JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE<br />
Social Sci., 2016, Vol. 61, No. 2, pp. 39-45<br />
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br />
<br />
DOI: 10.18173/2354-1067.2016-0007<br />
<br />
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI DÂN LAO ĐỘNG VÀ CUỘC SỐNG XÃ HỘI<br />
TRONG VĂN CHƯƠNG TÁC GIẢ NHÀ NHO ẨN DẬT<br />
Lê Văn Tấn<br />
<br />
Khoa Việt Nam học, Học viện Khoa học Xã hội, Viện Hàn lâm Việt Nam<br />
Tóm tắt. Tác giả nhà nho sĩ ẩn dật là một loại hình tác giả độc đáo, không chỉ là sản phẩm<br />
của văn hoá, văn học Việt Nam nói riêng mà còn của cả khu vực Đông Á nói chung. Việc<br />
từ quan quy ẩn ở họ chứa đựng nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau, tuỳ<br />
từng hoàn cảnh xã hội cụ thể, hoàn cảnh cá nhân và thân phận mỗi nho sĩ. Những tên tuổi<br />
có thể nhắc tới như Chu Văn An, Trần Nguyên Đán, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm,<br />
Ngô Thế Lân, Nguyễn Thiếp, Chu Doãn Trí, Nguyễn Khuyến... Từ sự lựa chọn con đường<br />
ẩn dật sẽ dẫn đến sự đổi thay mang tính đặc thù của quan niệm thẩm mĩ, hệ thống đề tài<br />
- chủ đề, hình tượng nghệ thuật trung tâm đến hệ thống thể loại và ngôn ngữ trong văn<br />
chương của loại hình tác giả này. Xét ở hệ thống hình tượng, ngoài hình tượng người ẩn<br />
dật, hình tượng thiên nhiên mà chúng tôi đã có dịp bàn đến trong những lần trước thì hình<br />
tượng người dân lao động và hình tượng cuộc sống xã hội qua con mắt của người ẩn dật<br />
cũng hiện lên khá sống động. Bài viết của chúng tôi bàn về vấn đề này.<br />
Từ khóa: Tác giả nhà nho ẩn dật, văn học Việt Nam, quan niệm thẩm mĩ, hình tượng nghệ<br />
thuật, người dân lao động, cuộc sống xã hội.<br />
<br />
1.<br />
<br />
Mở đầu<br />
<br />
Có một thực tế không thể phủ nhận là nhà nho với những quan niệm “bề trên” về vị trí<br />
của mình trong xã hội nên trong hầu hết sáng tác văn chương của họ, người dân lao động cũng<br />
như cuộc sống xã hội chưa được phản ánh nhiều và đúng mức [2-6]. Thực tế này sẽ dần có những<br />
chuyển biến ở các thời kì và càng về sau các tác giả càng tiếp cận gần hơn, sâu hơn đối với hai đối<br />
tượng phản ánh này. Khảo sát sáng tác của loại hình tác giả nhà nho ẩn dật chúng tôi nhận thấy,<br />
quan niệm, cách thức cũng như bút pháp thể hiện về hình tượng người dân lao động và cuộc sống<br />
xã hội vừa có những đặc điểm chung của văn chương tác giả nhà nho [9-10] song vẫn có những<br />
nét khu biệt lí thú. Đây là một phương diện còn được ít chú ý ở các nhà nghiên cứu đi trước.<br />
<br />
2.<br />
2.1.<br />
<br />
Nội dung nghiên cứu<br />
Hình tượng người dân lao động<br />
<br />
Như đã nói, chịu sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo, tác giả nhà nho nói chung, nhất là<br />
tác giả nhà nho hành đạo - trung nghĩa thường có quan niệm cao thượng về nhân cách và vị trí của<br />
Ngày nhận bài: 15/12/2015. Ngày nhận đăng: 10/3/2016<br />
Liên hệ: Lê Văn Tấn, e-mail: tanlv0105@gmail.com<br />
