JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE<br />
Educational Sci., 2017, Vol. 62, No. 1, pp. 127-137<br />
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br />
<br />
DOI: 10.18173/2354-1075.2017-0014<br />
<br />
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG TÍNH TÍCH CỰC NGHIÊN CỨU<br />
KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI<br />
Trần Thị Tuyết Mai<br />
Viện Nghiên cứu Sư phạm, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội<br />
Tóm tắt. Bài viết này đề cập đến thực trạng tính tích cực nghiên cứu khoa học (NCKH) của<br />
sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội (ĐHSPHN), bao gồm: nhận thức của sinh viên<br />
về lợi ích của NCKH, thực trạng các biểu hiện tính tích cực NCKH (tính chủ động, tính tự<br />
giác, tính tự tin, kết quả NCKH), những thuận lợi và khó khăn trong NCKH của sinh viên,<br />
từ đó đưa ra các đề xuất biện pháp góp phần nâng cao tính tích cực NCKH của sinh viên<br />
hiện nay.<br />
Từ khóa: Tính tích cực, sinh viên, giảng viên, trường Đại học Sư phạm Hà Nội.<br />
<br />
1.<br />
<br />
Mở đầu<br />
<br />
Ở Hoa Kì, trong chiến lược 1998 - 2000 của Bộ Giáo dục đã ghi nhận NCKH giáo dục góp<br />
phần cải thiện nền giáo dục quốc gia và trong chiến lược này họ đã xác định những vấn đề ưu tiên<br />
tổ chức cho sinh viên NCKH [3]. Tác giả Francesco Cordasci và Elliots S.M Galner [14] đã chỉ ra<br />
những hoạt động cụ thể để hình thành kĩ năng NCKH cho sinh viên. Tác giả Gary Anderson (New<br />
York) [15] đã đặt trọng tâm vào việc tìm tòi các nguyên tắc, phương pháp cũng như công cụ, kĩ<br />
thuật nghiên cứu khoa học giáo dục để huấn luyện cho sinh viên. Bên cạnh đó, Brian Allison đã<br />
chỉ ra cho sinh viên các kĩ năng nghiên cứu, như: kĩ năng tiến hành một cuộc điều tra mẫu, kĩ năng<br />
thiết kế một bảng hỏi...[13].<br />
Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về hoạt động NCKH của sinh viên có hai hướng.<br />
Một là khẳng định tầm quan trọng của NCKH đối với sinh viên, hai là đề xuất các biện pháp để<br />
nâng cao hiệu quả của hoạt động này. Hướng thứ nhất: theo các công trình nghiên cứu của các tác<br />
giả, công tác NCKH của sinh viên là phương pháp có hiệu quả nhất trong việc đào tạo chuyên gia<br />
có chất lượng [9]. Trong tác phẩm về “Tự học, tự giáo dục, tự nghiên cứu” [10], tác giả Nguyễn<br />
Cảnh Toàn cũng đã nói đến tầm quan trọng của NCKH đối với các trường sư phạm. Đặc biệt ông<br />
nhấn mạnh đến trách nhiệm của người thầy ở đại học là phải gây hứng thú tập dượt, tìm tòi, nghiên<br />
cứu cho sinh viên. Theo hướng thứ hai: nhiều tác giả đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả của<br />
các hoạt động NCKH của sinh viên. Theo đó cần đưa vào quá trình học tập của sinh viên các yếu<br />
