Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 <br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
<br />
<br />
KHẢO SÁT NGUYÊN NHÂN GÂY SUY THẬN MẠN GIAI ĐOẠN CUỐI <br />
VÀ TỶ LỆ NHIỄM SIÊU VI VIÊM GAN B VÀ C Ở BỆNH NHÂN ĐIỀU TRỊ <br />
TẠI KHOA LỌC MÁU BỆNH VIỆN QUẬN 6 <br />
Dương Minh Cường*, Olszyna Dariusz Piotr**, Nguyễn Duy Phong***, Ngô Thanh Điểu****, <br />
McLaws Mary‐Louise* <br />
<br />
TÓM TẮT <br />
Đặt vấn đề: Việc cập nhật những thay đổi về các nguyên nhân gây suy thận mạn tính giai đoạn cuối <br />
(STMGĐC) và tỷ lệ hiện mắc siêu vi viêm gan B (HBV) và C (HCV) giúp đưa ra các chiến lược phòng bệnh hợp <br />
lí cũng như đánh giá được vai trò các biện pháp chống nhiễm khuẩn đang được áp dụng tại khoa lọc máu. Từ đó, <br />
góp phần nâng cao hiệu quả của chương trình phòng bệnh và cải thiện hơn nữa chất lượng điều trị. <br />
Mục tiêu: Xác định các nguyên nhân gây bệnh suy thận mạn giai đoạn cuối (STMGĐC), tỷ lệ hiện mắc <br />
siêu vi viêm gan B và C ở các bệnh nhân người lớn đang điều trị chạy thận nhân tạo định kỳ (CTNT). <br />
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang từ 10/2012 đến 10/2013. Các bệnh nhân được thực hiện xét nghiệm <br />
tầm soát kháng nguyên bề mặt HBV (HBsAg) và kháng nguyên lõi HCV (HCV‐coreAg) trong huyết thanh. <br />
Thông tin về bản thân, tiền căn và tình trạng bệnh lý hiện tại được thu thập thông qua bảng câu hỏi in sẵn. <br />
Kết quả: Tổng số 141 bệnh nhân tham gia có 53% là nữ giới. Độ tuổi trung bình 55 ± 16 (nhỏ nhất là 19 và <br />
lớn nhất là 87 tuổi). 21% bệnh nhân nhỏ hơn 41 tuổi, 42% từ 41 – 60 và 37% lớn hơn 60 tuổi. Ba nguyên nhân <br />
gây bệnh hàng đầu là tăng huyết áp (THA) (33%), đái tháo đường týp 2 (ĐTĐ) (32%) và bệnh cầu thận (BCT) <br />
(18%). Nguyên nhân gây bệnh có sự khác biệt theo nhóm tuổi và giới tính. 5,7% (8/141) dương tính với HBsAg, <br />
6,4% (9/141) với HCV‐coreAg và 0,7% (1/141) dương tính với cả hai loại xét nghiệm. <br />
Kết luận: Để góp phần ngăn ngừa STMGĐC, cần kiểm soát tốt THA, ĐTĐ và BCT; phát hiện sớm và điều <br />
trị dự phòng bệnh thận mạn. Để đạt được điều này, cần nâng cao kiến thức người dân về bệnh thận mạn và ý <br />
thức về việc thăm khám sức khỏe định kỳ. Ngoài ra, cần chú ý tầm soát triệu chứng sớm của các bệnh trên ở tất <br />
cả các chuyên khoa. Bên cạnh đó, nghiên cứu về mức độ tuân thủ qui trình chống nhiễm khuẩn tại các cơ sở <br />
CTNT cần được tiến hành nhằm đánh giá toàn diện hiệu quả của các biện pháp dự phòng nhiễm HBV và HCV ở <br />
các bệnh nhân CTNT. <br />
Từ khóa: Suy thận mạn; Nhiễm siêu vi viêm gan B và C; điều trị chạy thận nhân tạo <br />
<br />
ABSTRACT <br />
PATTERN OF END STAGE RENAL DISEASE AND SEROPREVALENCE OF HEPATITIS B VIRUS <br />
AND HEPATITIS C VIRUS INFECTIONS AMONG CHRONIC HAEMODIALYSIS PATIENTS IN <br />
VIETNAM: A SINGLE‐CENTRE EXPERIENCE <br />
Duong Minh Cuong, Olszyna Dariusz Piotr, Nguyen Duy Phong, Ngo Thanh Dieu, <br />
McLaws Mary‐Louise* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014:: 206 ‐ 211 <br />
Background: The updatecause of end stage renail disease (ESRD) andprevalence of hepatitis B virus (HBV) and <br />
hepatitis C virus (HCV)helps to establish rational nosocomial preventivestrategiesindialysisdepartment. <br />
Objectives: We aimed to identify the major causes of ESRD and the seroprevalence of hepatitis B virus and <br />
*<br />
<br />
**<br />
Đại Học New South Wales, Úc<br />
Trường Y Đại Học Quốc Gia, Singapore<br />
***<br />
****<br />
Đại Học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh, Việt Nam<br />