<br />
39<br />
<br />
Lê Văn Tấn<br />
<br />
mình trong cuộc sống, trong tương quan với người dân và xã hội. Họ đến với xã hội, với cuộc đời<br />
và với người dân lao động trong tư thế bề trên mà nói như nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn là một<br />
“vị thiên sứ” [9, 10] nên hình tượng người dân lao động trong văn chương của nho sĩ nói chung<br />
còn khá đơn điệu. Nhưng điều này sẽ có những khác biệt khi chúng tôi tiếp cận hệ thống sáng tác<br />
của nho sĩ ẩn dật. Nếu như sáng tác của những tác giả xuất hiện ở những giai đoạn đầu của quá<br />
trình hình thành và phát triển và đặc biệt là những nho sĩ tìm đường “lên núi” ẩn dật hoặc sống<br />
ở một không gian tách biệt với xã hội thì hình bóng người dân lao động khá mờ nhạt, vắng bóng,<br />
không có nhiều khác biệt so với sáng tác của nho sĩ hành đạo. Đó là sáng tác của Chu Văn An,<br />
Trần Nguyên Đán, Nguyễn Húc, Nguyễn Hãng, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Ngô Thế Lân,<br />
Nguyễn Thiếp, Nguyễn Huy Vinh. Nhiều nhất thì họ cũng chỉ nhắc đến người dân lao động để qua<br />
đó đánh giá về chính sự và thể hiện niềm mơ ước của họ về hạnh phúc cho người dân. Ví dụ:<br />
An dân tế vật chư công sự,<br />
Trạch bạn hành ngâm mạc tự cô.<br />
(Họa Hồng Châu kiểm chính vận)<br />
(Yên dân, giúp đời, sự nghiệp của các người/ Lang thang ca hát bên chằm, đừng cho mình<br />
là lẻ loi - Họa bài thơ của viên kiểm chính ở Hồng Châu - Trần Nguyên Đán) [2;202].<br />
Hoặc:<br />
Thập niên khiêu cúc dân vô chủ,<br />
Vạn lý quan hà địa hữu ngư.<br />
(Lục Niên thành hoài cổ)<br />
(Mười năm gian nan hiểm nguy dân không có chúa/ Muôn dặm núi sông, đất vốn có ngựa<br />
hay - Hoài cổ về thành Lục Niên - Nguyễn Thiếp) [396].<br />
Nguyễn Trãi cả một đời lo cho dân, cho sơn hà xã tắc, là một người mang tư tưởng lớn vượt<br />
thời đại “dĩ dân vi bản”, “phúc tru thuỷ tín dân do thuỷ”... Song trong thơ của ông, cả chữ Hán và<br />
chữ Nôm, mặc dù từ ‘dân” được nhắc đi nhắc lại khá nhiều lần nhưng cũng chỉ dừng lại ở những<br />
chiêm nghiệm và suy ngẫm, những khát vọng về hạnh phúc cho dân:<br />
Bốn dân nghiệp có cùng cao thấp,<br />
Đều hết làm tôi thánh thượng hoàng.<br />
(Tức sự, số 6) [1;38]<br />
Ngay cả đến Nguyễn Bỉnh Khiêm - một nho sĩ ẩn dật giữa làng quê song hình tượng người<br />
dân lao động cũng chưa phải là đối tượng mà ông hướng đến một cách mạnh mẽ. Trước hết, viết<br />
về người dân, ông cùng cảm thức với Nguyễn Trãi:<br />
Bão dân diệc túc tư thời dụng,<br />
Khẳng hướng sơn trù đấu Lão Tàn.<br />
(Dự thi)<br />
(Làm cho dân no cũng đủ giúp vào việc dùng đến hằng ngày/ Đâu có hướng về bếp ở núi<br />
mà ganh với Lão Tàn - Thơ vịnh cây khoai) [6;290].<br />
Nhiều hơn thì đó là hình tượng của những người dân lao động trong cảnh khốn khó, cũng<br />
quẫn, chia li loạn lạc do chiến tranh, do sự áp bức của phong kiến đương thời:<br />
Ô hoàng cổ thánh nhân,<br />
Giáo dĩ nghệ ngũ cốc.<br />
Phụ mẫu ngưỡng tư sự,<br />
Thê tử phủ sở dục.<br />
40<br />
