụ cột của điều trị hen phế quản cấp tính. Hít bằng bình thuốc hít Albuterol (Proventil), 2,5-5 mg mỗi 20 đến 30 phút x 3 liều hay khí dung liên tục trong 1 giờ, thường được sử dụng nhất để điều trị ban đầu những cơn có mức độ trung bình đến nặng. Albuterol ( hay salbutamol của Châu Âu) có tác dụng chọn lọc β-2 hơn, thời gian tác dụng dài hơn, và có ít tác dụng phụ hơn những thuốc đồng vận β-2 khác. Những công trình phân tích méta chứng tỏ lợi ích được gia tăng nơi người trưởng
  13. thành khi thêm bổ sung những thuốc hít anticholinergic vào điều trị chuẩn albuterol. Ipratropium bromide (Atrovent) dạng khí dung, 0,6 mg mỗi 20 đến 30 phút x 3 liều, trộn với thuốc đồng vận β-2, đã được chứng tỏ làm gia tăng chức năng phổi một cách vừa phải và làm giảm nhu cầu cần nhập viện. Atrovent (0,25mg) cũng đã được chứng tỏ hiệu quả trong trường hợp cấp tính nơi các trẻ em đến phòng cấp cứu. 18/ NHỮNG ƯU TIÊN ĐẦU TIÊN KHI ĐIỀU TRỊ MỘT BỆNH NHÂN VỚI MỘT CƠN ĐỘT PHÁT HEN PHẾ QUẢN ? Xử trí ban đầu đều giống nhau dầu yếu tố khởi động là yếu tố nào. Những bước đầu gồm có oxy, thuốc hít đồng vận β-2, và corticosteroids cho bằng đường toàn thân. Liều lượng và tần số thuốc được cho và sự đánh giá đáp ứng của bệnh nhân có thể thay đổi. Thuốc hít đồng vận β-2 với thời gian tác dụng ngắn nên được cho một cách nhanh chóng và thường đuợc cho bằng máy khí dung (nebulizer) (albuterol 2,5-5 mg trong 1,5-2 mL muối đẳng trương) mỗi 20 phút trong giờ đầu và mỗi giờ sau đó, cho đến khi có sự cải thiện. Đối với những cơn nghiêm trọng, một tác nhân anticholinergic (0,5mg ipratropium bromide) nên được thêm vào trong thuốc hít khí dung đồng vận β-2. Đối với những cơn từ trung bình đến nặng không hoàn toàn đáp ứng với điều trị ban đầu, hãy tiến hành cho corticosteroid bằng đường
  14. miệng (40-60 mg prednisone mỗi ngày), được cho bằng những liều duy nhất hay chia ra nhiều lần, trong 3-7 ngày. Mặc dầu steroids chỉ có tác dụng trong ít nhất 6 giờ, nhưng chúng đã được chứng tỏ làm giảm tỷ suất nhập viện. Cả prednisone và methylprednisone đều được hấp thụ tốt khi được cho bằng đường miệng, vì vậy cho bằng đường tĩnh mạch là không cần thiết. Methylxanthine (ví dụ theophylline) không còn được khuyên dùng trong cơn hen bộc phát cấp tính nữa bởi vì dường như chúng không thêm lợi ích cho liệu pháp thuốc hít đồng vận β-2 và có thể làm gia tăng những tác dụng phụ. Để kiểm soát lâu dài hen phế quản với mức độ nhẹ kéo dài hay nặng hơn, các thuốc thay thế cho thuốc hít steroids gồm có các chất biến đổi leukotriene như zafirlukast (Accolate) hay zileuton (Zyflo) hay, ít được ưa thích nhất, theophylline có tác dụng kéo dài ở nồng độ 5-10 mcg/mL. Những thử nghiệm mới đây cho bằng cớ sơ khởi rằng sự phong bế thụ thể leukotriene có thể là một liệu pháp có hiệu quả đối với hen phế quản cấp tinh nơi người trưởng thành. 19/ NHƯNG THUỐC LÀM GIẢM TRIỆU CHỨNG ĐƯỢC DÙNG ĐỂ ĐIỀU TRỊ CO THẮT PHẾ QUẢN 1/Thuốc đồng vận β-2 tác dụng ngắn (SABA: Short-Acting beta-2 agonist)
