Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật<br />
<br />
HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÁP LUẬT VIỆC LÀM<br />
Ở VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH MỚI CỦA TOÀN CẦU HÓA<br />
VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0<br />
Nguyễn Khánh Vân*<br />
<br />
<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Việc làm và giải quyết việc làm được thừa<br />
nhận có vai trò quan trọng trong việc ổn định<br />
tình hình chính trị - xã hội, là điều kiện quan<br />
trọng nhất để xóa đói giảm nghèo và phát triển<br />
đất nước. Giải quyết việc làm là một chính sách<br />
lớn của Nhà nước thông qua pháp luật việc làm<br />
cùng hàng loạt cơ chế, biện pháp pháp lý và<br />
kinh tế - xã hội nhằm mục tiêu phát triển kinh tế<br />
và đảm bảo các vấn đề an sinh xã hội.<br />
Pháp luật về việc làm không chỉ điều chỉnh<br />
quan hệ tạo và giải quyết việc làm mà còn có<br />
vai trò khắc phục những hoàn cảnh đặc biệt ảnh<br />
hưởng đến việc làm, đời sống của người lao động,<br />
trong đó có vấn đề mất hoặc giảm sút chất lượng<br />
việc làm do suy thoái kinh tế - hiện tượng dễ xảy<br />
<br />
ra trong nền kinh tế thị trường. Ở Việt Nam, tuy<br />
nước ta đã thoát khỏi suy giảm kinh tế, song việc<br />
nhìn nhận và đưa ra các giải pháp nhằm hạn<br />
chế tác động của nó vẫn mang một ý nghĩa quan<br />
trọng, nhất là trong bối cảnh mới của toàn cầu<br />
hóa và cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện<br />
nay, nước ta phải đương đầu với nhiều khó khăn,<br />
thách thức trong đó có vấn đề về việc làm. Do đó,<br />
yêu cầu hoàn thiện, nâng cao pháp luật về việc<br />
làm rất cấp bách. Bài viết phân tích một số yêu<br />
cầu bức thiết hoàn thiện pháp luật việc làm và đề<br />
xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả pháp<br />
luật việc làm trong bối cảnh mới.<br />
Từ khóa: hoàn thiện, nâng cao, pháp luật<br />
việc làm<br />
<br />
IMPROVING AND ENHANCING THE EFFECTIVENESS OF EMPLOYMENT LAW<br />
IN VIETNAM IN THE NEW CONTEXT OF GLOBALIZATION AND THE FOURTH<br />
INDUSTRIAL REVOLUTION<br />
ABSTRACT<br />
to happen in a market economy. In Vietnam,<br />
although our country has escaped from the<br />
economic downturn, recognizing and offering<br />
solutions to limit its impact is still important,<br />
especially in the new context of globalization.<br />
And the fourth industrial revolution today,<br />
our country has to face many difficulties and<br />
challenges including employment problems.<br />
Therefore, the requirement to improve, improve<br />
the law on employment is very urgent.The<br />
paper analyzes some urgent requirements<br />
for improving employment law; Propose<br />
some solutions to improve the effectiveness of<br />
employment law in the new context.<br />
Keywords: complete, advanced, promulgated<br />
employment law<br />
<br />
Employment and job creation are<br />
recognized as important in stabilizing sociopolitical situation, which is the most important<br />
condition for poverty alleviation and national<br />
development. Job creation is a major policy<br />
of the State through employment law and a<br />
series of legal and socio-economic mechanisms,<br />
measures aimed at economic development and<br />
social issues.<br />
The law on employment not only regulates<br />
employment creation and employment but<br />
also plays a role in overcoming the special<br />
