NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH VỀ TRÁCH NHIỆM CÔNG VỤ CỦA NGƯỜI BỊ KIỆN<br />
TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH<br />
<br />
Nguyễn Mạnh Hùng*<br />
* TS. GV. Khoa Pháp luật Hành chính - Nhà nước, Trường Đại học Luật Hà Nội.<br />
<br />
Thông tin bài viết: Tóm tắt:<br />
Từ khóa: công vụ, trách nhiệm công Ở nước ta, từ ngày 01/07/1996 1, tố tụng hành chính được xác lập<br />
vụ, người bị kiện, tố tụng hành chính đã tạo ra một phương thức giải quyết tranh chấp hành chính mới<br />
với nhiều ưu việt. Đây là phương thức giải quyết tranh chấp mang<br />
Lịch sử bài viết:<br />
tính dân chủ, phù hợp với yêu cầu của Nhà nước pháp quyền nói<br />
Nhận bài : 23/01/2019 chung và xây dựng nền hành chính phục vụ nói riêng. Tuy nhiên,<br />
Biên tập : 19/02/2019 tính ưu việt của phương thức giải quyết tranh chấp này chưa thực<br />
Duyệt bài : 27/02/2019 sự phát huy hiệu quả trong thực tiễn. Một trong những nguyên<br />
nhân dẫn đến tình trạng này là do quy định của pháp luật tố tụng<br />
hành chính hiện hành về trách nhiệm công vụ của người bị kiện<br />
trong tố tụng hành chính chưa đầy đủ, hợp lý.<br />
<br />
Article Infomation: Abstract<br />
Keywords: public duties, liability In Vietnam, since July 1, 1996, the administrative proceedings<br />
of public duties, the sued person, have provided a new method of resolving administrative disputes<br />
administrative proceedings with several advantages. This is a method resolving disputes in<br />
Article History: a democratic manner, in accordance with the requirements of<br />
the rule of law in general and establishment of a public service<br />
Received : 23 Jan. 2019<br />
administration in particular. However, the superiority of this<br />
Edited : 19 Feb. 2019 method has not really promoted its effectiveness in practice. One<br />
Approved : 27 Feb. 2019 of the reasons for this situation is that the provisions of the current<br />
administrative law on public liability of the petitioned people in<br />
administrative proceedings are incomplete and inreasonable.<br />
<br />
<br />
<br />
1. Quan niệm về trách nhiệm công vụ của nghĩa: tích cực và tiêu cực. Theo nghĩa tích<br />
người bị kiện trong tố tụng hành chính cực, “trách nhiệm” được hiểu là bổn phận,<br />
Trong khoa học pháp lý, thuật ngữ vai trò của các tổ chức, cá nhân trong các<br />
“trách nhiệm” có thể được hiểu theo hai quan hệ pháp luật hoặc “được hiểu là nghĩa<br />
<br />
<br />
1 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/1996.<br />
<br />
<br />
Số 6(382) T3/2019 9<br />
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT<br />
<br />
vụ (nói đến những điều pháp luật yêu cầu khác được giao quyền thực hiện, luôn gắn<br />
phải làm trong hiện tại và tương lai)”2. Theo với quyền lực nhà nước. Khi thực hiện công<br />
nghĩa tiêu cực, “trách nhiệm” được hiểu là vụ, người thực hiện công vụ nhân danh, đại<br />
hậu quả pháp lý bất lợi mà tổ chức, cá nhân diện cho quyền lực nhà nước thực hiện, công<br />
vi phạm pháp luật phải gánh chịu thông qua vụ được bảo đảm, bảo vệ bởi Nhà nước bằng<br />
việc nhà nước hạn chế về quyền, lợi ích mà các biện pháp pháp lý, tổ chức và tài chính,<br />
lẽ ra họ đang hoặc sẽ được hưởng bằng cách cưỡng chế”4.<br />
áp dụng các chế tài theo quy định của pháp Từ các quan điểm nêu trên, có thể<br />
