HƯỚNG DẪN SINH VIÊN TIẾP CẬN TÍN NGƯỠNG PHỒN THỰC<br />
TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA<br />
DƯƠNG THỊ THANH HUYỀN<br />
Đại học Nha Trang<br />
Tóm tắt: Tín ngưỡng Phồn thực (culte de féccodite) là một hiện tượng mang<br />
tính phổ biến trên toàn thế giới. Nó mang một ý nghĩa triết lí cao đẹp, là<br />
nguồn gốc của mọi sự sinh tồn và phát triển. Thế nhưng trên thực tế, do bị<br />
chi phối bởi những quan niệm lệch lạc hoặc cổ hủ nên SV ít được quan tâm<br />
tìm hiểu nghiên cứu. Việc xác định vị trí vai trò của Tín ngưỡng phồn thực<br />
để từ đó định hướng cho sinh viên tiếp cận lĩnh vực kì thú này là công việc<br />
mang ý nghĩa thiết dụng. Nhận thức đúng bản chất và nghiên cứu nghiêm túc<br />
Tín ngưỡng Phồn thực là sự biểu hiện của phẩm chất, năng lực của các chủ<br />
thể văn hóa, giúp họ tự tin thể hiện chủ kiến và bản lĩnh của mình trước các<br />
giá trị văn hóa mà nhiều thế hệ cha ông đã tạo dựng, vun bồi.<br />
Từ khóa: Tín ngưỡng, Phồn thực, ý nghĩa, sinh sôi, văn hóa, tôn thờ, phát<br />
triển, sinh viên.<br />
<br />
1. MỞ ĐẦU<br />
Tín ngưỡng Phồn thực (TNPT) được đề cập trong Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân<br />
thuộc học phần Cơ sở Văn hóa Việt Nam là một hiện tượng mang tính phổ biến trên<br />
toàn thế giới. Nó mang một ý nghĩa triết lí cao đẹp, là nguồn gốc của mọi sự sinh tồn và<br />
phát triển. Thế nhưng trên thực tế, do bị chi phối bởi những quan niệm lệch lạc hoặc cổ<br />
hủ, thiếu khai phóng, phần lớn các chủ thể văn hóa (trong đó có không ít học sinh sinh<br />
viên) thường cho rằng những gì liên quan đến tình dục, đến sự “sinh sôi nảy nở” đều<br />
xấu xa, dung tục nên ít quan tâm tìm hiểu nghiên cứu. Hoặc giả, nếu có tìm hiểu cũng<br />
không dám công khai, có tâm lí ngượng ngùng, né tránh. Trong lúc Tín ngưỡng phồn<br />
thực là một trong những yếu tố tinh thần khởi phát sớm nhất trong lịch sử, có vị trí quan<br />
trọng trong đời sống tinh thần của người Việt Nam.<br />
Trong quá trình nghiên cứu và giảng dạy, chúng tôi nhận thấy hướng dẫn sinh viên tiếp<br />
cận Tín ngưỡng Phồn thực từ góc nhìn văn hóa là một công việc có ý nghĩa thiết dụng.<br />
Bởi thông qua nó, mỗi cá nhân có cơ hội hiểu biết thấu đáo hơn các phương diện, chiều<br />
kích và tầng sâu nền văn hóa dân tộc, đồng thời thể hiện bản lĩnh, tình cảm, thái độ của<br />
mình trước di sản văn hóa của cha ông để lại. Thực hiện tốt công việc này cũng đồng<br />
nghĩa với việc hiện thực hóa mục tiêu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực mà nghị<br />
quyết đại hội XI của Đảng đã đề ra. Có nghĩa là, nhiệm vụ của người giảng viên đại học<br />
không chỉ bồi đắp tri thức, rèn luyện kĩ năng mà còn tạo điều kiện để người học xây<br />
dựng ý thức thái độ trân quí đối với các giá trị văn hóa dân tộc.<br />
<br />
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế<br />
ISSN 1859-1612, Số 01(29)/2014: tr. 47-54<br />
<br />
48<br />
<br />
DƯƠNG THỊ THANH HUYỀN<br />
<br />
2. HƯỚNG DẪN SINH VIÊN TIẾP CẬN TÍN NGƯỠNG PHỒN THỰC TỪ GÓC<br />
NHÌN VĂN HÓA<br />
Trong giới hạn cho phép của một bài báo khoa học, chúng tôi tập trung đề cập đến việc<br />
hướng dẫn, giúp sinh viên tiếp cận và nghiên cứu để hiểu một cách chân xác, đầy đủ về<br />
