intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Hồ Chí Minh - Cây đại thọ: Phần 2

Chia sẻ: Lê Na | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:89

106
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiếp nối phần 1, phần 2 Tài liệu Bác Hồ - Cây đại thọ của nhà văn Đoàn Minh Tuấn gồm các câu chuyện: Châu Tự do; Tình cảm lớn lao của Bác Hồ với thương binh; Bác gọi; Ngày xuân Bác đến thăm đền Cổ Loa; Bác đã dạy tôi yêu thương con trẻ; Em đội viên mắt sáng; Mặc niệm Bác trong nhà lao Phú Quốc;... Mời bạn đọc tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Hồ Chí Minh - Cây đại thọ: Phần 2

  1. CHÂU T ự DO Chững tỏi ngưỢc bờ sông Đáy về phố huyện Sơn Dương. Hai bên đường dọc Iheo nông ưường che Tân Trảo, những bụi cây trinh nữ ngại nắng khép kin ỉại. Những con suối lũ dềnh lên ảo ào cuốn những cành cây gãy chảy ra sõng. Tử đây còn 12 kilốmét nữa là đến Tán Trào - Ihủ đỏ ỉâm thời của cách mạng Việl Nam thời trước khởi nghĩa, chúng tôi dừng chãr. nghỉ ở huyện lỵ. Sơn Dương những ngày tiền khởi nghĩa gọi là cháu Tự Đo, cái tên gọi ấy có từ rằm tháng ba năm 1945. õn lại những ngày lịch sử chói lọi vả đầy kinh ngạc ấy, người dân sơn Dưdng còn nhắc nhở mộl buổi bình minh sáng tươi, dội Cứu quốc quân 3 h ạ đồn Đăng Châu lần thứ hai. giết tri phủ Đèo Văn Phú. bắl tri cháu Hoàng Thế Tâm, giải phóng cả vùng cánh cung rộng lớn của thưỢng huyện. Đồng chí bí thư huyện ủy. người đã từng theo Lrung tướng Song Hão, kể cho chúng lối nghe vể mộl buổi sáng linh md hai mươi lăm năm trước, Sơn Dưcíng ngày ấy nổi dậy bằng giáo mác và sũng khai hậu cướp cháu đường, phá kho thóc, bắt các hào lý nộp ấn, sác và Iriện đồng. Từ đấy ủy ban 80
  2. nhân dân cách mạng cháu Tự Do ra đời. Chinh quyền cách mạng đầu liên ở nước ta được thiết lập ngay tại một huyện nhỏ. Lần từng bưởc đi trên con đường rải dá giữa huyện lỵ, đấu vếl của những chiến cõng một phần tư thế kỷ trước vả thành cũ Đăng Châu, cỏ lan mặl đất vẫn cỏn đó, Đăng Châu, cái thành đầy khủng khiếp của chế độ thực dân phong kiến miền núi. án ngữ trên ngã ba đường đi Tuyên Quang. Thái Nguyên, Vĩnh Yên đã kéo cờ trắng đầu hàng cách mạng sau những phút súng nổ quyết ỉiệt của một phân đội Cứu quốc quân từ Khuổi Lịch (Tân Trào) kéo về. Theo sách cũ Dư địa chí của Nguyễn Trâi trong ừc trai di tập viết năm ỉ 43 5 thì châu này thuộc phủ Đoan Hùng, ăn vào Tuyên Quang thừa tuyên. Tự Ihuở xưa, Sơn Dương là một hùng trấn. Nơi ấy núi non hiểm trở, của cải dồi dào, thắng tích chẳng ít, dân khi ngang tảng, bao nhiêu lẩn quán Minh thèm muốn không chinh phục đưỢc. Trên 6 0 0 năm trước, Sơn Dương gọi lả Đễ Giang châu, tức là châu sông Đáy. Sông Phó Đáy chảy qua Sơn Dương hàng chục đặm, về gặp sông Lô rỗi cùng sông Hồng hội ở ngã ba Hạc.”' Trung tuần Iháng 5 năm 1945, Bác tữ sơn Dương về Tân Trảo. Các anh Song Hào cùng một số đồng chi đến đình Hồng Thái đón Bác. Hồng Thái có một mái đinh năm gian đựng trẽn một khoảnh dất khá rộng. Một cảy đa xum xuê với tám cànỉi lớn ngả bóng mát 1. H ạ c Trì (B ạ c h H ạ o V iệ t Trl). 81