luật. Tuy vậy, việc vi phạm trách nhiệm hiểu: Trách nhiệm công vụ là tổng thể các<br />
(theo nghĩa tích cực) luôn làm phát sinh nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức, cá nhân<br />
nguy cơ phải gánh chịu trách nhiệm (theo được thực hiện theo quy định của pháp luật<br />
nghĩa tiêu cực). Điều này là cần thiết để bảo trên cơ sở nhân danh Nhà nước và hậu quả<br />
đảm hiệu lực của pháp luật cũng như tính pháp lý bất lợi mà họ phải gánh chịu nếu vi<br />
hiện thực của các nghĩa vụ pháp lý. Bài viết phạm các nhiệm vụ, quyền hạn này.<br />
này luận giải “trách nhiệm công vụ” cả theo<br />
Hiện nay, trong lĩnh vực tố tụng hành<br />
nghĩa tích cực và nghĩa tiêu cực.<br />
chính (TTHC), vấn đề trách nhiệm công<br />
Ở nước ta, thuật ngữ “công vụ” được vụ của người bị kiện chưa được quan tâm<br />
sử dụng phổ biến, nhưng chưa được pháp nghiên cứu và quy định đầy đủ, hợp lý. Một<br />
luật định nghĩa một cách hoàn chỉnh và đầy trong những nguyên nhân chủ yếu là do ảnh<br />
đủ. Điều 2 Luật Cán bộ, công chức năm hưởng của quan điểm đồng nhất về quyền,<br />
2008 quy định: “Hoạt động công vụ của cán nghĩa vụ giữa người khởi kiện và người bị<br />
bộ, công chức là việc thực hiện nhiệm vụ, kiện (các đương sự) để bảo đảm nguyên tắc<br />
quyền hạn của cán bộ, công chức theo quy bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa các<br />
định của Luật này và các quy định khác có đương sự trong TTHC.<br />
liên quan”. Theo đó, có thể hiểu việc thực<br />
Xét trong mối tương quan với phương<br />
hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công<br />
thức giải quyết khiếu nại hành chính, việc<br />
chức theo quy định của pháp luật là công<br />
quy định và bảo đảm thực hiện nguyên tắc<br />
vụ. Bên cạnh đó, căn cứ vào quy định tại<br />
bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong TTHC<br />
Điều 2 và Điều 3 Luật này, Bách khoa toàn<br />
giữa người khởi kiện và người bị kiện được<br />
thư mở Wikipedia đưa ra định nghĩa: “Công<br />
xác định là ưu điểm vượt trội của phương<br />
vụ là hoạt động do cán bộ, công chức nhân<br />
thức TTHC. Tuy vậy, do người khởi kiện và<br />
danh Nhà nước thực hiện theo quy định của<br />
người bị kiện có nhiều điểm khác biệt về lý<br />
pháp luật và được pháp luật bảo vệ nhằm<br />
do, cách thức, mục đích, tư cách và các điều<br />
phục vụ lợi ích của nhân dân và xã hội”3.<br />
kiện bảo đảm việc tham gia TTHC, nên các<br />
Đây có thể được hiểu là định nghĩa về công<br />
quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý của<br />
vụ theo nghĩa hẹp, vì không chỉ cán bộ, công<br />
chức mới được nhân danh Nhà nước thực họ không thể hoàn toàn như nhau, cụ thể<br />
hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của như sau:<br />
pháp luật. Do đó, có quan điểm cho rằng, Thứ nhất, về lý do và cách thức tham<br />
“Công vụ là công việc hay hoạt động nhà gia TTHC<br />
nước do cán bộ, công chức, những người Theo quy định tại các khoản 8 và 9<br />
<br />
<br />
2 Xem: Trường Đại học Luật Hà Nội: Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2011,<br />
tr. 216.<br />
3 Xem: https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B4ng_v%E1%BB%A5 (truy cập ngày 21/01/2019).<br />
4 Xem: Phạm Hồng Thái (chủ biên): Hợp đồng hành chính trong quản lý nhà nước, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà<br />