circumstances affecting the employment and<br />
living conditions of workers, including loss or<br />
reduction.The quality of employment due to<br />
economic recession - a phenomenon that is easy<br />
*<br />
<br />
TS. GV. Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh. Email: khanhvan@ueh.edu.vn<br />
86<br />
<br />
Hoàn thiện và nâng cao hiệu quả pháp luật ...<br />
<br />
1. ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
<br />
hẹp qui mô, phá sản, giải thể. Điều này dẫn<br />
đến lao động bị tinh giảm, mất việc. Chính từ<br />
thực tế đó mà chúng ta càng thấy được vai trò<br />
và vị trí của các doanh nghiệp là rất lớn. Hàng<br />
năm, doanh nghiệp đã giải quyết được một số<br />
lượng lao động rất lớn cho xã hội, ngược lại<br />
nếu doanh nghiệp gặp khó khăn thì hậu quả<br />
cũng gây ra không nhỏ cho thị trường lao<br />
động. Do vậy, việc đề cao vị trí và vai trò của<br />
doanh nghiệp là rất cần thiết khi có chính sách<br />
giải quyết việc làm, đặc biệt trong điều kiện<br />
bối cảnh mới của toàn cầu hóa.<br />
<br />
Dưới góc độ pháp lý: “Việc làm là hoạt<br />
động lao động tạo ra thu nhập mà không bị<br />
pháp luật cấm; Nhà nước, người sử dụng lao<br />
động và xã hội có trách nhiệm tham gia giải<br />
quyết việc làm, bảo đảm cho mọi người có<br />
khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm”<br />
theo Điều 9 Bộ luật lao động hiện hành. Có thể<br />
khẳng định giải quyết việc làm là một chính<br />
sách lớn của Nhà nước Việt Nam. Thông qua<br />
pháp luật việc làm cùng hàng loạt cơ chế,<br />
biện pháp pháp lý và kinh tế - xã hội nhằm<br />
tạo việc làm, hạn chế thất nghiệp với mục tiêu<br />
phát triển kinh tế và đảm bảo thực hiện tiến<br />
bộ, công bằng xã hội. Do vậy, việc hoàn thiện<br />
pháp luật việc làm trong bối cảnh mới phải<br />
đáp ứng các yêu cầu sau:<br />
<br />
1.3. Thích ứng và hỗ trợ kịp thời người<br />
lao động khi có những thay đổi dẫn đến mất<br />
việc làm<br />
Pháp luật với vai trò là công cụ để Nhà<br />
nước điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm ổn<br />
định trật tự chung cho xã hội. Vì vậy mà nó<br />
phải kịp thời đáp ứng những sự biến đổi của<br />
thực tế xã hội. Trong vấn đề giải quyết việc<br />
làm cũng vậy, với bối cảnh mới của toàn cầu<br />
hóa và cách mạng công nghiệp lần thứ tư các<br />
nhà hoạch định chính sách, nhà làm luật phải<br />
nhanh nhậy dự đoán tình hình thực tế, để ra<br />
những quyết sách đúng đắn. Khi có sự thay<br />
đổi công việc dẫn đến mất việc làm thì với<br />
tư cách đó pháp luật phải thích ứng và hỗ trợ<br />
kịp thời giúp đỡ người lao động qua được thời<br />
gian khó khăn, khủng hoảng này, cũng nhờ đó<br />
ổn định được trật tự chung cho xã hội.<br />
<br />
1.1. Gắn giải quyết việc làm với mục tiêu<br />
phát triển kinh tế - xã hội<br />
Cũng như nhiều vấn đề pháp lý khác, pháp<br />
luật về việc làm cũng cần phải được hoàn<br />
thiện, đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của thực<br />
tế phát triển kinh tế- xã hội đất nước. Trong<br />
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 20112020, Đại hội lần thứ XI của Đảng, xác định<br />
nước ta cần có “Chiến lược tiếp tục đẩy mạnh<br />
công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển<br />
nhanh, bền vững; phát huy sức mạnh toàn dân<br />
tộc, xây dựng nước ta trở thành nước công<br />
nghiệp theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Cụ<br />
thể, “Quan điểm phát triển trong chiến lược<br />