Tín ngưỡng Phồn thực từ khái niệm, bản chất, sự tồn tại cũng như vai trò của nó trong<br />
tâm thức dân gian Việt Nam. Từ đó khu biệt được quan niệm về Tín ngưỡng Phồn thực<br />
giữa Phương Đông và Phương Tây; thấy được ảnh hưởng to lớn của tín ngưỡng này đối<br />
với đời sống văn hóa tinh thần của người Việt. Cũng cần xác định rằng: Tín ngưỡng<br />
Phồn thực phải được tìm hiểu nghiên cứu như đối với bất kì đơn vị kiến thức khoa học<br />
nào là nhiệm vụ của tất cả những giảng viên mà hoạt động dạy học có liên quan đến lĩnh<br />
vực văn hóa. Vì nó góp phần bồi dưỡng tri thức, điều chỉnh thế giới quan cũng như giáo<br />
dục thái độ ứng xử đối với các di sản văn hóa nhân loại cho người học, giúp người học<br />
tự hoàn thiện mình. Quá trình đó được xác định thông qua ba nội dung chính định danh,<br />
định vị và định hướng. Tức là đi từ việc tìm hiểu tên gọi TNPT đến xác định vị trí vai<br />
trò của nó trong đời sống văn hóa – xã hội và cuối cùng là phương cách tiếp cận mà<br />
chúng tôi đề xuất, thực hiện nhằm hướng dẫn giáo dục cho người học động cơ, ý thức<br />
nghiên cứu về TNPT.<br />
2.1. Định danh<br />
Tín ngưỡng Phồn thực là gì?<br />
Thực ra không phải đợi đến khi hướng dẫn Sinh viên tìm hiểu về Tín ngưỡng Phồn thực<br />
TNPT mới đề cập đến việc định danh nó. Các tài liệu nghiên cứu từ lâu đã chỉ ra một<br />
cách khái quát, cô đọng khái niệm TNPT. Có điều từ những vấn đề mang tính phổ quát<br />
đó làm sao để sinh viên hiểu đúng, hiểu rõ và hiểu sâu các phương diện liên quan đến<br />
Tín ngưỡng Phồn thực. Bởi khi nghiên cứu bất kì đối tượng nào cũng nên bắt đầu từ<br />
việc định danh nó. Do vậy, trước hết:<br />
* Cho sinh viên tìm hiểu và phân tích để hiểu được khái niệm Tín ngưỡng:<br />
Theo Từ điển tiếng Việt: tín ngưỡng là một hiện tượng lịch sử thuộc lĩnh vực tinh thần của<br />
đời sống xã hội; là lòng tin và sự tôn thờ về một tôn giáo. Tín ngưỡng là biểu hiện đầu tiên<br />
của sinh hoạt văn hóa nhằm mục đích tìm về cội nguồn của con người… Có ba nhóm tín<br />
ngưỡng: sùng bái tự nhiên, sùng bái con người và tín ngưỡng phồn thực [2, tr.131].<br />
Thời xa xưa, để duy trì và phát triển sự sống, ở những vùng dân cư sinh sống bằng nghề<br />
nông luôn mong có mùa màng tươi tốt và con người được sinh sôi. Ngoài triết lý Âm<br />
Dương được kiến tạo bởi những bộ óc thông thái thì người bình dân thường gửi gắm<br />
niềm tin của mình vào một sức mạnh siêu nhiên rồi sùng mộ tôn thờ nó như thần thánh<br />
để xây dựng nên Tín ngưỡng phồn thực (phồn: nhiều, thực: nảy nở). Tín ngưỡng phồn<br />
thực ở nước ta từng tồn tại suốt chiều dài lịch sử, được thể hiện ở cả hai dạng: thờ cơ<br />
quan sinh dục của nam lẫn nữ và thờ cả hành vi giao phối.<br />
<br />
HƯỚNG DẪN SINH VIÊN TIẾP CẬN TÍN NGƯỠNG PHỒN THỰC...<br />
<br />
49<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
* Theo đó Tín ngưỡng Phồn thực là thờ sự sinh sôi nảy nở. Tín ngưỡng này xuất phát từ<br />
nhu cầu duy trì và phát triển sự sống của con người. Khi hướng dẫn sinh viên tìm hiểu<br />
các khái niệm cần lưu ý:<br />
- Nhất thiết phải có sự giải thích cặn kẽ thấu đáo. Sau đó bằng những hình thức khác<br />
nhau khảo sát để nắm được sinh viên nhận thức đến đâu, đúng hướng hay lệch lạc. Từ<br />
đó điều chỉnh, bổ sung, giúp sinh viên hiểu đúng bản chất vấn đề. Có như thế mới đào<br />