<br />
Lớn lao thay vị thánh nhân đời xưa<br />
Dạy dân trồng cấy năm loài lúa<br />
Ngửa lên thì phụng sự cha mẹ<br />
Cúi xuống thì nuôi nấng vợ con<br />
<br />
Hình tượng người dân lao động và cuộc sống xã hội trong văn chương tác giả nhà nho ẩn dật<br />
<br />
Thạc thử hồ bất nhân,<br />
Thảo thiết tư âm độc...<br />
<br />
Con chuột lớn kia sao mày bất nhân<br />
Vụng trộm thêm nhiều âm mưu độc hại<br />
(Tăng thử - Ghét chuột)<br />
<br />
Với cách khắc họa hình tượng người dân lao động theo hướng khái quát và giàu suy ngẫm<br />
như thế, theo đánh giá của chúng tôi thì nho sĩ ẩn dật chưa thể xây dựng được một hình tượng nghệ<br />
thuật mang tính chân thực, sống động như chính thực tiễn cuộc sống của người dân thời bấy giờ.<br />
Nguyễn Dữ trong Truyền kì mạn lục cũng không nằm ngoài quy luật này. Tác giả không<br />
dành sự quan tâm của mình vào việc xây dựng hình tượng những người dân bình thường mà chủ<br />
yếu nhân vật của ông là tầng lớp trung gian và tầng lớp trên. Ở đó ta sẽ không thấy hình tượng cụ<br />
thể của người dân lao động mà chỉ thấp thoáng đâu đó một vài nét phác thảo về tình cảnh của nhân<br />
dân, của đời sống xã hội nói chung. Nội dung này chúng tôi sẽ bàn đến ở tiểu mục dưới đây.<br />
Chỉ đến sự xuất hiện cuối cùng của Nguyễn Khuyến, hình tượng người dân lao động đã<br />
được khắc họa một cách sống động và chân thực trong thơ ca ông. Nói như nhà nghiên cứu Vũ<br />
Thanh thì: “Nguyễn Khuyến đã bỏ lại sau lưng mình những tầm chương, trích cú, những vay mượn<br />
ồn ào, những vần thơ quý phái tẻ nhạt, đưa văn học về với cội nguồn dân tộc, với làng quê, với<br />
người nông dân nghèo khó vất vả” [7;30]. Dưới con mắt của Nguyễn Khuyến, người nông dân<br />
đồng bằng chiêm trũng Bắc Bộ nói chung và vùng Hà Nam quê hương ông hiện lên thật chân thực<br />
và cảm động. Đây là hình ảnh của những người bà con lối xóm của ông:<br />
Anh em làng xóm xin mời cả,<br />
Giò bánh, trâu heo cũng gọi là.<br />
Chú Láo bên người lên với tớ,<br />
Ông Từ ngõ chợ lễ cùng ta.<br />
(Lên lão) [5;152]<br />
Có lẽ đây là lần đầu tiên trong văn học, người nông dân được gọi tên cụ thể trong thơ.<br />
Không có được một tấm lòng, một tình cảm gắn bó thân thiết, hẳn thi nhân không thể viết được<br />
những câu thơ giản dị mà giàu tình đời đến thế.<br />
Chỗ khác, ông khắc họa hình tượng của một bà lão hàng xóm và một ông thợ cày với một<br />
vài nét đơn sơ:<br />
Thị phụ thừa bàn cung thục lệ,<br />
Điền ông phát cẩu mại tiên ngư.<br />
<br />
Bà hàng bưng đem biếu vải chín,<br />
Ông thợ cày dốc đó bán cho ta cá tươi<br />
(Hạ nhật - Ngày hè)<br />
<br />
Ngay khi có thời gian rảnh rỗi, ông chống gậy đến nhà thăm anh con ông cậu ruột là bác<br />
Đặng Tự Ý, viết thơ mừng anh họ lên bảy mươi hay thơ mừng anh vợ, chúc thọ cụ Nhiêu Chuồi<br />
tám mươi... Lời thơ ở đây hết sức chân tình:<br />
Ông bà tóc bạc nhà cao,<br />
Trời cho sức khoẻ thế nào là vui!<br />
Ông sinh được năm trai ba gái,<br />
Đều lớn khôn êm ái thất gia...<br />