tố NCKH, cần đào tạo một cách cơ bản và có hệ thống về phương pháp NCKH cho sinh viên. Tác<br />
giả Nguyễn Tấn Phát [8] và Hà Thế Ngữ [5] cho rằng việc đưa NCKH vào trường học là một vấn<br />
đề quan trọng sẽ thúc đẩy sự phát triển khoa học, đem lại những tiến bộ vững chắc cho công tác<br />
dạy học và giáo dục, đồng thời nâng cao hiệu quả đào tạo ở các trường Sư phạm.<br />
Ngày nhận bài: 10/9/2016. Ngày nhận đăng: 12/12/2016.<br />
Liên hệ: Trần Thị Tuyết Mai, e-mail: tuyetmaik57tlgd@gmail.com<br />
<br />
127<br />
<br />
Trần Thị Tuyết Mai<br />
<br />
Gần đây, còn có công trình nghiên cứu của tác giả Đào Thị Oanh về NCKH giáo dục trong<br />
trường sư phạm. Tác giả nhấn mạnh đây là hoạt động đặc thù trong lĩnh vực giáo dục. NCKH giáo<br />
dục là hoạt động có tính hệ thống, xuất phát từ những vấn đề cần giải quyết trong hoạt động giáo<br />
dục, hay nhằm phát hiện ra những khái niệm, quy luật mới của thực tiễn giáo dục mà trước đó ta<br />
chưa biết [6]. Bên cạnh đó, trường Sư phạm không chỉ là nơi đào tạo giáo viên mà phải là trung<br />
tâm NCKH cơ bản, khoa học giáo dục và khoa học sư phạm [1].<br />
Trong thời đại bùng nổ thông tin và phát triển khoa học công nghệ với tốc độ gia tăng như<br />
hiện nay, việc thúc đẩy NCKH và chuyển giao công nghệ là đòn bẩy để các trường Đại học phát<br />
triển bền vững, vươn ngang tầm quốc tế [2]. Hơn thế, trong xu thể đổi mới căn bản và toàn diện<br />
giáo dục hiện nay, các trường đại học lớn phải là trung tâm nghiên cứu mạnh của cả nước [11]. Mặt<br />
khác, theo Thông tư 30/2010/TT-BLĐTBXH về quy định chuẩn giáo viên, giảng viên dạy nghề đã<br />
nêu rõ năng lực NCKH là tiêu chí quan trọng và rất cần thiết phải trang bị đối với người giáo viên<br />
trong tương lai [12].<br />
Trên thực tế, đào tạo và nghiên cứu là hai mặt có mối quan hệ hữu cơ, hai nhiệm vụ cơ bản,<br />
trong đó NCKH là biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng đào tạo. Quá trình đào tạo ở các<br />
trường Sư phạm, không chỉ đơn thuần là dạy kiến thức mà còn tổ chức cho sinh viên NCKH nhằm<br />
trang bị kĩ năng nghiên cứu, năng lực học tập suốt đời [4]. Trong các năng lực, giáo viên, giảng<br />
viên sư phạm cần có các năng lực: năng lực nghiệp vụ sư phạm, năng lực nghiên cứu khoa học<br />
giáo dục, năng lực quản lí đào tạo [7].<br />
Trong suốt quá trình xây dựng và phát triển, trường ĐHSP Hà Nội luôn coi việc tổ chức,<br />
phát triển hoạt động NCKH của sinh viên là một trong những nhiệm vụ thường xuyên của nhà<br />
trường. Sinh viên đã và đang tham gia vào hoạt động NCKH. Tuy nhiên, ở một bộ phận sinh viên<br />
hiện nay chỉ tham gia mang tính chất phong trào mà chưa tích cực, chủ động trong NCKH nên hiệu<br />
quả mang lại chưa cao. Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến thực trạng này là do sinh<br />