sâu nghiên cứu các phương diện khác của TNPT.<br />
- Một khâu quan trọng nữa là cần nêu vấn đề giúp sinh viên xác định rõ Tín ngưỡng<br />
phồn thực là một hiện tượng tôn giáo mang tính phổ biến trên toàn thế giới. Yêu cầu<br />
sinh viên tìm đọc nghiên cứu tư liệu để làm sáng tỏ luận điểm quan trọng này. Chẳng<br />
hạn (gợi ý): những hình vẽ trong hang động, những tượng đá cổ sơ nhất đào được ở<br />
miền nam nước Pháp, bắc Tây Ban Nha... là những người đàn bà đầu nhỏ, mặt mũi<br />
không rõ nét, nhưng các bộ phận sinh dục thì rất to. Các cơ quan sinh sản của các nàng<br />
vệ nữ thường được đặc tả để nói về sự mắn đẻ. Tục thờ sinh thực khí và những gì nhắc<br />
đến sinh thực khí là ước vọng phồn vinh. Ngay cả trong các đền thờ của đạo Hindu có<br />
rất nhiều bức tượng đẹp thể hiện hình ảnh những cặp tình nhân đang say sưa tình tứ,<br />
vui thú ái ân, thể hiện bản chất hoan lạc của xứ sở thiên đàng và nguồn gốc của sự<br />
sống, nguồn năng lực của vũ trụ qua một thế giới phồn thực [3, tr. 205, 206].<br />
- Bổ sung thông tin: Người cổ sơ tin rằng, năng lượng thiêng ở thiên nhiên hay ở con<br />
người có khả năng truyền dẫn sang vật nuôi và cây trồng. Điều này có sự tương đồng<br />
giữa Phương Đông và Phương Tây. Tuy nhiên người Phương Tây thường cởi mở hơn,<br />
tự nhiên hơn khi tiếp cận. Họ cho đó là lẽ thường như một qui luật tất yếu nên hoàn toàn<br />
thoải mái công khai. Trong lúc người phương Đông lại dè dặt, kín đáo. Và, giữa các nền<br />
văn hóa phương Đông cũng có những quan niệm khác nhau. Chẳng hạn: Tục thờ Lingayoni (dương - âm vật) ở Ấn Độ, Nêpan rất phổ biến. Đó là hai vị thần, hai nguyên lý<br />
khởi nguyên của vũ trụ, phân biệt và hòa hợp với nhau để sinh ra vạn vật. Ở các ngôi<br />
đền Ần giáo, Phật giáo, Mật tông, trên mặt tiền, dưới chân cột hoặc trong nội điện đầy<br />
các tượng thần nam, nữ đang ở trạng thái cương cứng hoan lạc. Tuy không giàu chất<br />
tâm linh như dân Ần, nhưng với đầu óc khái quát cao, người Trung Hoa nâng yếu tố<br />
đực - cái thành hai nguyên lý phổ quát là âm và dương với lí giải sự kết hợp âm dương<br />
sinh thành mọi vật.<br />
- Ngoài ra, bằng những cách thức khác nhau như phát vấn, tổ chức trao đổi phản biện,<br />
giảng viên còn phải giúp SV khu biệt được: TNPT ở Việt Nam thể hiện sự biến cải rõ<br />
rệt do sự chi phối của tư duy lưỡng phân lưỡng hợp của người Việt. Cụ thể là người<br />
Việt Nam không chỉ thờ sinh thực khí - biểu tượng của năng lượng thiêng sinh ra<br />
muôn loài mà còn thờ cả hành vi giao phối. Bởi TNPT Việt Nam không mang tính vũ<br />
trụ luận, cao và xa như ở Trung Hoa và Ần Độ. Nó còn ở trạng thái tự nhiên như cây cỏ,<br />
bò lan trên mặt đất và cắm sâu rễ vào lòng đất. Mảnh đất gió mùa nhiệt đới, tuy được lợi<br />
về ánh sáng và độ ẩm, nhưng không hẳn đã màu mỡ. Hơn nữa, hệ sinh thái tiền sử xứ<br />
này, thực vật nhiều hơn động vật, số lượng loài nhiều và số lượng cá thể trong mỗi loài<br />
<br />
50<br />
<br />
DƯƠNG THỊ THANH HUYỀN<br />
<br />
thì ít . Đặc điểm thiên nhiên ưu đãi thường trộn lẫn với tai ương khiến đa phần người<br />
Việt chỉ mong ước sống được, sống tốt. Coi nó như một nguyên tắc thiết cốt, như là<br />
"đạo sống", "đạo sinh tồn". “Tâm thức đó là nền móng vững chắc của tín ngưỡng phồn<br />