  3. che rỢp mái đình. Hai mươi bốn cây cột lim và hai vế câu đối khắc song song trên đôi cột chính giữa đình: Đễ Giang tả bão ỉinh nguyên hội Ngọc tĩnh hữu triều thụy khi chung Đôi câu đối ngợi ca cảnh kỳ vĩ nơi đây: Bên trái sõng Đáy bao quanh, nguồn linh thiêng lụ về. Giếng Ngọc chầu bên phải, khí đẹp chung đúc. Sau đĩnh Hồng Thái có bản làng và một cái giếng trong xanh như ngọc ở ngay đầu thôn, nhân đán Ihường gọi ià giếng Ngọc. Hồng Thái là cửa ngõ của Tân Trào, xã Tân Trào mỗi bề dải ngót 8 kilômét, trẽn 50 kilỏmét vuõng diện tích thì rừng già và núi đã chiếm đến quá ba phần tư. Căn cứu địa Tân Trào lấy sông làm hào, lấy núi ỉàm lũy chở che vị trí chiến lược quan trọng này. Muốn về thủ đõ khu giải phóng phải qua dông sổng Đáy vả bốn con suối sâu. Hỏm ấy vào gỉừa trưa hè, nắng chỏi, đồng chỉ Võ Nguyên Giáp đưa Bác về. Bác dừng lại trước đình ngắm cảnh vật. Những ngọn núi Nản Đen, Kẹm Him, Khao Nhì... vách dựng cao hàng ữăm mét, dây leo um tùm. Những dãy rừng lim, rừng phách hoa nở íím viền lấy xâ Tân Trào. X a xa, đỉnh núi Thỉa và dãy núi Hồng - cơ sở của các dồng chí Cứu quốc quân III từ năm 1943 - quay lưng vẻ B ắc Thái làm địa giới tự nhiên giữa hai tỉnh Tuyên Thái. Bảc ngắm nhìn dãy lịch - nơi có phong trào chống thuế của nhãn dân thôn Khe Thuyền từ tháng 1 0 -1 9 4 3 . B á c ngắm dòng sông k h e nước. Những dòng k h e x ỉn h đẹp, uyển chuyển: dãy khe Bòng, suối Thia, kia ngòi Sung, khe c ả chằng chịt dọc ngang vây quanh các bản 82
  4. đồng bào Tày, dồng bào Trại rồi chảy ra ngòi Thung nhập vảo sông Đáy. Những ruộng lúa phì nhiêu, những vườn cây ăn quả. bãl chuối xanh rậm bên những bờ sõng, ven suối. Bác cỏ vẻ hài lòng với cảnh núi non và dân cư ở vị tri xung yếu này. Bác cho nơi này là đất dụng binh đưỢc “tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ", ở dây có dường qua đèo De, dường đi Thanh La. dưởng về Minh Khai, và từ các nơi ấy ta có thể di Bắc Thái, Cao Bằng, qua Vĩnh Yên. Phú Thọ, hoặc về tận Hà Giang, Yên Báí... Hõm vé Tân Lập (Tân Trảo) Bác m ặc áo chàm ngắn đá sờn, xẻ hòng kiểu áo Nùng, vai vắt chiếc khăn mặt bông, chân đi giày rơm đả rách có dáy quai buộc. Bác dội mũ đen. tay cẩm gậy nhỏ. Năm ấy râu Bác chưa bạc, nưởc da sương nắng sạm đen. Bác gầy, hai gò má nổi cao. nhưng đòi mắt vẫn sáng. Đỏng bào kết bè dưa Bác sang sông (Lúc bấy giờ chưa có cảu treo trên sông Đáy). Bác về dến bản vữa lúc đổng bão nhen lửa thổi cơm chiểu. Lão dồng chí Tiến Sự chỉ cho chúng tôi theo lối Bác bước lên nhà sàn. Hồi ấy, nhà cũ của đồng chí Tiến Sự có cảu thang xoay về phía Đông. Bác bước vào n h ả . ch ả o h ỏ i mọi người th â n t h i ế t như người cha đi lâu ngày, nay trở về thăm con cháu. Cu Khoát“’ thấy ông cụ hiền lành, phúc hậu. vui vẻ sả vào lòng. Bác xoa đầu áu yếm: - Cháu đã đi học chưa? 1. Con đổng chí Tiến Sự, sau làm công an huyện S ơ n Dương 83
  5. - Thưa cụ chưa ạ! Đồng chí Tiến Sự trả lờỉ Ihay. - Cháu dã lởn, di học được rồi đấy! - Thưa, chưa mua dưỢc giấy, chưa xin được trường. Bác nhìn quanh xóm, lỏ vẻ ái ngại vể sự Ihiếu cơni, dỏi chữ của con em đồng bào các dân lộc. Bác chỉ một đồng chí võ luyến điện di theo Bác. - Ngày mai theo chú này, chú cho sách và dạy cho. Thế rồi cu Khoát chạy theo các chú bộ đội xuống sàn xem các chú mắc dáy trờỉ của đài vô tuyến diện để bắt liên lạc vời các nơi. Hồi ấy dán bản gọi B á c là “đồng chí già’' hoặc “dồng chí cụ”, cũng có khi gọi là “đồng chi thượng cấp". Bà con trong bản Ihấy ông cụ đã cao tuổi, khõng biết từ bản nào vẻ mà chăm chỉ lạ thường. Đêm đêm cụ ít ngủ, lãm việc đến khuya. Việc gì cụ cũng làm, ai ai