(Mừng cụ Đặng Tự Ý bảy mươi tuổi)<br />
Bên cạnh đó, những người dân lao động thoái hoá biến chất trước thời buổi “nhố nhăng”<br />
(từ dùng của Trần Tế Xương) thì ông cực lực lên án. Ông viết thơ để châm biếm, đả kích họ vì hơn<br />
41<br />
<br />
Lê Văn Tấn<br />
<br />
bao giờ hết, với thi nhân, nghèo nhưng phải giữ được sự trong sạch, giữ được phẩm tiết của mình:<br />
Thiên hạ bao giờ cho hết đĩ,<br />
Trời sinh ra cũng để mà chơi...<br />
Mai sau ngày giỗ có văn nôm,<br />
Cha đời con đĩ cầu Nôm.<br />
(Đĩ cầu Nôm)<br />
Và trong thơ ông, còn biết bao nhiêu những người bà con, những người cùng làng, cũng xã,<br />
cùng tổng, bất cứ người nông dân nào cần đến ông, xin ông một lời khuyên, một đôi câu đối... ông<br />
đều sẵn lòng viết giúp. Qua ngòi bút của ông, có thể nói rằng, hình tượng người dân lao động đã<br />
hiện lên một cách hết sức cụ thể, sinh động với cả hai phương diện: tốt và xấu. Đây là một đóng<br />
góp hết sức quý giá của Nguyễn Khuyến đối với sáng tác của nho sĩ ẩn dật nói riêng và văn chương<br />
Việt Nam thời trung đại nói chung, nhất là trên ý nghĩa dần đưa văn học tiến gần hơn về phía hiện<br />
thực đời sống và tâm trạng của người dân lao động đương thời.<br />
<br />
2.2.<br />
<br />
Hình tượng cuộc sống xã hội<br />
<br />
Qua con mắt của một số nho sĩ ẩn dật, hình tượng cuộc sống xã hội cũng hiện lên khá độc<br />
đáo, với nhiều mảng màu sáng tối khác nhau. Đóng góp ở nội dung này là các tác giả Nguyễn Trãi,<br />
Nguyễn Dữ, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Ngô Thế Lân, Nguyễn Thiếp, Lê Hữu Trác, Nguyễn Huy Vinh<br />
và đặc biệt là Nguyễn Khuyến (trong thơ Chu Văn An, Trần Nguyên Đán, Nguyễn Húc, Nguyễn<br />
Hãng, hình tượng cuộc sống xã hội hầu như vắng bóng). Qua hình tượng cuộc sống xã hội, chúng<br />
ta có thể gián tiếp biết được thái độ chính trị của nhà văn - một lí do căn bản quyết định đến định<br />
hướng về phía ẩn dật ở họ.<br />
Trong thơ Nguyễn Trãi, hình tượng cuộc sống xã hội xuất hiện không nhiều. Song điều đáng<br />
lưu ý ở ông chính là, cuộc sống xã hội chủ yếu hiện lên với những gam màu sáng, bình dị, no ấm<br />
và hạnh phúc:<br />
Lao xao chợ cá làng ngư phủ,<br />
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.<br />
Với gam màu như thế, viết về cuộc sống xã hội, Nguyễn Trãi mơ ước một xã hội khá lí<br />
tưởng - một thứ lí tưởng phi hiện thực khiến ông bất mãn:<br />
Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,<br />
Dân giàu đủ khắp đòi phương.<br />
(Bảo kính cảnh giới, số 43)<br />
Cùng với mạch cảm xúc như thế này, Nguyễn Bỉnh Khiêm đem đến cho người đọc cái không<br />
khí của một buổi chợ quê:<br />
Cá tôm hôm chác bên kia bến,<br />
Củi đuốc ngày mua mé nọ đèo.<br />
(Thơ Nôm, số 35)<br />
Còn dưới ngòi bút Nguyễn Khuyến, làng cảnh quê hương Yên Đổ nói riêng và vùng đồng<br />
bằng Bắc Bộ nói chung hiện lên với những nét vẽ thanh bình, no ấm và cũng thật tất bật:<br />
Năm gian nhà cỏ thấp le te,<br />
Ngõ tối đêm sâu đóm lập lèo...<br />