phát triển kinh tế xã hội 2011-2020” nêu: Phát<br />
triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ<br />
khoa học, công nghệ ngày càng cao đồng thời<br />
hoàn thiện quan hệ sản xuất và thể chế kinh tế<br />
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.<br />
<br />
cao<br />
<br />
1.4. Chất lượng việc làm ngày càng nâng<br />
<br />
Hiện nay, trong quá trình giải quyết việc<br />
làm, một chủ trương rất được quan tâm đó là<br />
giải quyết việc làm phải ngày càng nâng cao<br />
chất lượng việc làm. Khi Việt Nam gia nhập<br />
Tổ chức thương mại thế giới thì việc cạnh tranh<br />
giữa các doanh nghiệp cũng như thị trường lao<br />
động trong nước còn có một thách thức lớn đó<br />
là doanh nghiệp và thị trường lao động nước<br />
ngoài. Chính vì vậy mà lao động trong nước<br />
càng phải nỗ lực cả về trình độ chuyên môn và<br />
<br />
1.2. Đề cao vai trò, vị trí của doanh nghiệp<br />
trong giải quyết việc làm<br />
Doanh nghiệp là một chủ thể rất quan<br />
trọng trong giải quyết việc làm trong bối cảnh<br />
suy thoái kinh tế. Thực tế cho thấy, khi diễn<br />
ra suy thoái kinh tế các doanh nghiệp phải thu<br />
87<br />
<br />
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật<br />
<br />
tinh thần trách nhiệm, kỷ luật lao động trong<br />
công việc để có thể cạnh tranh với thị trường<br />
lao động quốc tế vốn rất nhiều ưu thế đối với<br />
một đất nước đang trên đà phát triển như nước<br />
ta. Hơn nữa họ còn phải làm vừa lòng không<br />
những các doanh nghiệp trong nước mà cả các<br />
doanh nghiệp nước ngoài đã có bề dầy kinh<br />
nghiệm và rất khó tính.<br />
<br />
việc này đã mang tới rất nhiều lợi ích cho cả<br />
nhà tuyển dụng cũng như người tìm việc. Việc<br />
tăng cường thông tin việc làm trên Internet, hội<br />
chợ việc làm định kỳ là rất hữu ích và cần thiết.<br />
Do đó pháp luật về giải quyết việc làm phải có<br />
những quy định quan tâm tới vấn đề này.<br />
2. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆC LÀM<br />
Ở VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH MỚI<br />
<br />
1.5. Tạo ra môi trường pháp luật cho hợp<br />
tác quốc tế tầm khu vực và thế giới về lao<br />
động, việc làm, di chuyển lao động<br />
<br />
2.1. Hoàn thiện quy định pháp luật về<br />
việc làm<br />
Khung pháp luật về việc làm được hiểu là<br />
toàn bộ các quy định căn bản nhất của Nhà nước<br />
về việc làm nhằm tạo một mặt bằng pháp luật<br />
thống nhất, một môi trường pháp luật thuận lợi,<br />
hàng lang pháp luật thông thoáng, cơ sở pháp<br />
lý vững chắc để các chủ thể thực hiện quyền<br />
và nghĩa vụ của mình trong lĩnh vực việc làm.<br />
Trong đó, Nhà nước điều tiết các hoạt động<br />
trong lĩnh vực việc làm theo các nguyên tắc, định<br />
hướng chung. Để có khung pháp luật ngày càng<br />
hoàn thiện, cần giải quyết những vấn đề sau:<br />
<br />
Trong nền kinh tế hội nhập như hiện nay,<br />
một môi trường pháp lý thông thoáng, nhiều<br />
điều kiện, ưu thế để thu hút sự hợp tác của các<br />
nước trên thế giới vào Việt Nam là điều không<br />
thể thiếu được.Về lao động và di chuyển lao<br />
động giữa các quốc gia rất có lợi cho đất nước<br />
ta, với một quốc gia có nguồn lao động trẻ<br />
nhiều và ít kinh nghiệm cần học hỏi rất nhiều<br />
từ các nước phát triển. Vì vậy, về thủ tục pháp<br />
lý cũng như các điều kiện “mở” là rất cần thiết<br />
để chúng ta hội nhập với quốc tế. Nhiều quốc<br />
gia trên thế giới thích hợp tác với Việt Nam<br />