cụ cũng thương yêu, chăm sóc. Lúc gà rừng vừa vò cãnh gáy chào rạng đóng, cụ đã dậy, vác ống bương đi lấy nưởc dưới suối, ông cụ quét nhã, ông cụ tưới rau, hoặc có khi dăp lại mương nước ở bờ ruộng. Làm xong những việc lặt vặt ấy, cụ mới ngồi vào chiếu, bên bàn máy chữ đặt trên khúc gỗ để làm việc. Bác thường nghe đồng chí Hoàng Quốc Việt báo cáo tình hinh cõng lác, hoặc dồng chí Văn*” đến xin ý kiến. Tiếng máy chữ tí tách dều đều và có lúc rất khẩn trương. Cùng từ dây những lời hiệu triệu, những bản chí thị kêu gọi đồng b ào đánh T ày, d án h Nhật, cướp ch ín h 1. T ứ c đ ổ n g chí V ỗ N guyẽn Giáp. 84
  6. quyển giành tự do. Những bửc thư ký tên Hồ Chí Minh lung khắp núi rửng, về Irung du, xuống tận đồng bằng, Iruyẻn đi kháp nước. Ban ngày bận việc, tối tối, Bác đành ít Ihì giờ gặp gỡ dãn bản. Tiếng lành dổn xa, cá c gia đình quanh xóm đ ến thâm “dồng chí g ià ”, nghe đồng chí kể chuyện đánh Tây, Nhật nh ấl là những lời khuyên bảo của dồng chí vé việc lăn|:^ gia, liết kiệm, về học Lập, vẻ tình hinh Ihời sự... Cách giáo dục của Bác bao giờ cũng nhẹ nhãng, nhưng rất sâu sắc. Buổi đầu tiếp xúc có một câu chuyện nhỏ mà dân bẳn vần nhở mãi đến giở, Hôm đó là một dèm hè, Bác cùng các mế (mẹ) các cụ, các chị quây quản trò chuyện bên bếp. Chuyện vui Bác hỏi: - Bà con la có biết trên dởỉ này cái gi quý nhất? Mọi người thấy õng cụ nhanh nhẹn, vui tươi và hiền từ nên rất có cảm tình. Nhiẻu chị tranh nhau trd lời. Người thì nói “cái nhà quý n h á r , kẻ thì cho “chiếc cày quý nhất”, “con Irãu quỷ nhấl”, có chị nói lo; - Thưa đồng chi thưỢng cấ p . đồng b ạc trắ n g "’ quý n h ất. Tất cả đều dồng ý: - Đồng bạc Irẩng là quý nhất! Bác cười có vẻ đồng tinh, nhưng Bác hỏi thêm: 1. Đống b ạ c Đ ông Đương bằng bạc thật. 85
  7. - Đổng bạc quý nhất Ihĩ cấl giấu ở đáu cho kín? - Thưa “dồng chí g ià ” giắt ở mái n h à ạ! Một vài ý kiến khác: - Chõn dưới đất al - Cài trẽn đầu cũng kin ạ! Nhiều cãu trả lời làm cuộc trò chuyện thêm sói noi. Bác thong thả phe phẩy chiếc quạL, và giải thích: - Đồng bạc lả quỷ thật, muốn giữ kín, chôn giấu chỗ nào cũng dưỢc, mất có thể tìm, và làm ra đưỢc. Nhưng cán bộ. bộ đội Cứu quốc quán về đây hoạt động, họ còn quý hơn tiền bạc. Có họ t.hì có tất cả. Họ là người củng la đánh Tây. dánh Nhật, lâ tỏi tớ của dân. Nước độc lập tự đo thì nhà cửa, trâu bò, cày bửa, tiền bạc đều có. Vậy ta phải giữ kín họ. Một bả mẹ thắc mắc: - Làm thế nào giữ kín dưỢc, Lhưa cụ? Bảc im lặng một lúc, xem mọi người còn ai hỏi thêm diều gì không, cuối củng Bác bảo: - Muốn giữ kín họ phải thực hiện “ba không". Có ngưòi lạ mặt thi nói “khõng nghe", “không thấy" hoặc “không biết". Có như vậy mới bảo vệ dược cán bộ. bảo vệ dưỢc khu cản cứ. TấL cả mọi người đều cười vui rung c ả sản nhà, vã cứ thế một vải đèm sau cả bản họp lại dể nghe “đồng chí già" trò chuyện một vấn dề khác.... 86