Nội, 2016, tr. 64.<br />
<br />
<br />
10 Số 6(382) T3/2019<br />
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT<br />
<br />
Điều 3 Luật TTHC năm 2015, có thể hiểu: năm 2015, mục đích chủ yếu của người khởi<br />
Người khởi kiện trong TTHC là cơ quan, tổ kiện khi tham gia TTHC là bảo vệ quyền, lợi<br />
chức, cá nhân5 khởi kiện vụ án hành chính ích hợp pháp của mình trong quản lý hành<br />
đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính nhà nước. Bên cạnh đó, từ tính chất<br />
chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, công vụ của quyết định hành chính, hành vi<br />
quyết định giải quyết khiếu nại về quyết hành chính bị kiện cho thấy mục đích chủ<br />
định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử yếu của người bị kiện khi tham gia TTHC lại<br />
tri6; Người bị kiện trong TTHC là tổ chức, cá là bảo vệ quyền, lợi ích của Nhà nước, tính<br />
nhân có quyết định hành chính, hành vi hành hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi<br />
chính bị khởi kiện. hành chính bị kiện. Theo đó, khởi kiện vụ án<br />
Về lý luận, người bị kiện trong TTHC hành chính được hiểu là quyền tự vệ và tự<br />
luôn là chủ thể quản lý hành chính nhà nước định đoạt của đối tượng quản lý hành chính<br />
nhà nước, được thực hiện tùy thuộc vào ý<br />
(tổ chức, cá nhân được nhân danh Nhà nước,<br />
chí, nhận thức chủ quan của cá nhân trực<br />
sử dụng quyền hành pháp) đơn phương ban<br />
tiếp thực hiện quyền khởi kiện7; ngược lại,<br />
hành quyết định hành chính, thực hiện hành<br />
việc tham gia TTHC của người bị kiện được<br />
vi hành chính bị kiện trong quá trình thực thi<br />
xác định là trách nhiệm công vụ và không<br />
công vụ. Đây là nguyên nhân phát sinh yêu<br />
phụ thuộc vào ý chí hoặc mong muốn chủ<br />
cầu khởi kiện của đối tượng quản lý hành quan của cá nhân được phân công trực tiếp<br />
chính nhà nước (tổ chức, cá nhân có quyền, tham gia tố tụng.<br />
lợi ích hợp pháp bị ảnh hưởng bởi quyết<br />
định hành chính, hành vi hành chính) theo Thứ ba, về tư cách tham gia TTHC<br />
thủ tục TTHC. Người bị kiện trong TTHC là một bên<br />
Những quan niệm trên cho thấy, người đương sự, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ<br />
với các đương sự khác theo quy định của<br />
khởi kiện chủ động yêu cầu Toà án tiến hành<br />
pháp luật TTHC. Do đó, trong quá trình<br />
TTHC để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp<br />
TTHC, các đương sự đều có quyền đối thoại<br />
của mình và kiểm soát việc thực thi công vụ<br />
với nhau và yêu cầu Toà án tổ chức việc đối<br />
của người bị kiện (ban hành quyết định hành<br />
thoại này; các đương sự đều có quyền yêu<br />
chính, thực hiện hành vi hành chính); còn<br />
cầu các đương sự khác cung cấp tài liệu,<br />
người bị kiện thì lại bị động trước yêu cầu chứng cứ; thoả thuận với nhau để lựa chọn<br />
của người khởi kiện và Tòa án khi tham gia người giám định và người phiên dịch; v.v..8<br />
vào TTHC vì lý do đã thực thi công vụ trong<br />
quản lý hành chính nhà nước. Theo đó, việc Mặc dù trong TTHC, người bị kiện<br />
người bị kiện tham gia TTHC vẫn cần được bình đẳng về ý chí với các đương sự khác<br />
xác định là trách nhiệm công vụ của họ; việc nhưng cũng phải thấy rằng, việc tham gia<br />
vào TTHC với tư cách là người bị kiện<br />