nhưng lại e ngại về pháp luật mà đặc biệt các<br />
thủ tục pháp lý. Do đó, để xóa bỏ bức ngăn này<br />
thì việc tạo một môi trường pháp lý thoáng,<br />
bớt cồng kềnh các thủ tục hành chính, thêm<br />
vào các điều kiện khuyến khích các quốc gia<br />
hợp tác với Việt Nam thì chúng ta sẽ có triển<br />
vọng hơn rất nhiều.<br />
1.6. Tăng cường thông tin việc làm trong<br />
xã hội<br />
<br />
Thứ nhất, Nhà nước cần tạo sự thống nhất,<br />
đồng bộ trong hệ thống các văn bản pháp luật<br />
về việc làm từ Hiến pháp đến các đạo luật và<br />
các văn bản pháp luật khác. Đồng thời, hoàn<br />
thiện chế định về việc làm trong luật lao động.<br />
Các quy đinh trong các văn bản này phải bảo<br />
đảm đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của<br />
công cuộc phát triển kinh tế - xã hội đất nước,<br />
mặt khác phải tiếp cận các tiêu chuẩn quốc tế<br />
trong lĩnh vực việc làm.<br />
<br />
Trước đây, khi lao động muốn tìm việc<br />
làm, nhất là sinh viên mới tốt nghiệp ra trường<br />
đi xin việc rất khó khăn. Hiện nay, với thời đại<br />
bùng nổ thông tin, các thông tin tuyển dụng đều<br />
công khai trên Internet, người tìm việc và nhà<br />
tuyển dụng gặp gỡ nhau trên Internet rất thuận<br />
tiện và đỡ mất thời gian, công, của. Người tìm<br />
việc được đưa hồ sơ lên mạng để tìm việc, còn<br />
nhà tuyển dụng thì dễ dàng chọn các ứng viên<br />
phù hợp trước khi mời tới phỏng vấn. Chính<br />
<br />
Chính phủ cần khẩn trương ban hành các<br />
Nghị định hướng dẫn chi tiết thi hành các quy<br />
định của Bộ Luật Lao Động hiện hành. Trong<br />
lĩnh vực việc làm, cần sớm xây dựng và ban<br />
hành các chế độ chế độ hỗ trợ tài chính, khuyến<br />
khích các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân thuộc<br />
mọi thành phần kinh tế tạo việc làm cho nhiều<br />
người lao động; chế độ cho vay vốn để làm việc<br />
có thời hạn ở nước ngoài; chế độ cho vay vốn<br />
tự tạo việc làm; chế độ ưu đãi giải quyết việc<br />
88<br />
<br />
Hoàn thiện và nâng cao hiệu quả pháp luật ...<br />
<br />
làm để thu hút và sử dụng lao động là người<br />
dân tộc thiểu số; chế độ tạo việc làm ở khu vực<br />
nông thôn; chế độ đào tạo nghề và đào tạo lại<br />
nghề cho người lao động; chế độ bồi dưỡng<br />
nâng cao trình độ đáp ứng phát triển sản xuất<br />
và công nghiệp mới. Bên cạnh đó, cần xây<br />
dựng các quy định về giải quyết việc làm cho<br />
đối tượng là sinh viên, học sinh đã tốt nghiệp<br />
các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên<br />
nghiệp; chế độ giải quyết việc làm cho quân<br />
nhân, chiến sĩ công an nhân dân sau khi hoàn<br />
thành nghĩa vụ; chế độ giải quyết việc làm cho<br />
một số đối tượng xã hội khác như phạm nhân<br />
đã mãn hạn tù, hết hạn tập trung cải tạo… giúp<br />
họ sớm tái hòa nhập cộng đồng.<br />
<br />
mang tính hình thức trong việc ưu tiên các lao<br />
động nữ.<br />
2.2. Xúc tiến nghiên cứu xây dựng đạo<br />
luật việc làm<br />
Việc làm một trong những mối quan tâm<br />
hàng đầu của nước ta trong nhiều năm nay, có<br />
tầm quan trọng đối với quan hệ lao động, đối<br />
với thị trường lao động, vừa mang tính toàn<br />
quốc, vừa mang tính toàn cầu. Trong hệ thống<br />
pháp luật về việc làm, từ Bộ Luật Lao Động<br />
đến các văn bản pháp luật về việc làm khác,<br />
vấn đề việc làm luôn là trọng tâm và được đề<br />
cập đến nhiều nhất, hơn nữa như đã phân tích ở<br />
trên thì pháp luật việc làm còn tản mạn, chồng<br />