  8. Các cụ Hương, cụ VưỢng à Khuối Lịch - nơi đội Cửu quốc quân 3 ra đời tháng 12-1944 - cùng đến nghe B á c nói chuyện. Cãc cụ rất ái mộ Bác: “Dãn minh phúc bẳng Irời mởi có dưỢc ông cụ nhiều tuổi, tốt bụng và anh minh như vậy, ông cụ dẩt dẫn ta đánh Tây. đánh Nhật nhất định là phải thắng. Việt Nam minh nhất định độc lập!". Và cũng từ đấy, cán bộ, cđ quan Trung ướng. rồi Đại hội, nhà in. máy móc di chuyển di về nườm nưỢp suốt đêm nhưng bi mật vẫn dược giữ kin tuyệt dối. Lỏng dân ở dãy dối với Bác, với cách mạng, với A.T.K (an toàn khu) thật vô bến bở. Đó là tường lũy vững chãi nhất cho Ihủ dõ lám thời. Vảo một ngày cuối Iháng 5 năm 1945, giặc Nhật c:ho 500 quán cũng lửa ngựa chở súng đạn bấl ngờ tiến đánh Tán Trào, hòng tiêu diệt dầu não và lực lượng cách mạng non trẻ của ta. Tân Trảo lúc bấy giờ như mộl chiếc gai lười hùm trước m ắt chúng. Mặc dầu hôm đó ta chưa kịp bố trí, nhưng nhãn dân đă h ết lòng chở che, báo cho đồng chi Môn, dồng chí Thăm và đồng chí Long Giang đưa quán ra chặn đánh ở c ã c ngả và ở đèo Chắn, Nhân dân hếL lòng ủng hộ bộ dội chiến đấu. Giặc Nhật đành phải bỏ lại dưới chân dèo nhiều x á c chết, rồi hoảng sỢ rút lui. Vã từ đó, chúng không dám bén mảng dến đất Thánh ciía cách mạng nđa. ở bản được vài tuán lẻ, m ộ t hóm B á c gọi dồng chỉ Tiến sư đến Bác rỉ tai nói nhỏ: 87
  9. - Chủ nhiệm ngày mai có bản gi không? Chủ nhiệm nhớ mưỢn cho vài cái rìu, vài con dao nhé! Thế rổỉ sáng hỏm sau, lúc dồng chi Tiến Sự còni ngái ngủ, Bác đã giục: - Chủ nhiệm ơi, dậy di thôi! Ta vào rửng làm lán- Sau vãi ngày. Bác cùng đồng chí Tiến Sự. dồng chá Cát tìm dịa thế, chặt cây, cắ t tranh làm nhà ở. Rỗi một sớm, Bác đởi về nhà mớl... Vì sự cảnh giác của Bác “laỉ vô ảnh, khứ vô hình’" nẻn khi về Hà Nội. Bác cho đốt cả lán cỏ bẽn suối.. Giờ đáy trong khu rừng Nả Lừa chỉ còn lại tảng đá. nơii xưa kia Bác dùng lãm bàn ăn. Vã ở đây, ngày nay mộtt hồ nước chứa hàng chục vạn khối, củng một cò n g trình thủy điện mọc lẽn. Nhân dán Tân Trảo dời dờii ghi nhớ công lao của Bác. Đồng chí Kỉm Sơn ở bảo tàng Tuyên Quang có nhờ đồng chí Tiến Sự nhớ kỹ lạii căn nhà Bác ở lúc đó để phục chế lại. Hiện nay nhồi chưa lảm xong, nhưng ở bảo tàng Hồng Thãi dã có m õ hình căn nhả lá, nửa sàn. có bảy nấc thang tre vởi haủ gian dơn sơ, trống trải... đáy lả “Phủ Chủ lịch lâ m thời" ' “đinh" của vỊ Chủ Lịch nườc. Vả chửng ấy cũng dỏ nói lên cuộc sống thanh đạm giản dị của Bác, Lrong những ngày Bác ở Tân Trào. Chúng tôi men theo ngòi Khuôn Pén, qua Khao Nhì,, về ghé thăm dinh Tân Trào. Đình Tân Trào là một ngôi đình nhỏ không lợp ngóíi mà lợp bằng cọ. Nhưng chính nơi dây đá xảy ra mộtt 88
  10. sự kiện vô cùng trỏníí đại Irồng lịch sử dấu tranh của dàn tộc la. 14 giờ 30 phút ngày 16-8 -19 4 5 Đại hội đại biểu Quốc dán nhóm họp ở dãy. Trên 60 dại biểu khắp các tĩnh ở ba miền Trung, Nam, Bác, Việl kiều ở Xiém, Lào kẻo về chặt cả ngôi đình bé nhỏ, mở hội non sông. Đồng chi Trường Chinh báo cáo Irước Quốc dãn Đại hội về vấn dề chuẩn bị Tổng khởi nghĩa và Ihành lập ủy ban giải phóng dãn tộc. Đại hội cử Bác làm Chủ tịch ủy ban. Đó là Chinh phủ lám Ihờỉ và lả Nhã nước dân chủ nhãn dân đầu tiên của ta. Tại nơi đây, cụ Hồ Chi Minh lần đầu ra mắt dại biểu quốc dãn. Các chiến sì Giải phóng quân bắn ba loạt súng chào mừng, và ngay chiểu hòm dỏ, dưới gốc da Tân Trào, náng xién qua vòm lá. đồníị chí Võ Nguyên Giáp đứng trên mô đấl cao đọc bản Quán lệnh số 1 của ủy ban khởi nghía. Tân Trảo tử đấy Lhật sự trở thành Lhủ dó lảm thời và lả dại bản doanh của quân cách mạng, Trước cơ hội ngàn năm có một. Việl Nam giải phóng quán tiến về chiếm Thái Nguyên. Các đơn vỊ giải phông quán tử các chiến khu kéo vể các lính cùng nhản đán nhát tề nổi lên giành iấy chính quyén. mệnh lệnh Tổng khởi nghĩa truyền đi Lừ Tán Trào ngày 18-5-1945, Lhi Hả Nội khởi nghĩa ngày 1 9-8, Huế ngày 2 3 -8 và Sảt Gòn ngày 2 5 -8 . Chỉ trong vòng một tuần lẻ, nhân dân ta đã đứng lẻn giải phóng toàn bộ dất nước. Sức lay trời chuyển đất của Đại hội Tân Trào lả thế. “Dũ đốt cháy dãy Trường Sơn củng kiên quyết giành cho dưỢc độc lập" lời Bác như chim bằng giang rộng cánh, đó là lời của lổ tiên 4 0 0 0 năm giục la lên dưdng xông trận. 89
