KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU ĐIỀU TRỊ LỆCH KHÚC XẠ<br />
Ở TRẺ EM BẰNG LASER EXCIMER THEO PHƯƠNG PHÁP<br />
LASIK<br />
TÔN THỊ KIM THANH, LÊ THUÝ QUỲNH, TRẦN THỊ THU THUỶ VÀ CS<br />
<br />
Bệnh viện Mắt Trung ương<br />
TÓM TẮT<br />
Đánh giá kết quả bước đầu điều trị 6 mắt của 6 bệnh nhân trẻ em tuổi từ 8 đến 15<br />
có lệch khúc xạ giữa 2 mắt trên 6 D (tính theo tương đương cầu) bằng Laser Excimer<br />
theo phương pháp LASIK tại bệnh viện Mắt Trung ương.<br />
Sử dụng máy Laser Excimer Nidek EC - 5000 CXIII. Tạo vạt GM dầy 130<br />
micromet. Bắn laser lên nhu mô giác mạc theo thông số khúc xạ cần chỉnh.<br />
Sau phẫu thuật bệnh nhân được khám lại định kì ngày thứ 1, 2; 1 tuần, 1 tháng<br />
sau mổ. Kiểm tra bao gồm đo khúc xạ, thị lực không kính, khám sinh hiển vi. Sau mổ<br />
cho thấy kết quả khá tốt về thị lực cũng như giảm được mức độ cận thị, loạn thị cao.<br />
Ngoài ra không gặp biến chứng nào. Cụ thể: Trước mổ khúc xạ tính theo tương đương<br />
cầu (SE) trung bình là -10,3D (từ –7,5D đến –13D) sau mổ tính theo tương đương cầu<br />
là +0,7D. Thị lực không kính trước mổ trung bình là ĐNT 1,66m sau mổ tăng lên<br />
trung bình là 3,7/10.<br />
<br />
Tật khúc xạ là 1 trong những bệnh<br />
rất hay gặp trong nhãn khoa, đặc biệt ở<br />
trẻ em. Số trẻ em có tật khúc xạ đến<br />
khám ở Bệnh viện Mắt TƯ ngày càng<br />
nhiều. Theo điều tra của Viện Mắt - Viện<br />
khoa học giáo dục năm 1980 tỷ lệ cận thị<br />
ở học sinh phổ thông là 5%. Điều tra của<br />
trung tâm mắt Hà Nội 1998 tỉ lệ cận thị ở<br />
học sinh tiểu học là 10,3%, PTCS là<br />
15,9%, PTTH là 20,2%. Và theo thống<br />
kê tại phòng khám Viện Mắt trung ương<br />
năm 1999 có 34.340 lượt người tới khám<br />
khúc xạ - chiếm khoảng 30% tổng số<br />
bệnh nhân tới phòng khám, trong đó 70%<br />
là trẻ em [1]. Điều đó chứng tỏ nhu cầu<br />
khám chữa bệnh về khúc xạ rất lớn. Đa<br />
<br />
số bệnh nhi đều được chẩn đoán và điều<br />
trị theo phương pháp truyền thống là cấp<br />
đơn kính, đeo kính gọng phù hợp để đạt<br />
được thị lực tốt hơn.<br />
Tuy nhiên, nhiều bệnh nhi có lệch<br />
khúc xạ giữa 2 mắt - chiếm tỉ lệ 2,4% số<br />
trẻ bị tật khúc xạ [2]. Nhưng nếu lệch<br />
khúc xạ cao (thông thường trên 3D) trẻ<br />
không thể đeo được kính gọng, vì 2 mắt<br />
chỉ đeo kính lệch số được khoảng 2-3<br />
diop, nếu cao hơn trẻ sẽ bị chóng mặt,<br />
nhức đầu. Đối với những mắt lệch khúc<br />
xạ cao đeo kính gọng đủ số còn gây hiện<br />
tượng hình ảnh không đều giữa 2 mắt.<br />
Có 1 giải pháp khác để giải quyết tình<br />
trạng trên là trẻ có thể đeo kính tiếp xúc.<br />
56<br />
<br />
Nhưng với điều kiện khí hậu nóng ẩm,<br />
bụi bặm của Việt Nam có thể gây viêm<br />
nhiễm mắt nếu đeo kính tiếp xúc trong<br />
thời gian dài, cùng với việc tháo lắp kính<br />
khá phức tạp nhất là đối với trẻ em... nên<br />
kính tiếp xúc hiện không được dùng cho<br />
trẻ em.<br />
Nhược thị là một nguyên nhân<br />
thường gặp ở trẻ em do mắt bị lệch khúc<br />
xạ cao không được chỉnh kính đúng để<br />
đạt thị lực tốt hơn, khi lớn lên có chỉnh<br />
kính cũng không tăng được thị lực.<br />
Trong 60 trẻ tập nhược thị tại khoa nhiViện mắt trong 2 năm 1998-2000 có 40<br />
trẻ có lệch khúc xạ trên 3D (từ 3,25D đến<br />
8D) với mức độ nhược thị có thị lực dưới<br />
1/10 chiếm 36,67%, nhược thị có thị lực<br />