chéo ở nhiều văn bản nên cần thiết phải có một<br />
văn bản quy định riêng về việc làm, đó là đạo<br />
luật việc làm. Luật việc làm ra đời có thể khắc<br />
phục được những bất cập trên, sẽ bao quát được<br />
các nội dung, thể hiện được các cơ chế pháp<br />
lý như quan niệm về việc làm,thất nghiệp, các<br />
biện pháp pháp lý nhằm giải quyêt việc làm,<br />
trách nhiệm của Nhà nước, trách nhiệm của<br />
người lao động, người sử dụng lao động…<br />
<br />
Thứ hai, cần nghiên cứu sửa đổi bổ sung<br />
quy định của Bộ Luật Lao Động về chương<br />
trình và quỹ việc làm cho phù hợp với tình<br />
hình thực tế. Chế độ pháp lý về việc làm ở Việt<br />
Nam cần những thay đổi nhất định để hoàn<br />
thiện hơn, hợp lý hơn, tạo ra mặt bằng pháp lý<br />
thông thoáng, có cơ sở chắc chắn để các chủ<br />
thể thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên<br />
trong vấn đề việc làm. Bởi lẽ theo quy định<br />
hiện hành, hàng năm chính phủ trình Quốc hội<br />
quyết định chương trình và quỹ quốc gia về<br />
việc làm. Đây là một quy định chưa thực sự<br />
phù hợp với thực tiễn, thiếu tính khả thi. Bởi<br />
lẽ hiện tại, thông thường Chính phủ và Ủy Ban<br />
Nhân Dân cấp tỉnh chủ yếu đưa ra các chỉ tiêu<br />
về việc làm trong một năm và cố gắng thực<br />
hện các chỉ tiêu đó, việc trình lên chương trình<br />
và quỹ quốc gia hàng năm về việc làm đôi khi<br />
mang tính hình thức. Một vấn đề nữa là chưa<br />
có cơ chế quản lý quỹ việc làm quốc gia, điều<br />
này cũng khiến cho quỹ việc làm chưa được<br />
thực hiện có hiệu quả, vì vậy cần nghiên cứu<br />
sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật về<br />
Chương trình và quỹ việc làm cho phù hợp với<br />
tình hình việc làm hiện nay. Đối với lao động<br />
đặc thù, mà điển hình là lao động nữ, các quy<br />
định của pháp luật nên sửa đổi các quy định<br />
<br />
2.3. Xúc tiến nghiên cứu xây dựng Luật về<br />
người nước ngoài làm việc ở Việt Nam<br />
Trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế<br />
như hiện nay thì việc các nước xuất khẩu lao<br />
động sang nhau là điều tất yếu. Mặc dù kinh<br />
tế Việt Nam vẫn đang phát triển nhưng thực tế<br />
cũng đã có khá nhiều lao động nước ngoài sinh<br />
sống và làm việc ở Việt Nam. Chính vì vậy<br />
trước tình hình thực tế, cũng như về tương lai<br />
không xa nữa chúng ta cần có một khung pháp<br />
lý có giá trị hiệu lực cao là Luật về người nước<br />
ngoài làm việc ở Việt Nam để điều chỉnh vấn<br />
đề này thay cho Nghị định hướng dẫn những<br />
điều trong Bộ Luật Lao Động. Điều này là rất<br />
cần thiết với một thị trường lao động dồi dào,<br />
đa dạng như hiện nay hoặc có thể dùng từ “thị<br />
trường lao động quốc tế”, Việt Nam cần có<br />
một khung pháp luật chuẩn, chi tiết, giá trị<br />
89<br />
<br />
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật<br />
<br />
Thứ nhất, cần đưa vấn đề này vào trong<br />
một tổng thể của chiến lược phát triển kinh<br />
tế, trong đó điểm mấu chốt là giải quyết công<br />
ăn việc làm cho mọi người có khả năng lao<br />
động. Việc xây dựng cơ sở hạ tầng, việc dùng<br />
ngân sách để yểm trợ các dự án phát triển công<br />
nghệ phải hướng vào điểm mấu chốt đó. Việc<br />
hoạch định chính sách theo hướng đó và công<br />
bố rộng rãi chính sách này sẽ làm người dân<br />
tin tưởng vào tương lai đất nước, thấy an tâm<br />
là mình sẽ không bị bỏ rơi trong quá trình phát<br />
triển và như vậy giảm được áp lực khi tham<br />