thực trong một vũ trụ quan đậm màu sắc vật linh luận, dẫu được gói kỹ bằng các lớp<br />
phủ như của lễ thức, lễ nghi Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo” (Wikipedia tiếng Việt).<br />
2.2. Định vị<br />
Vai trò, vị trí của Tín ngưỡng Phồn thực<br />
Xuất phát từ quan niệm Tín ngưỡng Phồn thực là một bộ phận của văn hóa nên quá<br />
trình nghiên cứu phải được tiến hành theo đúng với những đặc tính tự nhiên mang tính<br />
quy luật của nó. Xác định được vị trí của nó sẽ giúp sinh viên tiếp cận thuận lợi hơn do<br />
được gợi mở, khơi dậy nguồn cảm hứng sáng tạo. Nếu không với tâm lí e ngại như đã<br />
nêu trên sinh viên sẽ bỏ qua hoặc chỉ đọc lướt mà không có ý thức nghiên cứu nghiêm<br />
túc một bộ phận văn hóa tinh thần có từ lâu đời của dân tộc. Trong lúc với bản chất của<br />
nó, tín ngưỡng Phồn thực, hiểu theo khía cạnh tình dục học thì nó là một nhu cầu mang<br />
tính bẩm sinh, tự nhiên, có di truyền từ đời này sang đời khác nhằm đạt được những<br />
cảm giác dễ chịu, sung sướng, những khoái cảm cho tất cả mọi người, không trừ một ai<br />
[4, tr. 70].<br />
Trong quá trình tổ chức dạy học chúng tôi thường đặt ra yêu cầu sinh viên phải tìm<br />
kiếm những thông tin liên quan đến tất cả các đơn vị kiến thức thuộc học phần Cơ sở<br />
Văn hóa Việt Nam trong đó có TNPT. Tùy theo điều kiện về thời gian, đặc điểm đối<br />
tượng và kế hoạch, tiến độ của quá trình dạy học mà yêu cầu sinh viên thảo luận, thuyết<br />
trình, bày tỏ sự hiểu biết hay bộc lộ quan niệm của mình về vì trí vai trò của TNPT. Sau<br />
đó kiến giải, điều chỉnh, bổ khuyết để sinh viên thấy được những nét cơ bản sau về vị trí<br />
vai trò của TNPT:<br />
- Vai trò của tín ngưỡng phồn thực trong đời sống của người Việt cổ lớn tới mức chiếc<br />
trống đồng - biểu tượng của sức mạnh, quyền lực Việt Nam cũng đồng thời biểu tượng<br />
toàn diện cho tín ngưỡng phồn thực [5, tr. 131]. Cách đánh trống đồng theo lối cầm chày<br />
dài mà đâm lên mặt trống được khắc trên chính các trống đồng và còn được bảo lưu ở<br />
người Mường hiện nay là mô phỏng động tác giã gạo - động tác giao phối. Trên tâm<br />
mặt trống đồng là hình mặt trời với những tia sáng biểu trưng cho sinh thực khí nam, và<br />
giữa các tia sáng là một hình lá với khe ở giữa biểu trưng cho sinh thực khí nữ. Xung<br />
quanh mặt trống thường gắn các tượng cóc "cậu ông trời", mang theo mưa cho mùa<br />
màng tốt tươi, một dạng biểu trưng của TNPT.<br />
- TNPT thể hiện hầu hết ở những di chỉ nổi tiếng trong kiến trúc đình chùa miếu mạo<br />
trên khắp đất nước Việt Nam. Ngay cả những hiện tượng tưởng chừng rất xa xôi như<br />
chùa Một Cột (dương) trong cái hồ vuông (âm), tháp Bút (dương) và đài Nghiên (âm) ở<br />
cổng đền Ngọc Sơn (Hà Nội), cửa sổ tròn (dương) trên gác Khuê Văn (tượng trưng cho<br />
sao Khuê) soi mình xuống hồ vuông (âm) Thiên Quang Tỉnh trong Văn Miếu vv..., cũng<br />
đều liên quan tới tín ngưỡng phồn thực. Cũng không phải ngẫu nhiên mà ở các nơi thờ<br />
cúng thường gặp thờ ở bên trái là cái mõ và bên phải là cái chuông: Sự việc đơn giản<br />
<br />
HƯỚNG DẪN SINH VIÊN TIẾP CẬN TÍN NGƯỠNG PHỒN THỰC...<br />
<br />
51<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