  11. Chiều hôm dến Tân Trào, đứng trẽn chiếc xe bánh xich ủi đất mở đường, chúng lôi ngám mãi ngôi đình làng cũ, mái lá vừa dược lợp lại, năng Ihu nhuộm vàng vẳng nghe như từ trong nhang án giữa dinh vọng lẽn lời hiệu triệu của Bác bao năm trước. Cây đa Tân Trào giờ đây vẫn xanh. Chỗ mảnh đất dưới gốc đa Tân Trào, nơi Bác thường nói chuyện với cán bộ học sinh trường quân chính gỉở đây nhãn dàn địa phương dựng lên một nhà trẻ rộng thoáng, còn thơm mùi gồ mới. Ngày trước nơi đây Bác luyện quân, chỉnh cán. thì giờ đây thực hiện Di chúc Bác, Đảng bộ Tân Trào đang vun trồng cho thế hệ mai sau. Tàn Trào đá có Irường cấp hai. cỏ bệnh xá, nhả hộ sinh, có loa truyền thanh... “Có độc lập tự do, thi có tất c ả ”, những dỉéu Bác giải thich cho đồng bào Tán Trào ngày xưa, nay thành sự thực. Để ghi nhớ cống ơn sâu nặng của người Cha, nhán dân Tân Trào dang xây nhã lưu niệm về Bác. Bẽ tông nền nhà vữa đổ xong, những giàn giáo dựng đưđi những cành da để xá y tường, dựng cột. Đồng chí Trung Nguyên, chií nhiệm hỢp tác xã Tân Trào cho chúng lôi hay còn bốn vạn hai nghìn viên gạch nữa lả xây xong khu nhã iưu niệm về Bác. Nhà lưu niệm rộng 2 7 0 mét vuông, ở đây sẽ Lníng bày trẽn 400 hiện vật về Bác, về Nhà nước dãn chủ đầu Liên, về dội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, v.v... Trong đó có khẩu súng kíp, trước khl vẻ Hà Nội, Bác trao cho đồng chí Tiến Sự và căn dặn đồng chí sự dùng súng đó để bắn quân thù, bảo vệ chính quyền cách mạng. 90
  12. ù\ TÌNH CẢM LỚN LAO CÙA BÁC H ồ VỚI THƯƠNG BINH Vào một sáng mùa hè 1960, tôi đến Lhăm bác sĩ Vũ Đình Tụng, Bộ trưởng Bộ Thương binh - Xă hội. nhà ở phố Trần Xuân Soạn, phía sau chợ Hôm, Hà Nội. Một ngôi biệt thự nhỏ có trồng hoa và cây cảnh. Bác sĩ kể cho tôi nghe một câu chuyện thương tâm, nhưng đầy hào hùng và cảm động của gia đình Bác. 8 giờ đêm một đêm tháng Chạp năm 1946: ngày mà Chủ lịch Hồ Chí Minh đã tuyên lệnh toàn quốc kháng chiến mới đưỢc vài hõTn. Trong khói lửa của Hà Thành những ngày sỏi sục đỏ, bác sĩ Vũ Đình Tụng phải mổ một trường hỢp quá đặc biệt và rất đau lòng cho một chiến sĩ tự vệ thành Hả Nội. chiến sĩ “sao vuông” rất trẻ. tuy vết thương nặng đau xé lung cả ruột mà miệng vẫn mím cười. Suốt ngày hỏm ấy, bác sĩ dã phải mổ xẻ cứa gắp đạn và khâu vết Lhương cho hàng chục chiến sĩ vệ quốc quân lử khắp cá c m ặ t trận nội, ngoại thành chuyển về Bạch Mai. Nhưng đến Irưởng hỢp này, thần kinh của bác sĩ căng lẽn một cách kinh khủng. 91