khởi kiện vụ án hành chính của người khởi<br />
không làm “vô hiệu” khả năng sử dụng<br />
kiện và thụ lý vụ án hành chính của Tòa án<br />
quyền lực nhà nước của các chủ thể quản<br />
hiển nhiên không thể làm chấm dứt trách<br />
lý hành chính nhà nước. Do đó, với tư cách<br />
nhiệm công vụ của người bị kiện.<br />
là một bên đương sự trong TTHC, người bị<br />
Thứ hai, về mục đích tham gia TTHC kiện có trách nhiệm tôn trọng việc thực hiện<br />
Theo quy định tại Điều 5 Luật TTHC quyền và nghĩa vụ của các đương sự khác;<br />
<br />
<br />
5 Sau đây gọi chung là tổ chức, cá nhân.<br />
6 Sau đây gọi chung là quyết định hành chính, hành vi hành chính.<br />
7 Xem: Nguyễn Mạnh Hùng, Phân định thẩm quyền giải quyết khiếu nại hành chính và thẩm quyền xét xử hành chính ở<br />
Việt Nam (Sách chuyên khảo; tái bản có chỉnh sửa, bổ sung), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 15, 39.<br />
8 Xem: Các khoản 6, 7, 11 Điều 55; khoản 1 Điều 63; khoản 1 Điều 64 và Điều 138 Luật TTHC năm 2015.<br />
<br />
<br />
Số 6(382) T3/2019 11<br />
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT<br />
<br />
không được sử dụng thẩm quyền quản lý 2. Trách nhiệm công vụ của người bị kiện<br />
hành chính nhà nước của mình để ngăn cản trong tố tụng hành chính theo quy định<br />
các đương sự khác thực hiện quyền, nghĩa của pháp luật hiện hành và giải pháp<br />
vụ của họ hoặc gây khó khăn cho Toà án hoàn thiện<br />
trong quá trình TTHC. Tuy vậy, khi tham Hiện nay, vấn đề trách nhiệm công vụ<br />
gia TTHC, người bị kiện vẫn được và buộc của người bị kiện trong TTHC chưa được<br />
phải nhân danh Nhà nước; vì quyền, lợi ích quan tâm nghiên cứu và quy định đầy đủ.<br />
của Nhà nước. Nói cách khác, việc tham gia Tuy nhiên, pháp luật TTHC hiện hành đã<br />
TTHC của người bị kiện không chỉ là do có một số nội dung thể hiện quan niệm việc<br />
công vụ mà còn là vì công vụ. tham gia TTHC là trách nhiệm công vụ của<br />
Thứ tư, về điều kiện bảo đảm việc người bị kiện, cụ thể như sau.<br />
tham gia TTHC Thứ nhất, khoản 3, 4, 5 Điều 59 Luật<br />
Người bị kiện được Nhà nước bảo TTHC năm 2015 quy định: “3. Trường hợp<br />
đảm về thời gian vật chất, kinh phí, phương người bị kiện là người có thẩm quyền trong<br />
tiện làm việc9 và thậm chí là đội ngũ chuyên cơ quan, tổ chức mà cơ quan, tổ chức đó<br />
môn tham vấn cho việc tham gia TTHC10. hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, giải thể thì<br />
Ngược lại, người khởi kiện phải tự mình tạo người tiếp nhận quyền, nghĩa vụ của người<br />
lập các điều kiện này. đó tham gia tố tụng.<br />
Những lập luận, phân tích trên cho Trường hợp người bị kiện là người có<br />
thấy, việc người bị kiện tham gia TTHC thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức mà chức<br />
không chỉ đơn thuần là việc thực hiện danh đó không còn thì người đứng đầu cơ<br />
quyền, nghĩa vụ TTHC như các đương sự quan, tổ chức đó thực hiện quyền, nghĩa vụ<br />
khác, mà cần xác định đây là trách nhiệm của người bị kiện.<br />
công vụ của người bị kiện. Tuy địa vị pháp 4. Trường hợp người bị kiện là cơ quan,<br />
lý của người bị kiện được biểu hiện trong tổ chức bị hợp nhất, sáp nhập, chia, tách thì<br />
tổng thể các quyền và nghĩa vụ của họ với tư cơ quan, tổ chức kế thừa quyền, nghĩa vụ của<br />
cách là đương sự, nhưng trách nhiệm công cơ quan, tổ chức cũ thực hiện quyền, nghĩa vụ<br />