(Mùa thu uống rượu)<br />
Hay:<br />
42<br />
<br />
Hình tượng người dân lao động và cuộc sống xã hội trong văn chương tác giả nhà nho ẩn dật<br />
<br />
Quyền a hữu thị nhân thanh náo,<br />
Cổ tự vô tăng thảo sắc nhàn.<br />
<br />
Góc núi họp chợ, tiếng người huyên náo<br />
Chùa cổ không sư, cỏ cây vắng lặng<br />
(Vịnh núi An Lão)<br />
<br />
Hình tượng một cuộc sống xã hội thanh bình, người dân được tự do sinh hoạt và làm ăn như<br />
vậy không chiếm số lượng nhiều trong sáng tác của nho sĩ ẩn dật. Vì như chúng ta đã biết, một<br />
trong những nguyên nhân căn bản nhất khiến những nho sĩ ẩn dật từ quan quy ẩn chính là chế độ<br />
chính trị đương thời bất như ý đối với họ. Vì thế cái nhìn của họ đối với chế độ chính trị này thông<br />
thường là cái nhìn tiêu cực với thái độ phê phán và phủ định. Góp phần bộc lộ cái nhìn ấy ở nho sĩ,<br />
cuộc sống xã hội đương thời đã hiện lên với tất cả những mặt tiêu cực của nó: một bầu không khí<br />
xã hội thê lương, lũ lụt, hạn hán, chiến tranh, chết chóc, nhân dân đói khổ lầm than, tha phương<br />
cầu thực... Khắc họa hình tượng cuộc sống như thế, nho sĩ ẩn dật khi trực tiếp, khi gián tiếp quy<br />
trách nhiệm cho vua chúa, quan lại đương thời. Ví dụ:<br />
Hồng nhạn bi minh tán lâm tẩu,<br />
Sài lang hoành hành đương lộ khê.<br />
<br />
Đàn hồng nhạn kêu thương bay tản trong rừng, trong đầm<br />
lầy<br />
Lũ sài lang nghênh ngang trên các nẻo đường lối suối<br />
(Trư điểu đề -Tiếng chim lợn kêu) - Ngô Thế Lân [8;206]<br />
<br />
Vô cô dân cửu ly đồ độc,<br />
Bất sát thuỳ năng uý hễ tô. (Cảm hứng thi)<br />
(Nhân dân vô tội gặp phải cảnh cay cực, độc ác từ lâu/ Hỏi ai là kẻ nhân từ không ham giết<br />
người, thoả được lòng dân chờ cứu sống - Thơ cảm hứng, bài 5 - Nguyễn Bỉnh Khiêm)<br />
Chỗ khác, cuộc sống xã hội được Nguyễn Bỉnh Khiêm đặc tả rõ nét hơn:<br />
Lưu ly khí đồng trĩ,<br />
Lung lão chuyển câu hác.<br />
Ngã biểu chúc lư lý,<br />
Bất xí điểu phần sào.<br />
Đãi đồng phường trinh vĩ,<br />
Thử thời tư vi cực...<br />
Nguyên dã tác chiến trường,<br />
Tỉnh ấp biến tặc luỹ.<br />
<br />
Lưu ly vứt bỏ trẻ nít<br />
Già ốm lăn xuống ngòi rãnh<br />
Chết đói nằm đầy cổng làng<br />
Chẳng khác chim bị cháy mất tổ<br />
Giống hệt cá bị máu dồn xuống đuôi<br />
Lúc ấy đến như thế là cùng cực...<br />
Đồng ruộng biến làm chiến trường<br />
Làng xóm khắp là luỹ giặc.<br />
(Cảm hứng, tam bách cú - Cảm hứng, 300 câu)<br />
<br />
Đặc biệt, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã xây dựng được một hình tượng cuộc sống xã hội qua các<br />
hình ảnh ẩn dụ mà ở đó là sự tranh giành, cướp tróc lẫn nhau, cá lớn nuốt cá bé, thế đạo nhân tâm<br />
bị đồng tiền chi phối... Lời thơ của ông ở đây phát triển theo chiều hướng suy tư, khái quát mang<br />
ý nghĩa triết học nhân sinh:<br />
Thớt có tanh tao, ruồi dạm miệng,<br />
Ang không mật mỡ, kiến đem thân?<br />
(Thơ Nôm, số 65)<br />
Hay:<br />
<br />
Giàu sang người đến đăm chiêu,<br />
Bần tiện, ai kẻ trọng yêu?<br />
43<br />
<br />