  13. Người bị thương do một đưởng đạn từ sau lưng, phá ra phía Irước. bể bụng ruột gan rối bời lòi ra. Các y sĩ, hộ lý khuyên bác sl lạm nghỉ tay, nhưng bác sĩ vẫn phải kiên quyết mổ khâm ruột cho người chiến sĩ trẻ này. Với nụ cưdi thân thương ấy, rất quen thuộc, bác si đã nhận ra chiếc răng khểnh nhỏ của Vũ Văn Thành, đứa con út của minh. Trong lúc cấp bách này, nếu khõng nhanh chóng kháu lại vết thương thì khòng cỏn kịp, nên bác sĩ cố nghiến răng, kìm mình để giữ bĩnh Lĩnh, gắp mảnh đạn cuối cùng trên thân thể chiến sl Thành, rồi bác sĩ choáng váng rời khỏi bân mổ. Bệnh viện cố gắng rất nhiều, nhưng vết thương do giặc Pháp gây ra quá nặng, chúng đả cướp m ất anh Thành, đứa con thứ 2 yẽu quý của gia đình bác sĩ Tụng. Anh của Thành tà Vũ Đình Tín cũng đă hy sinh sau ngày tổng khởi nghĩa... Và một buổi chiều sau đó vài tuần lễ, một buổi chiều đỏng lạnh lắm, có mưa phùn gió bấc tại bệnh viện Văn Điển - từ sau đêm Noel 1946 bệnh viện Bạch Mai bị pháo giặc tàn phá. phải di chuyển ra ngoại thành - vào lúc bác sĩ Tụng dang mổ xong một ca thứdng binh nhẹ, thì bác sĩ Trần Duy Hưng lúc bấy giờ là Thứ trưởng Bộ Nội vụ, dến thăm bệnh viện vả trực Liếp đưa bức thư ngắn ngủi của Hồ Chủ tịch. Bác sĩ Tụng xúc dộng; ‘Tôi ngỡ đây là một mệnh lệnh mới của Chính phủ, nhưhg th ậ t khổng ngờ đây lại là m ộ l (.hư riêng của Người, hồi thăm gia đình bé nhỏ của tỏi”. 92
  14. Đó là mội bửc thư dẩy tinh cảm lờn lao của Bác Hỗ chia đau Lhương với gia dinh bác sĩ Tụng, Cho đến hòm Lói gặp bác sĩ là sau 15 nám trời, mà bác sỉ vẫn còn nhớ và thuộc )òng. Khi đó B ác Hồ gọi bác sĩ Tụng bằng “Ngài”. Bác si Tụnfí chuyển lỗi bức thư đã ỏ' vàng dưới ký tên Hồ Chí Minh đẻ ngày 1 0-1-1947. “Tôi được báo cáo ràng: con CLÍa ^gái đá oanh liệt hy sinh cho Tổ quốc. Ngài biết rằng tói không có gía dừih, củng khõng cỏ con cáL Nitôc Việí Nam lá đại gia đỉnh của lõi. Tất cả tỉianh niên Việt Nam là con cháu Lôi. Mất một thanh niên thi hỉnh như tôi mất một đoạn ruột Những cháu uả an h chị em kh ác dũng cảm hy sinh đ ể giữ gìn đ ấ í nước. Thế lá họ đ ã ỉàm rạng rỡ d ân tộc, vẻ vang giống nòi. Họ chết cho Tổ quốc sống mái. linh thần họ iuỏn ỉuôn sống uới non sông Việt Nam. Những thanh niên dó lá anh hùng dân tộc. Đồng b á o uà Tổ quốc s ẽ không bao giờ quên họ. Ngái d á đem món quà quý báu nhất là con củ a mình sđn sàng hiến cho Tổ quốc. Tử dây chác Ngài sẽ ihém sức giúp việc cho kháng chiến đ ể bảo vệ nước nhà uà tinh thần cháu ở trèn trời củng bằng lòng uà sung sưởnọ. Tõi ữiay mật Chinh phủ cảm ơn Ngài, uà gửi lời ch ào íhđn ái và quyết tháng’'. Bác sĩ Vù Đình Tụng gỡ dôi kính lão lấy khăn tay lau nước mắt. kể Liếp: “Đọc xong bức thư của Hồ Chủ Lịch mà tỏi thấy bàng hoàng. Trong lúc chiến Iranh Bác Hổ bận trăm nghìn việc dại sự của quốc gia, ngay cả họ hàng thân 93
  15. thuộc của tỏi rnà tôi cũng không có Ihì giờ thăm hỏi, th ế mà B ác vẩn nghĩ đến tôi một gia đình bé nhỏ đang có tang dau iông. Tự nhiên tõỉ thấy sự hy sinh và đau thương của gia đình tôi Irở Ihành bé nhỏ trong tình thương mênh mông vả sự hy sinh cao cả của cả dán tộc, của Bác Hồ”. Rồi sau đó trong những năm kháng chiến dài lâu. bác sĩ Vũ Đình Tụng đã ửieo Bác Hồ lẽn Việt Bắc, qua nhiều chiến dích lớn nhỏ bác sĩ đã dem hết tinh thần vã nghị lực lãm việc. Từ một giáo đán bĩnh thường, một bác sĩ của xã hội cũ chỉ biết làm trọn nhiệm vụ một người lương y, ngoan đạo. Bác sì Vũ Đình Tụng đã Irở Ihành người Ihầy Ihuốc của xã hội mới và đóng góp công sức của mình cho cách mạng. Ttong chiến dịch Điện Biên Phủ, bác sĩ Tụng đã đảm nhiệm trọng trách Bộ trưống Bộ Thương binh, cùng với bác sĩ Tôn Thất Tùng đã đem hết tình yêu thương ruột thịt với con mình đảnh cho việc chăm sóc cửu chữa thương bỉnh, bác sĩ đã tìm đưỢc bóng dáng của Vũ Văn Thảnh sau khi lành vết thương trở về đơn vị chiến đấu... ♦ 94