gia xuất khẩu lao động;<br />
<br />
pháp lý cao để điều chỉnh các vấn đề lao động<br />
có yếu tố nước ngoài.<br />
3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GIẢI QUYẾT<br />
HIỆU QUẢ VIỆC LÀM Ở VIỆT NAM<br />
3.1. Xây dựng có hiệu quả Chương trình<br />
quốc gia về việc làm<br />
Theo từng giai đoạn, Nhà nước đưa ra<br />
các Chương trình quốc gia về việc làm, các<br />
chương trình này cũng là một hình thức nhằm<br />
nâng cao hiệu quả giải quyết việc làm, là mục<br />
tiêu chung cho phát triển kinh tế, xã hội. Trong<br />
thời gian tới, các chương trình quốc gia về<br />
việc làm vẫn là một giải pháp hữu hiệu nhưng<br />
cần có những chính sách, cơ chế cho phù hợp<br />
với từng giai đoạn, thời kỳ và đáp ứng nhu cầu<br />
hiện tại. Ngoài ra, để đảm bảo hiệu quả của<br />
các chương trình này, cần thực hiện đồng bộ<br />
các giải pháp trong lĩnh vực kinh tế, tạo việc<br />
làm cũng như hỗ trợ trực tiếp tạo việc làm và<br />
phát triển thị trường lao động. Đó là, việc kết<br />
hợp đồng thời giữa các chương trình kinh tế<br />
như chương trình phát triển nông nghiệp, công<br />
nghiệp, dịch vụ, chương trình xuất khẩu lao<br />
động, các chương trình đào tạo nghề, nâng cao<br />
trình độ lao động…<br />
<br />
Thứ hai, đặt kế hoạch đưa lao động đi<br />
thực tập và làm việc tại các nước phát triển<br />
theo một chương trình chuẩn bị chu đáo để<br />
bảo đảm người lao động có thể học tập qua<br />
công việc và quyền lợi lao động được bảo vệ.<br />
Nâng cao trình độ lao động đi xuất khẩu để họ<br />
có một trình độ học vấn nhất định, để làm tốt<br />
công việc của mình và dẽ thích nghi với điều<br />
kiện văn hóa.<br />
Thứ ba, trong vài năm tới, vấn đề xuất<br />
khẩu lao động vẫn là một hiện tượng phổ biến,<br />
do đó cần tổ chức tốt để hoạt động này có hiệu<br />
quả hơn, tránh tình trạnh lao động bị bóc lột<br />
như trong thời gian qua. Nói cụ thể hơn, cần<br />
thu thập, phân tích thông tin liên quan đến thị<br />
trường lao động, tổ chức theo dõi, quản lý tại<br />
các nước và phổ biến rộng rãi trong nước để<br />
người dân có đủ cơ sở chọn lựa có nệ tham gia<br />
xuất khẩu lao động hay không.<br />
<br />
3.2. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế để đưa<br />
người lao động đi làm việc ở nước ngoài đối<br />
với các thị trường hiện tại và tiềm năng<br />
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, việc di<br />
chuyển lao động từ quốc gia này sang quốc gia<br />
khác đã trở thành hiện trường khá phổ biến.<br />
Việt Nam hiện là một trong những nước hàng<br />
đầu khu vực Đông Nam Á về “xuất khẩu lao<br />
động”. Tuy nhiên, xuất khẩu lao động vẫn là<br />
một trong những vấn đề cần được quan tâm<br />
khi các hiện tượng xấu trong lĩnh vực này ngày<br />
càng trầm trọng, vì vậy, cần phải có những<br />
biện pháp quan trọng nhằm đưa xuất khẩu lao<br />
động trở thành một biện pháp giải quyết việc<br />
làm hữu hiệu và lành mạnh:<br />
<br />
3.3. Đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm<br />
Trong vấn đề giải quyết việc làm, đào tạo<br />
nghề là một biện pháp nhằm nâng cao trình độ<br />
người lao động, vì vậy vấn đề này luôn được<br />
quan tâm đến một cách có hệ thống. Với một<br />
nền kinh tế cần có đội ngũ lao động có kiến<br />
thức, kỹ năng nghề với cơ cấu và trình độ phù<br />
phù hợp lại càng đòi hỏi dạy nghề phải thay<br />
đổi mạnh mẽ, phát triển nhanh mới đáp ứng<br />
nhu cầu bức thiết cho nền kinh tế. Trong các<br />
90<br />
<br />