viên còn thiếu tính tích cực. Vấn đề đặt ra là phải phát huy tính tích cực của sinh viên trong hoạt<br />
động NCKH, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của trường ĐHSPHN. Nội dung bài viết dưới<br />
đây đề cập đến kết quả nghiên cứu thực trạng tính tích cực NCKH của sinh viên trường Đại học<br />
Sư phạm Hà Nội và định hướng đề xuất biện pháp nhằm góp phần nâng cao tính tích cực NCKH<br />
của sinh viên hiện nay.<br />
<br />
2.<br />
2.1.<br />
<br />
Nội dung nghiên cứu<br />
Tổ chức nghiên cứu<br />
<br />
- Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu lí luận, đề tài tìm hiểu thực trạng tính tích cực nghiên<br />
cứu khoa học của sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội và đưa ra một số định hướng biện<br />
pháp góp phần nâng cao tính tích cực nghiên cứu khoa học của sinh viên.<br />
- Đối tượng và khách thể: Nghiên cứu thực trạng biểu hiện tính tích cực nghiên cứu khoa<br />
học của sinh viên trường Đại học sư phạm Hà Nội. Việc nghiên cứu được tiến hành trên 187 sinh<br />
viên thuộc các khoa: Tâm lí - Giáo dục học, Triết học, Khoa Vật lí, Khoa Hóa học và khoa Ngữ<br />
Văn và lấy ý kiến phỏng vấn của 20 giảng viên.<br />
- Phương pháp nghiên cứu: Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng bao gồm:<br />
phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, phương pháp quan sát, phương pháp phỏng vấn sâu và phương<br />
pháp xử lí số liệu bằng thống kê toán học.<br />
<br />
128<br />
<br />
2.2.<br />
<br />
Thực trạng tính tích cực nghiên cứu khoa học của sinh viên trường Đại học<br />
Sư phạm Hà Nội<br />
<br />
2.2.1. Nhận thức của sinh viên về lợi ích của nghiên cứu khoa học<br />
Theo đánh giá của sinh viên các em cho rằng NCKH mang lại cho các em nhiều lợi ích<br />
khác nhau. Trước hết, đa số các em cho rằng NCKH để tìm hiểu, khám phá và tích lũy các kiến<br />
thức cần thiết phục vụ cho học tập. Với những kiến thức ấy góp phần làm cho tầm hiểu biết của<br />
các em phong phú hơn. Em N.L.T chia sẻ: "Kiến thức là vô tận, mỗi ngày chúng em lại được học<br />
thêm một ít. Qua các đề tài nghiên cứu khoa học, em lại mở rộng thêm vốn kiến thức của bản thân<br />
mình". Đồng thời, thông qua NCKH các em còn được rèn luyện kĩ năng làm việc nhóm, kĩ năng<br />
viết, kĩ năng phân tích và giải quyết vấn đề... Từ đó giúp các em hình thành và phát triển tư duy<br />
độc lập, phản biện và sáng tạo. Em Đ.V.D chia sẻ: "Em thấy lợi ích lớn nhất mà em thu được khi<br />
tham gia NCKH là rèn luyện các kĩ năng phục vụ trực tiếp cho quá trình học tập và cho hoạt động<br />
của người giáo viên sau này". Đồng thời, việc tham gia NCKH cũng mang lại nhiều lợi ích cho<br />
kết quả học tập, áp dụng các kiến thức và kĩ năng đã có vào giải quyết các nhiệm vụ học tập mà<br />
giảng viên đề ra. Hơn thế, những kết quả NCKH còn được áp dụng vào giải quyết các vấn đề của<br />