  16. BÁC GỌI (Ghi tiìeo lởi đống c lìl ĐÕ Văn Sửu) Sáng nay, qua đày nói, anh Hiến'^’ triệu tập tôi về Bộ cỏ việc cần. Tòi vdn đinh ninh như mọi bận, về nhận chủ trưdng mới. Tôi hỏi anh Hiến có phải chuẩn bị gì không. Anh chỉ cười vả bảo: “Bình thường". Ai ngờ dến giờ phũl này anh mới nói thật với tôi là “Bác gọi". Trời ơi! Bác gọi tỏi? B ác gọi nhám chăng? Mình nghe không rỏ chảng? Mình mđ ngủ à ? Tôi hối lại anh Hiến mà lòng vui rạo rực. không lấy gì tả xiết, khóng lấy gì đo cho hết nồi mững. Tõi quên cả mệt nhọc, hồi hộp và cảm động lắm. Rồi đây, chốc nữa gặp Bác. biết làm sao, biết Ihưa cùng Bác diều gì? Anh Hiến thấy lôi bối rối, anh dặn: - Cỏ gì nói nấy! Trong dờl, lần dầu tiên, đáy lã một vinh dự quá bất ngờ - một hạnh phúc cao nhất đối với lỏi. Tôi suy 1. Đổng ch( Đồ Văn Sửu là giám đốc nhá máy giấy Hoàng V ă n T h ụ . Sau này đổng c h í íả Vự trưđng Ihuộc Bộ Điện than đâ hy sinh khi g iặ c M ỹ ném bom H à Nội vao năm 1972. 2. Đổng c h í Lê Vân Hiến, Bộ trưống Bộ Tài chinh, Nhà máy giấy trực thu ộc bộ này. 95
  17. nghĩ, sắp xếp dự kiến những diều Bác sẽ hỏi và mình sẽ thưa lại. Nhưng còn đâu thì gỉờ, tỏi thám trách anh Hiến, lẽ ra anh cho tôi biết ngay lừ đẩu. Tỏi kìm cương ngựa lại, di thong thả chờ anh Hiến. Đến giữa rửng, một ánh lửa dàng xa soi dường đưa chúng lôi về mộl căn nhà nhỏ, Anh Chiến (bảo vệ Bác) ra gặp, vả hướng dẫn chủng tôi đến một nơi khác. Đi mộL quăng nữa. thi dến ngôi nhà lá. Mộl đống lửa dốl ở giữa nhà, mộL óng cụ điềm đạm dang ngồi Lrên một khúc gổ, ánh lửa chói sáng vầng trán cao, ông cụ cúi xuống xếp lại que củl cho ngọn lửa cháy to. nẻn khõng nom rồ mặt. Không gi vui sướng hơn! Tôi không ngờ nơi dáy là Phủ Chủ tịch, là nđi luặn bàn việc nước của Chính phủ Trung ương - Lrung tâm lảnh dạo toàn dân chống Pháp ' nơi lập trung tri tuệ và sửc mạnh của dân mình. Và óng cụ khoác áo ka ki bạc màu ngồi đó, lã Bác Hồ. Trong khoảnh khắc, tói còn tần ngần dứng lại bên ngoài. Anh Hiến bước vào trước, đến khi Bác lén tiếng gọi: “Chú Sửu đó phải không?”, tỏi mới bửng tỉnh. Õi. sung sưởng quá, tói líu lưỡi: - Thưa Bác, có cháu đáy ạ! Trời sắp sửa sang Uiu, chưa réL, nhưng ở rừng sáu, dêm có sương lạnh. Bác đang ngồi sưởi và suy nghĩ. Bác chĩ một khúc gỗ bẽn đống lửa và ra hiệu bảo chúng tỏỉ ngồi. Vừa xúc động, vôía vui mừng, tôi quan sá t và cố ngẩm Ihật kỹ, nhin Bác rõ lâu. Dáng B ác gầy và hơi yếu. Tôi nhìn Bác từ chòm râu, mái tóc, 96
  18. từ nếp quán nảu giản dị đến đôi dép cao sư đã sờn mép. Tỏi chăm chú đến căn nhã nhỏ dơn sơ, gọn gàng, một chiếc bàn tre, một cáy đèn bão tỏa ánh sàng đỏ trẽn những trang sách báo gồm nhiều thứ tiếng nước ngoài. Bẽn phải tôi là chiếc giường con trải chiếu cói vã chiếc chăn trấn thủ gấp vuõng góc. Tôi nhìn mãi chừng ấy thứ. Và chỉ chừng ấy thôi cũng nói lên cuộc sống thanh dạm của Bác. Tôi đã tự dặt cho mình một cõng việc quan trọng là phâi nhìn cho kỷ, nghe cho rõ thu hết vào lãm Iri để khi về kể lạí cho anh chị em công nhân. Tỏi đỢi chờ, chưa dám ngồi gán, Bác dịu dàng kéo xích tói lại và bằng một giọng ấm áp, Bác hỏi: - Chú có biết vì sao hôm nay Bác gọi lén không? - Thưa không ạ, cháu nghe đồng chí Bộ trưởng Lẽ Văn Hiến gọi lẽn họp ở Bộ, cháu cũng chưa rõ việc gì. - Bãc muốn nghe chuyện nhà máy của các chú làm ăn, chiến đấu ra sao? Tỏi dưa mắt nhin anh Hiến, như muốn cầu cứu anh giúp tôi báo cáo. nhưng anh chỉ cười, có ý bảo: cứ thặt thả mà nói. Thật là lúng túng, tôi Irinh bây tóm tắt. nhiều doạn ngập ngừng, đại thể như thế này: - Anh chị em công nhản theo lời Bác kêu gọi đã cũng toàn dãn dứng lẻn đánh giặc, cứu nước. Nhà máy giấy Đáp cầ u đã Liêu thổ kháng chiến. Nhà cửa. kho làng dã phá hủy. Máy móc thiết bị đưỢc dời về 97