này là biểu hiện của cả lí luận "Ngũ hành" lẫn tín ngưỡng phồn thực - cái mõ làm bằng<br />
gỗ (hành Mộc) đặt ở bên trái (phương Đông) là dương, cái chuông làm bằng đồng (hành<br />
Kim) đặt ở bên phải (phương Tây) là âm. Tiếng mõ trầm phải hòa với tiếng chuông<br />
thanh. Nếu không có nam nữ, âm dương hòa hợp sẽ không có cuộc sống vĩnh hằng. Cột<br />
đá chùa Dạm ở Hà Bắc là biểu tượng của linga. Cây cột đá ở Vũ Ninh tương truyền nơi<br />
Thánh Gióng buộc ngựa cũng là linga. Các giếng nước ở đền, chùa như giếng Tiên ở<br />
Lạng Sơn, giếng Ngọc ở đền Hùng đều là hình tượng yoni.<br />
- Linga-yoni thấp thoáng có mặt ở khắp nơi: Tháp Bà Ponaga ở Nha Trang là địa chỉ nổi<br />
tiếng với các biểu tượng độc đáo của đàn ông đàn bà mà người Chăm để lại. Cây gậy<br />
chọc lỗ để gieo hạt, cái cày cày xuống lòng đất mẹ, chày và cối, bánh chưng (gói vuông)<br />
và bánh tét, chiếc chìa vôi cắm vào bình vôi, đũa bông cắm vào bát cơm quả trứng trên<br />
quan tài người chết, cái roi ngựa (cái hoa tre) của Phù Đổng trong ngày hội Gióng...<br />
Mỗi biểu tượng này đều có những ý vị riêng biệt, nhưng chung một triết lý phồn thực.<br />
Cái cày (tục ngữ: ngủ ngày "cày" đêm) là biểu tượng dương vật giao hợp với đất mẹ để<br />
sinh sản ra hoa trái. Bình vôi cắm chìa có mặt trong mỗi gia đình là biểu hiện của sự hòa<br />
hợp, động tác rút ra đút vào khi lấy vôi tiêm trầu nhất là trầu cưới, chỉ sự giao hợp năng<br />
sinh năng bản.<br />
- Tục thờ sinh thực khí ở Việt Nam còn liên quan đến các hành vi tính giao. Trên thạp<br />
đồng Đào Thịnh (Yên Bái) có 4 khối tượng nam nữ đang giao phối. Khối tượng dài<br />
8cm, cao 3,5cm tạc hình đôi nam nữ chồng lên nhau, tư thế điển hình nhất của con<br />
người. Người đàn bà vú nhọn, hai tay ôm đỡ người đàn ông. Người đàn ông hay tay ôm<br />
quấn lấy bạn tình, dương vật lớn quá cỡ. Người xưa tin rằng, hành động giao phối của<br />
con người sẽ gây cảm ứng sang muôn vật. Bởi vậy, có nơi vào ngày gieo trồng, họ<br />
mang nhau ra bờ bãi để giao hợp. Ở Bắc bộ đàn bà khi cấy lúa thường kể chuyện tục.<br />
Gầm giường các cặp vợ chồng mới cưới thường để khoai giống, thóc giống... Mùa trồng<br />
trọt thường được bắt đầu bằng hội xuống đồng hoặc lễ tịch điền, trong đó nhà vua cày<br />
những luống đầu tiên.<br />
Trên thực tế, dưới sự chỉ dẫn cụ thể của giảng viên, sinh viên đã tìm kiếm thu thập được<br />
những thông tin tri thức rất thú vị mà nhiều khi chính Giảng viên cũng chưa có điều<br />
kiện tiếp cận. Trong quá trình cập nhật kiến thức cho bài giảng chúng tôi đã sử dụng<br />
những tư liệu ấy với đầy đủ chỉ dẫn cần thiết. Điều này tạo được hiệu ứng tốt và tác<br />
động tích cực đến SV do khơi gợi cảm hứng tìm tòi sáng tạo, khích lệ họ bỏ công sức<br />
tìm hiểu nghiên cứu với tất cả niềm vui và sự say mê.<br />
Ý nghĩa của việc tìm hiểu nghiên cứu Tín ngưỡng Phồn thực<br />
- Nghiên cứu giá trị giá trị thực tiễn của TNPT cũng đồng nghĩa với việc hướng sinh<br />
viên tìm đến với những giá trị của lòng tin. Đó là: con người rất mực chân thành đối với<br />
điều mình ngưỡng mộ và phải có lòng tin đó thì con người và cộng đồng mới có một<br />
cuộc sống bình thường. Con người thời xưa tự hình thành các tín ngưỡng dân gian và<br />
lấy những điều tự đặt chân thành đó làm đòn bẩy tinh thần cho cộng đồng của mình.<br />
<br />