vụ của người bị kiện trong TTHC chỉ giới tố tụng của cơ quan, tổ chức đó.<br />
hạn trong phạm vi các vấn đề liên quan đến<br />
xử sự có tính bắt buộc và hậu quả pháp lý Trường hợp người bị kiện là cơ quan,<br />
bất lợi. Do đó, có thể hiểu: trách nhiệm công tổ chức đã giải thể mà không có người kế<br />
vụ của người bị kiện trong TTHC là tổng thể thừa quyền, nghĩa vụ thì cơ quan, tổ chức<br />
các nghĩa vụ của người bị kiện được thực cấp trên thực hiện quyền, nghĩa vụ của<br />
hiện theo quy định của pháp luật TTHC trên người bị kiện.<br />
cơ sở nhân danh Nhà nước và hậu quả pháp 5. Trường hợp sáp nhập, chia, tách,<br />
lý bất lợi mà họ phải gánh chịu nếu vi phạm giải thể, điều chỉnh địa giới hành chính<br />
các nghĩa vụ này. Theo đó, việc tham gia trong một đơn vị hành chính mà đối tượng<br />
TTHC của người bị kiện cần có những yêu của quyết định hành chính có sự thay đổi thì<br />
cầu và hậu quả pháp lý khác biệt so với các cơ quan, tổ chức, cá nhân đã ra quyết định<br />
đương sự khác nói chung và người khởi kiện hành chính có trách nhiệm tham gia tố tụng<br />
nói riêng. với tư cách là người bị kiện tại Tòa án nơi cơ<br />
<br />
<br />
9 Về cơ bản, đây là các điều kiện bảo đảm thi hành công vụ được quy định tại Chương VII của Luật Cán bộ, công chức<br />
năm 2008.<br />
10 Xem: Báo cáo Kết quả giám sát “Việc chấp hành pháp luật về TTHC trong giải quyết các vụ án hành chính, thi hành<br />
các bản án, quyết định hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của Chủ tịch UBND, UBND”, số<br />
1516/BC-UBTP14, ngày 26/09/2018 của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, tr. 4, 16.<br />
<br />
<br />
12 Số 6(382) T3/2019<br />
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT<br />
<br />
quan, tổ chức, cá nhân có quyết định hành trong TTHC không nhanh chóng, chủ động<br />
chính bị kiện. Cơ quan tiếp nhận đối tượng và đầy đủ. Theo đó, làm giảm hiệu quả kiểm<br />
của quyết định hành chính bị kiện phải tham soát của TTHC đối với hoạt động công vụ<br />
gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, của nền hành chính quốc gia.<br />
nghĩa vụ liên quan”. Theo quy định tại các khoản 15, 16<br />
Có thể nhận thấy rằng, đây là các Điều 55 Luật TTHC năm 2015, người bị<br />
trường hợp người bị kiện không phải là tổ kiện nói riêng, đương sự nói chung có quyền,<br />
chức, cá nhân trực tiếp ra quyết định hành nghĩa vụ: tham gia phiên tòa, phiên họp và<br />
chính, thực hiện hành vi hành chính bị kiện. phải có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án.<br />
Việc họ tham gia TTHC với tư cách là người Tuy vậy, thực tế trong 03 năm (2015, 2016<br />
bị kiện được pháp luật TTHC quy định trên và 2017) cho thấy, tình trạng người bị kiện<br />
cơ sở sự kế thừa trách nhiệm công vụ của không tham gia đối thoại, không tham gia<br />
nền hành chính quốc gia. Điều này không phiên tòa trong TTHC có xu hướng ngày<br />
chỉ cần thiết để bảo đảm tính thống nhất, càng tăng qua các năm. Tỷ lệ Chủ tịch Ủy<br />
liên tục, thông suốt11 trong hoạt động công ban nhân dân (UBND) và người đại diện<br />
vụ của nền hành chính quốc gia mà còn không tham gia đối thoại, không tham gia<br />
cần thiết để bảo đảm vai trò kiểm soát của phiên tòa trong năm 2015 là 12%; năm 2016<br />
TTHC đối với hoạt động công vụ của nền là 23,78%; năm 2017 là 33,27%. Trong đó,<br />