  19. chiến khu. Bằng phưđng tiện Ihõ sơ, chúng tỏi mất bốn năm tháng trời để di chuyển ba nghìn lấn hảng, Lrong đó có trên một nghìn tấn máy móc cồng kềnh, một khối lượng Irẽn sáu mươi vạn tấn cây số. Bình quân mỗi ngày anh chị em thợ chúng tồi phải đưa ba mươi tấn máy móc, vật liệu trẽn quãng đường dài hai trăm cày số. Lúc bấy giờ. trong tay chỉ có mấy chiếc xe chạy bằng dầu ma dút cọc cạch, ngoài ra là xe bò, ngựa thồ, Ihuyền gỗ vả chủ yếu là bằng đỏi vai. Chúng tỏi vữa di chuyển, vừa chiến đấu vã vừa xây đựng. Tôi cũng thưa lại với Bác những đoạn đưdng trèo đèo lội suối, trên đầu Ihì tàu bay giặc bắn phá, dưới đất thì địch tấn cống, trăm nghìn gian khổ. Nhưng anh chị errí vẫn không hề lay chuyển tấm lòng son sát với Đảng, với cuộc kháng chiến trưởng kỳ. Nhiều khi chuyển không kịp phải dìm máy móc và cầm súng tự vệ. Địch đi, anh chị em công nhân lại tiếp tục sản xuất, xây dựng. Sau khi nhà cửa, lán Irại dựng xong, ngày 19-8-1947, nhà máy trong rừng lại bắt dầu hoạt động như cũ. Từ 6 0 0 công nhân phát triển lén quá gấp dôi, phân lán làm nhíéu cơ sở. Điện lại sáng rừng, giấy lại tiếp tục ra lò. Giấy in bạc cho nhu cầu giết giặc. Giấy in sách báo dể phát triển văn hóa giáo dục. Giấy lẽn vùng rẻo cao vớỉ dồng bảo các dân lộc. Giấy vào Trị Thiên, qua Khu 5, vào Khu 6, đi Nam Bộ. Đồng bào, đồng chí ta trong đó ngày ngày khát khao mong đỢi những văn kiện, lải liệu chỉ thị của Đảng, của Bác... Và cũng từ ấy ủy ban công nhân quyết dịnh lấy tên dồng chí 98
  20. Hoàng Văn Thụ, một trong những lãnh tụ xuất sắc của Đảng cộng sản Đông Dương, đ ặl tên cho nhà máy kháng chiến của mình. Buổi tối hôm ấy. lôi báo cáo không đưỢc mạch lạc lắm, nhưng Bác rấl chú ý ỉắng nghe. Thỉnh Ihoảng Bác gật đầu. Tôi ngước nhìn trộm thấy Bác vui, nên cứ tiếp Lục kể. Còn anh Hiến '.hì theo dõi, thỉnh thoảng lại nhắc một vái việc mà lõi quên. Tự nhiên tồi thấy mình bạo hơn. Tõi kể cả những chuyện làm nên. những điều Ihất bại trong lãnh dạo trong dấu tranh cho Bác nghe, mong Bác dạy bảo cho những việc làm, những diều phải tránh. Tôi ngửng một lúc. - Thế nào, hếl chưa? Bác hỏi tôi vậy. - Cháu quên nhiều. Bác dạy gi cháu thưa tiếp. Bác châm mộl điếu thuốc lá, rồi Bác hỏi: - Anh chị em Ihợ lảm việc vả chiến đấu gian khổ như vậy, chú sắp xếp cho công nhân và gia dinh anh chị em ăn ở như thế nào? Cũng may là điều này tôi đã chuẩn bị sẵn trong óc, nên báo cáo rất tỉ m'í với Bác về tình hình ăn ở, về việc dịu phương cung cấp gạo, mắm muối vã việc giúp các gia dinh công nhân tham gia iàm việc trong nhà máy. Tòi kể lại những hy sinh to lớn của anh chị em công nhán trẻ làm việc khòng có lương, ăn uống kham khổ, nhiữỉg trăm người như một đều hướng về Đảng và tin tưởng ở thắng lợỉ ngày mai. Trước hết, B ác đạy tỏi phải chú trọng dến việc nâng cao đời sống cho công nhân. B ác nó í; 99
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2