thực tế đời sống... Bên cạnh đó, một số ít sinh viên còn cho rằng, NCKH để khẳng định chính bản<br />
thân mình. Ngoài ra, thông qua NCKH sinh viên còn được học hỏi tác phong, kĩ năng làm việc<br />
của giảng viên và học hỏi những điểm mạnh của những bạn khác trong nhóm nghiên cứu.<br />
Cùng với đó, chúng tôi cũng tìm hiểu về tác động của NCKH đối với nghề nghiệp sau này<br />
của sinh viên, những giáo viên tương lai. NCKH giúp các em trang bị các kiến thức đầy đủ và toàn<br />
diện hơn. NCKH còn cung cấp kĩ năng, kinh nghiệm giảng dạy về các vấn đề logic, khoa học. Mặt<br />
khác, giúp sinh viên có ý thức trách nhiệm về công việc, yêu nghề, yêu công việc hơn. Bên cạnh<br />
đó, còn rèn luyện phẩm chất đạo đức nghề nghiệp và rèn phong cách làm việc với giảng viên để<br />
sau này có kĩ năng làm việc với học sinh...<br />
<br />
2.2.2. Thực trạng biểu hiện tính tích cực nghiên cứu khoa học của sinh viên trường<br />
ĐHSPHN<br />
Bảng 1: Biểu hiện tính chủ động trong nghiên cứu khoa học của sinh viên trường ĐHSPHN<br />
TT<br />
<br />
Các biểu hiện<br />
<br />
ĐTB<br />
<br />
Các mức độ<br />
<br />
ĐLC<br />
Không<br />
bao giờ<br />
<br />
Thỉnh<br />
thoảng<br />
<br />
Thường<br />
xuyên<br />
<br />
Rất<br />
thường<br />
xuyên<br />
<br />
1<br />
<br />
Tự mình xác định tên đề<br />
tài NCKH<br />
<br />
2,79<br />
<br />
0,78<br />
<br />
3,3<br />
<br />
44,3<br />
<br />
37,7<br />
<br />
14,8<br />
<br />
2<br />
<br />
Tự đặt ra mục tiêu nghiên<br />
cứu cụ thể của cá nhân<br />
<br />
2,54<br />
<br />
0,85<br />
<br />
8,2<br />
<br />
44,3<br />
<br />
32,8<br />
<br />
14,8<br />
<br />
3<br />
<br />
Tự xây dựng kế hoạch<br />
nghiên cứu<br />
<br />
2,58<br />
<br />
0,86<br />
<br />
4,9<br />
<br />
41,0<br />
<br />
41,0<br />
<br />
13,1<br />
<br />
4<br />
<br />
Chủ động tìm đọc các<br />
sách báo, tạp chí và công<br />
trình NCKH liên quan<br />
<br />
2,75<br />
<br />
0,84<br />
<br />
3,3<br />
<br />
32,8<br />
<br />
39,3<br />
<br />
24,6<br />
<br />
5<br />
<br />
Tự xây dựng bộ công cụ<br />
NCKH<br />
<br />
2,26<br />
<br />
0,79<br />
<br />
16,4<br />
<br />
31,1<br />
<br />
47,5<br />
<br />
4,9<br />
129<br />
<br />
Trần Thị Tuyết Mai<br />
<br />
6<br />
<br />
Lựa chọn các phương<br />
pháp NCKH phù hợp với<br />
bản thân<br />
<br />
2,57<br />
<br />
0,83<br />
<br />
11,5<br />
<br />
47,5<br />
<br />
26,2<br />
<br />
14,8<br />
<br />
7<br />
<br />
Tự đi thu thập các số liệu<br />
thực tế<br />
<br />
2,58<br />
<br />
0,89<br />
<br />
14,8<br />
<br />
47,5<br />
<br />
21,3<br />
<br />
16,4<br />
<br />
8<br />
<br />
Xử lí và phân tích các số<br />
liệu thu được<br />
<br />
2,66<br />
<br />
0,90<br />
<br />
16,4<br />
<br />
49,2<br />
<br />
16,4<br />
<br />
18,0<br />