  15. Albuterol (Proventil) (US) hay Salbutamol (Ventolin) (Châu Âu) : 2-4 puffs mỗi 4-6 giờ khi có triệu chứng hay trước khi thể dục hay 4 puffs mỗi 10-20 phút trong 3 giờ đối với những cơn đột phát hen phế quản. Fénotérol (Berotec) Terbutaline ( Brethine, Brethaire, Bricanyl) : 2-4 puffs mỗi 4-6 giờ khi có triệu chứng ; 5mg, đường miệng, 3 lần mỗi ngày (nơi người trưởng thành) Pirbuterol (Maxair) Metaproterenol (Alupen) 2/Thuốc đồng vận β-2 tác dụng dài Salmeterol (Serevent) : 2 puffs : 1-2 lần mỗi ngày Formoterol (Foradil) 3/ Methylxanthines Theophylline (Theodur) : 100-400 mg, đường miệng, hai lần mỗi ngày 4/ Anticholinergics
  16. Ipratropium bromide (Atrovent) : 500mcg cho mỗi 20 phút trong 1-3 giờ (được cho với albuterol khí dung) ; 4 puffs ipratropium (20mcg mỗi puff) mỗi 10-20 phút trong 3 giờ đối với các cơn bộc phát cấp tính hen phế quản, 2-4 puffs nếu cần. 20/ NHỮNG THUỐC NÀO CÓ THỂ ĐƯỢC SỬ DỤNG NƠI NHỮNG BỆNH NHÂN KHÔNG THỂ CHỊU ĐƯỢC CÁC THUỐC GIÃN PHẾ QUẢN DẠNG KHÍ DUNG ? - Tiêm dưới da terbutaline (Bricanyl) hay epinephrine có thể hữu ích. Terbutaline (0,25mg), một thuốc đồng vận β-2, có thời gian tác dụng kéo dài, có thể tiêm mỗi 20 phút, cả thảy 3 liều. Epinephrine, với những tác dụng alpha-adrenergic và bêta-adrenergic, có nguy cơ gia tăng gây những tác dụng có hại và nên tiêm dung dịch 1/1000, 0,2-0,5 ml mỗi 20 đến 30 phút, tổng cộng 3 liều. - Terbutaline sulfate (0,25-0,5 ml) hay epinephrine 1/1000 (0,1- 0,3 ml) tiêm dưới da trong các cơn đột phát trung bình đến nghiêm trọng, miễn là bệnh nhân không có nguy cơ bị bệnh tim.
  17. - Từ lâu một vị trí ưu tiên đã được dành cho salbutamol (Ventolin) và terbutaline (0,5mg), tiêm dưới da. Tuy vậy, đường dưới da ít hiệu quả hơn là đường hít. - Salbutamol (hay terbutaline), cho bằng đường tĩnh mạch với seringue điện là một phương thức thường được sử dụng ưu tiên hai. Ít có công trình nghiên c ứu chuẩn y sự sử dụng này. Được đề nghị khi không có cải thiện với điều trị bằng khí dung, salbutamol được cho với liều lượng quan trọng và điều trị liên tục. Cần theo dõi sát với monitoring tim mạch bởi vì những tác dụng phụ khi cho bằng đường tĩnh mạch là quan trọng. 21/ KHI NÀO NÊN CHO CORTICOSTEROIDS ? - Điều trị sớm bằng corticosteroids hiện nay được xem như là một phần của điều trị ban đầu của các cơn hen phế quản, mặc dầu vẫn còn tranh cải về hiệu quả của nó trong khung cảnh cấp tính. Nói chung, những bệnh nhân không đáp ứng tốt với điều trị ban đầu hay bất cứ bệnh nhân nào đã được cho steroids bằng đường hít hay tiêm, nên được cho một liều khởi đầu prednisone (40 đến 60 mg) hay methylprednislone (60 đến 125 mg) bằng đường tĩnh mạch. Liều lượng steroids khởi đầu đối với trẻ em là 1mg/kg. Với những liều lượng tương đương, steroids cho bằng đường tĩnh mạch hay đường miệng đều có hiệu quả như nhau, và khởi đầu tác dụng đòi hỏi từ 6
  18. đến 24 giờ. Sự đánh giá điều trị corticosteroids không cho thấy sự cải thiện tức thời và không ảnh hưởng lên các quyết định nhập viện bệnh nhân. Corticosteroids hít với liều lượng cao có thể có một lợi ích nào đó trong cơn cấp tính và có thể được tiếp tục một cách an toàn bởi những bệnh nhân đang được điều trị với steroids hít. - Steroids nên được cho ngay nơi những bệnh nhân có những cơn nghiêm trọng và nơi những bệnh nhân đang dùng hoặc vừa mới dùng những thuốc này. Liều lượng tối ưu mỗi ngày tương đương với 60-180 mg prednisone, với