hành chính quốc gia và tính hiện thực của ở một số địa phương, Chủ tịch UBND và<br />
quyền khởi kiện vụ án hành chính. người đại diện thường xuyên không tham<br />
Thứ hai, khoản 3 Điều 60 Luật TTHC gia phiên tòa, phiên đối thoại, như: ở Hải<br />
năm 2015 quy định: “Trường hợp người bị Phòng: không tham gia 61/61 vụ; ở Điện<br />
kiện là cơ quan, tổ chức hoặc người đứng đầu Biên: không tham gia 13/14 vụ; ở thành phố<br />
cơ quan, tổ chức thì người bị kiện chỉ được Hồ Chí Minh: không tham gia 260/260 phiên<br />
ủy quyền cho cấp phó của mình đại diện. đối thoại tại Tòa án nhân dân thành phố Hồ<br />
Người được ủy quyền phải tham gia vào quá Chí Minh; ở Hà Nội: Tòa án nhân dân thành<br />
trình giải quyết toàn bộ vụ án, thực hiện đầy phố Hà Nội xét xử 189 vụ án nhưng chưa có<br />
đủ các quyền và nghĩa vụ của người bị kiện vụ án nào Chủ tịch và Phó Chủ tịch UBND<br />
theo quy định của Luật này”. Quy định này thành phố Hà Nội tham gia tố tụng. Lý do<br />
đã làm hạn chế hơn sự tự chủ của người bị không tham gia tố tụng được UBND các địa<br />
kiện so với các đương sự khác trong việc phương nêu đều do “bận công tác”13.<br />
uỷ quyền tham gia TTHC cho người khác. Để khắc phục tình trạng trên, để tăng<br />
Tuy nhiên, quy định này là cần thiết để tăng cường trách nhiệm của người bị kiện trong<br />
cường trách nhiệm công vụ trong TTHC của TTHC, bảo đảm nguyên tắc công khai, minh<br />
người bị kiện nói riêng và nền hành chính bạch và có sự kiểm tra, giám sát14 trong thi<br />
quốc gia nói chung, đồng thời khắc phục tình hành công vụ của người bị kiện, pháp luật<br />
trạng: “người bị kiện uỷ quyền cho người TTHC cần quy định nhất quán, rõ ràng việc<br />
khác tham gia tố tụng nhưng người được uỷ tham gia các phiên toà, phiên họp là nghĩa<br />
quyền không được quyền quyết định đối với vụ của người bị kiện; đồng thời không cho<br />
đối tượng bị khởi kiện”12 dẫn đến việc thực phép người bị kiện được miễn trừ nghĩa vụ<br />
hiện các quyền, nghĩa vụ của người bị kiện này vì bất cứ lý do gì. Hơn nữa, những quy<br />
<br />
<br />
11 Xem: Khoản 4 Điều 3 Luật Cán bộ, công chức năm 2008.<br />
12 Xem: Tờ trình số 04/TTr-TANDTC ngày 10/04/2015 của Tòa án nhân dân tối cao về Dự án Luật TTHC (sửa đổi), tr. 2.<br />
13 Xem: Báo cáo số 1516/BC-UBTP14, tlđd, tr. 5.<br />
14 Xem: Khoản 3 Điều 3 Luật Cán bộ, công chức năm 2008.<br />
<br />
<br />
Số 6(382) T3/2019 13<br />
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT<br />
<br />
định này còn cần thiết để góp phần bảo đảm đủ tài liệu, chứng cứ do Tòa án yêu cầu mà<br />
tính hiện thực của quy định tại khoản 2 Điều không có lý do chính đáng thì Tòa án căn cứ<br />
8 Hiến pháp năm 2013: “Các cơ quan nhà vào tài liệu, chứng cứ mà đương sự đã giao<br />
nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn nộp và Tòa án đã thu thập theo quy định tại<br />
trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, khoản 2 Điều 84 của Luật này để giải quyết<br />
liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý vụ án”. Đây là lý do chính dẫn đến tình trạng,<br />
kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân”. “một số vụ án, người bị kiện cung cấp chứng<br />
Thứ ba, khoản 2 Điều 78 Luật TTHC cứ không đúng thời hạn, không đầy đủ, có<br />
năm 2015 quy định: “Người bị kiện có những trường hợp Tòa án phải nhiều lần làm<br />