<br />
9<br />
<br />
Chủ động tìm kiếm cách<br />
thức để giải quyết các<br />
nhiệm vụ NCKH<br />
<br />
2,72<br />
<br />
0,76<br />
<br />
4,9<br />
<br />
54,1<br />
<br />
34,4<br />
<br />
6,6<br />
<br />
10<br />
<br />
Vận dụng kiến thức đã có<br />
vào giải quyết các nhiệm<br />
vụ NCKH<br />
<br />
2,76<br />
<br />
0,79<br />
<br />
1,6<br />
<br />
54,1<br />
<br />
27,9<br />
<br />
16,4<br />
<br />
11<br />
<br />
Vận dụng các kĩ năng<br />
đã có vào giải quyết các<br />
nhiệm vụ NCKH<br />
<br />
2,78<br />
<br />
0,79<br />
<br />
1,6<br />
<br />
41,0<br />
<br />
42,6<br />
<br />
14,8<br />
<br />
12<br />
<br />
Chủ động xin ý kiến của<br />
giảng viên hướng dẫn sau<br />
các nội dung NCKH<br />
<br />
2,85<br />
<br />
0,83<br />
<br />
4,9<br />
<br />
47,5<br />
<br />
26,2<br />
<br />
21,3<br />
<br />
* Ghí Chú: ĐTB: Điểm trung bình; ĐLC: Độ lệch chuẩn<br />
<br />
Trong biểu hiện tính chủ động, ta thấy biểu hiện "Xin ý kiến của giảng viên hướng dẫn sau<br />
các nội dung NCKH" xếp vị trí thứ nhất với X = 2,85. Như vậy, đa số sinh viên đánh giá rằng các<br />
em thường chủ động trong việc xin ý kiến của giảng viên hướng dẫn về các nội dung NCKH. Em<br />
Đ.V.D chia sẻ: "Sau khi kết thúc mỗi nội dung, nhiệm vụ NCKH là em và các bạn đều liên hệ để<br />
gặp gỡ cô giáo nhờ cô góp ý và chỉnh sửa giúp các em". Xếp vị trí tiếp theo là "Xác định tên đề tài<br />
NCKH" với X = 2, 79. Điều này cho thấy hầu hết sinh viên đều chủ động trong việc đưa ra tên đề<br />
tài NCKH. Sở dĩ như vậy vì để thực hiện một đề tài NCKH thì công việc đầu tiên và khó khăn là<br />
việc xác định cho mình tên đề tài phù hợp. Em B.T.L chia sẻ: "Em thường nghĩ ra 1, 2 thậm chí<br />
4,5 cái tên đề tài NCKH, em vạch sẵn ra sau đó mới nhờ thầy, cô chỉ cho tên nào là phù hợp với ý<br />
tưởng mình sẽ thực hiện trong đề tài này".<br />
Xếp vị trí cuối cùng là "Xây dựng bộ công cụ NCKH" với X = 2,26. Điều này cho thấy, đa<br />
số sinh viên vẫn chưa thật sự chủ động trong việc xây dựng cho đề tài của mình bộ công cụ để điều<br />
tra thực tế. Em T.T.L chia sẻ: "Em thấy đây là công việc khó khăn nhất và sau khi tìm hiểu lí luận<br />
xong, chúng em thường chờ cô giáo định hướng cấu trúc rồi mới đi xây dựng bộ công cụ. Em thấy<br />
tự mình xây dựng bộ công cụ rất khó".<br />
Như vậy, có thể thấy biểu hiện "Xin ý kiến của giảng viên hướng dẫn sau các nội dung<br />
NCKH là biểu hiện được sinh viên thực hiện nhiều nhất, và biểu hiện "Xây dựng bộ công cụ<br />
NCKH" ít được sinh viên chủ động thực hiện.<br />
<br />
130<br />
<br />
2.2.3. Thực trạng biểu hiện tính tự giác trong nghiên cứu khoa học của sinh viên trường<br />
ĐHSPHN<br />
Bảng 2: Biểu hiện tính tự giác trong nghiên cứu khoa học của sinh viên trường ĐHSPHN<br />
Các mức độ<br />
TT Các biểu hiện<br />