một liều khởi đầu tương đương 40-80mg prednisone. Nếu bệnh nhân không uống được thì có thể tiêm tĩnh mạch methylprednisolone 60-120mg. Những liều lượng bổ sung có thể được cho mỗi 4-6 giờ. Steroids hít rất hữu ích trong điều trị hen mãn tính nhưng không nên sử dụng để điều trị những triệu chứng cấp tính. 22/ SỰ SỬ DỤNG MAGNESIUM SULFATE CÓ HIỆU QUẢ TRONG VIỆC ĐIỀU TRỊ HEN PHẾ QUẢN CẤP TÍNH KHÔNG ? - Magnesium, lúc kết hợp với điều trị chuẩn, có thể giúp làm đảo ngược sự co thắt phế quản, nơi người trưởng thành và trẻ em với hen phế quan cấp tính nặng. Những liều lượng 2-3 g MgSO4 tiêm tĩnh mạch đối với người trưởng thành và 20-25mg/kg đối với các trẻ em, dường như an toàn và
  19. có lợi đối với những bệnh nhân với PEFR (peak expiratory flow rate) = 25% hay nhỏ hơn. Magnesium tiêm tĩnh mạch không nên được sử dụng trong trường hợp những cơn bộc phát mức độ nhẹ đến trung b ình bởi vì những tác dụng có hại hơn là những tác dụng có lợi. Một sự cải thiện chức năng p hổi nào đó đã được nhận thấy với MgS04 đẳng trương dưới dạng khí dung, có thể được dùng phối hợp hay không với albuterol khí dung. - Magnesium sulfate (1-2 g tiêm tĩnh mạch trong 30 phút) có thể được sử dụng để điều trị hen phế quản nặng, do tác đúng làm giãn phế quản của Mg.Tuy nhiên hiện nay thuốc này không được khuyên sử dụng trong trường hợp cơn nhẹ hoặc trung bình và không nên dùng để thay thế điều trị chuẩn. 23/ NHỮNG THUỐC NÀO KHÔNG ĐƯỢC KHUYÊN DÙNG ? - Methylxanthines, như aminophylline tiêm tĩnh mạch và theophylline bằng đường miệng, thường không được khuyên dùng để điều trị cấp tính bệnh nhân hen phế quản ; tuy nhiên, chúng có thể được sử dụng nơi bệnh nhân được nhập viện hay đòi hỏi điều trị hen dài lâu. Các kháng sinh không được khuyên dùng trừ khi bệnh nhân sốt và ho ra đờm. Những thuốc không được khuyên dùng khác gồm có các thuốc an thần (sedatives) hay các thuốc giải ưu (anxiolytics). Những thuốc này có thể làm giảm tần số hô hấp một
  20. cách nguy hiểm, và các thuốc làm tiêu niêm dịch (mucolytics) không được chứng tỏ là có hiệu quả. - Trừ trường hợp đặt ông thông nội khí quản, các thuốc an thần, các thuốc ngủ, và những thứ thuốc làm giảm kích thích hô hấp khác thường bị chống chỉ định dùng. Vai trò của methylxanthines không được thừa nhận. Các bêta-blockers có thể làm tăng thêm co thắt phế quản. Các antihistamines và các chất chống sung huyết (decongestants) cũng nên tránh sử dụng bởi vì chúng làm giảm khả năng thanh lọc các chất dịch hô hấp. Các thuốc làm tiêu niệm dịch (mucolytics) có thể làm co thắt phế quản thêm nữa. Các chất biến đổi dưỡng bào (mast cell) hay leukotriene không có vai trò trong điều trị cơn hen bộc phát. 24/ NẾU BỆNH NHÂN TIẾP TỤC NẶNG THÊM MẶC DẦU ĐIỀU TRỊ CHUẨN VỚI THUỐC BẰNG ĐƯỜNG TOÀN THÂN VÀ HÍT, PHẢI LÀM GÌ ? - Các phương pháp không xâm nhập đối với những bệnh nhân nguy kịch gồm có sử dụng heliox, CPAP (continous positive airway pressure), và ketamine cho bằng đường tĩnh mạch. Heliox (một hỗn hợp helium và oxygen) làm giảm lượng xoáy trong đường hô hấp bị tắt, cho phép làm giảm công thở (work of breathing) và làm gia tăng PEEP. Không phải tất cả các
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2