nghĩa vụ cung cấp cho Tòa án hồ sơ giải văn bản đôn đốc, thậm chí không hợp tác<br />
quyết khiếu nại (nếu có) và bản sao các văn trong việc cung cấp chứng cứ và cũng không<br />
bản, tài liệu mà căn cứ vào đó để ra quyết trả lời Tòa án, dẫn đến kéo dài thời gian giải<br />
định hành chính, quyết định kỷ luật buộc quyết, người khởi kiện không tiếp cận được<br />
thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về chứng cứ theo quy định”16.<br />
quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh hoặc có Để khắc phục hạn chế nêu trên, pháp<br />
hành vi hành chính”. Quy định này là cần luật TTHC cần quy định: chứng minh tính<br />
thiết để chứng minh tính hợp pháp của quyết hợp pháp của quyết định, hành vi bị kiện là<br />
định, hành vi bị kiện. Bên cạnh đó, khoản nghĩa vụ của người bị kiện; đồng thời quy<br />
3 Điều 57 Luật TTHC năm 2015 cũng quy định, trường hợp người bị kiện không cung<br />
định quyền, nghĩa vụ của người bị kiện là cấp hoặc cung cấp không đầy đủ trong thời<br />
“chứng minh tính đúng đắn, hợp pháp của hạn do pháp luật quy định mà không có lý<br />
quyết định hành chính, hành vi hành chính do chính đáng bản sao các văn bản, tài liệu<br />
bị khởi kiện”. Như vậy, điểm hạn chế của mà căn cứ vào đó để ra quyết định bị kiện<br />
pháp luật hiện hành là không quy định rõ hoặc có hành vi bị kiện thì Toà án phải kết<br />
ràng về nghĩa vụ chứng minh tính đúng đắn, luận việc ra quyết định hoặc thực hiện hành<br />
hợp pháp của quyết định, hành vi bị khởi vi này là trái pháp luật (do không có đủ căn<br />
kiện của người bị kiện mặc dù nghĩa vụ này cứ để chứng minh các quyết định, hành vi<br />
cần được hiểu là trách nhiệm công vụ đương này là hợp pháp).<br />
nhiên của họ được xác lập ngay trước khi Thứ tư, theo quy định của khoản 4 Điều<br />
ban hành quyết định, thực hiện hành vi này 57 Luật TTHC năm 2015, “sửa đổi hoặc hủy<br />
trong quản lý hành chính nhà nước. Minh bỏ quyết định hành chính, quyết định kỷ luật<br />
chứng cho vấn đề này, có thể đơn cử quy buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu<br />
định có tính nguyên tắc trong xử phạt vi nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh,<br />
phạm hành chính: “người có thẩm quyền xử danh sách cử tri bị khởi kiện; dừng, khắc<br />
phạt có trách nhiệm chứng minh vi phạm phục hành vi hành chính bị khởi kiện” là<br />
hành chính”15. quyền, nghĩa vụ của người bị kiện. Mặc dù<br />
Mặt khác, Luật TTHC năm 2015 quy định này nhằm bảo đảm tính tự chủ, tự<br />
không bao hàm quy định về hậu quả pháp lý chịu trách nhiệm của nền hành chính quốc<br />
riêng biệt khi người bị kiện vi phạm nghĩa gia, nhưng lại chưa có sự phân định cần thiết<br />
vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ. Khoản 1 Điều giữa quyền và nghĩa vụ của người bị kiện.<br />
83 Luật TTHC năm 2015 quy định: “Nếu Vì vậy, trên thực tế, quy định này chưa thực<br />
đương sự không nộp hoặc nộp không đầy sự phát huy được hiệu quả và cũng chưa đáp<br />
(Xem tiếp trang 23)<br />
<br />
15 Xem: Điểm đ khoản 1 Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012.<br />
16 Xem: Báo cáo số 1516/BC-UBTP14, tlđd, tr. 5, 6; Báo cáo của Tòa án nhân dân tối cao Tổng kết công tác năm 2014<br />
và nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2015 của các Tòa án, tr. 25.<br />
<br />
<br />
14 Số 6(382) T3/2019<br />