ĐLC<br />
ĐTB<br />
Rất<br />
Không<br />
Thỉnh Thường<br />
thường<br />
bao giờ thoảng<br />
xuyên<br />
xuyên<br />
Tự giác trao đổi các băn<br />
khoăn, thắc mắc với giảng<br />
1<br />
2,84 0,82<br />
6,6<br />
42,6<br />
23,0<br />
27,9<br />
viên hướng dẫn trong quá<br />
trình NCKH<br />
Tuân thủ theo các bước<br />
2<br />
2,85 0,82<br />
4,9<br />
42,6<br />
32,8<br />
19,7<br />
của quá trình NCKH<br />
Thực hiện các nhiệm vụ<br />
3<br />
2,89 0,81<br />
3,3<br />
45,9<br />
27,9<br />
23,0<br />
NCKH nghiêm túc, kỉ luật<br />
Hoàn thành các nội dung<br />
14,8<br />
45,9<br />
26,2<br />
13,1<br />
NCKH đúng thời hạn quy 2,68 0,85<br />
4<br />
định<br />
Tự giác giải quyết các<br />
5<br />
6,6<br />
47,5<br />
37,7<br />
8,2<br />
nhiệm vụ NCKH theo 2,66 0,75<br />
đúng yêu cầu<br />
Tự mình hoàn thiện báo<br />
6<br />
2,25 0,87<br />
21,3<br />
26,2<br />
44,3<br />
8,2<br />
cáo đề tài NCKH<br />
Trong biểu hiện tính tự giác, ta thấy biểu hiện "Thực hiện các nhiệm vụ NCKH nghiêm túc,<br />
kỉ luật" xếp vị trí thứ nhất với X = 2,89. Điều này cho thấy đa số sinh viên khi NCKH đều có tính<br />
nghiêm túc, kỉ luật. Sở dĩ như vậy, vì để hoàn thành các nhiệm vụ NCKH các em cần có tổ chức<br />
kỉ luật tốt để thực hiện các công việc đã đề ra. Em L.T.L chia sẻ: "Em thấy một trong những điều<br />
cần thiết trong NCKH là tính kỉ luật. Em cũng tự đặt ra cho mình những yêu cầu để thực hiện theo<br />
các yêu cầu đó". Bên cạnh đó, biểu hiện "Tuân thủ theo các bước của quá trình NCKH" xếp vị trí<br />
thứ 2 với X = 2,85. Điều này có nghĩa đa số sinh viên cũng cho rằng các em đã tuân thủ theo các<br />
bước trong quá trình làm NCKH. Việc thực hiện theo đúng quy trình giúp các em thu được kết quả<br />
NCKH tốt hơn. Em Đ.T.L chia sẻ: "Em được giảng viên hướng dẫn các bước NCKH và từ đó em<br />
thực hiện theo đúng các bước để đảm bảo tiến trình và chất lượng nhiệm vụ yêu cầu" .<br />
Xếp vị trí cuối cùng là "Giải quyết các nhiệm vụ NCKH theo đúng yêu cầu đề ra" với X<br />
= 2,66. Như vậy, đa số sinh viên cho rằng việc giải quyết các nhiệm vụ NCKH chưa được các em<br />
thực hiện tốt so với các biểu hiện trên. Sở dĩ như vậy vì không phải nhiệm vụ nào các em cũng<br />
thực hiện và tìm ra cách giải quyết cho các nhiệm vụ đó. Đôi khi các em phải cần đến sự đốc thúc<br />
của giảng viên thì mới giải quyết các nhiệm vụ. Em T.V.Đ chia sẻ: "Không phải nhiệm vụ nào đề<br />
ra em cũng tìm cách giải quyết được. Đôi khi gặp nhiệm vụ khó khăn làm em không kiên trì và có<br />
lúc thậm chí bỏ mặc".<br />
Như vậy, có thể thấy biểu hiện "Thực hiện các nhiệm vụ NCKH nghiêm túc, kỉ luật" là biểu<br />
hiện được sinh viên thực hiện nhiều nhất, và biểu hiện "Giải quyết các nhiệm vụ NCKH theo đúng<br />
yêu cầu đề ra" ít được sinh viên tự giác thực hiện.<br />
131<br />
<br />