Bệnh viện An Sinh, Việt Nam<br />
Tác giả liên lạc: PGS.TS Nguyễn Duy Phong ĐT: 0913155993<br />
Email: nguyenduyphongvn@yahoo.com<br />
<br />
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng <br />
<br />
205<br />
<br />
Nghiên cứu Y học <br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014<br />
<br />
<br />
hepatitis C virus infections among adult patients undergoing chronic haemodialysis. <br />
Methods: A cross‐sectional survey was conducted between October 2012 and October 2013. Study <br />
participants were tested for HBV surface antigen (HBsAg) and HCV core antigen (HCV‐coreAg). Demographic <br />
characteristics and medical histories were collected using a self‐reported questionnaire. <br />
Results: All 141 patients attending the heamodialysis unit completed the questionnaire of whom53% were <br />
female. Age ranged between 19 and 87 years (mean ± SD; 55 ± 16). Of these, 21% were younger than 41 years, <br />
42% were between 41 and 60 and 37% were older than 60 years. The top three causes of ESRD were <br />
hypertension (33%), diabetes mellitus (32%) and glomerulonephritis (18%). The leading cause of ESRD differed <br />
by age and gender. Seroprevelence for bloodborne infections identified 5.7% (8/141) were HBsAg+, 6,4% (9/141) <br />
were HCV‐coreAg+ and 0,7% (1/141) was HBsAg+ and HCV‐coreAg+. <br />
Conclusion: Improvement in management of hypertension, diabetes and glomerulonephritis; early detection <br />
and better preventive care of chronic kidney disease pivotal to the prevention of ESRD. It is essential that people <br />
should improve their perception of periodic medical checkup and ESRD knowledge. In addition, physicians <br />
regardless of specialiaty pay much attention to the early signs of those leading diseases causing ESRD. Actual <br />
practices of universal precautions among haemodialysis centres should be examined in Vietnam to evaluate the <br />
effectiveness of the current viral hepatitis prevention methods. <br />
Key words: Chronic renal failure; HBV and HCV infection; Heamodialysis Patients <br />
<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ <br />
STMGĐC đang trở thành một vấn đề sức <br />
khỏe toàn cầu. Theo ước đoán năm 2012 có <br />
3.010.000 bệnh nhân STMGĐC đang được điều trị <br />
trên toàn thế giới với tỷ lệ gia tăng hàng năm là <br />
7%(7). Tại Việt Nam, báo cáo gần đây cho thấy tỷ <br />
lệ bệnh nhân STMGĐC được chẩn đoán mới <br />
hàng năm vào khoảng 100 ‐ 150/ 1.000.000 dân(5). <br />
Riêng tại miền Bắc, một khảo sát với qui mô lớn <br />
được thực hiện trên 8.505 người cho thấy bệnh <br />
thận mạn giai đoạn 3 – 5 chiếm tỷ lệ 3.1%(9). Ở các <br />
nước phương Tây, ĐTĐ và THA là nguyên nhân <br />
gây bệnh hàng đầu(16). Tương tự, tại Việt Nam, <br />
nguyên nhân STMGĐC cũng đang có chiều <br />
hướng thay đổi cùng với sự trỗi dậy của các bệnh <br />
mạn tính không lây thời gian gần đây(11). <br />
CTNT là một trong 3 phương pháp điều trị <br />
STMGĐC được thực hiện tại Việt Nam. Hai <br />
phương pháp còn lại bao gồm ghép thận và <br />
thẩm phân phúc mạc. CTNT được áp dụng cho <br />
bệnh nhân STMGĐC lần đầu tại Việt Nam vào <br />
năm 1983(15). Cho đến nay, số lượng bệnh nhân <br />
điều trị CTNT ngày càng tăng do hiệu quả cũng <br />
như chi phí điều trị hợp lí so với các nước có thu <br />
nhập tương đương trong khu vực cùng sự hỗ trợ <br />
<br />
206<br />
<br />
của chính phủ thông qua việc chi trả bảo hiểm y <br />
tế(12). Tuy nhiên, bệnh nhân CTNT có nguy cơ <br />
cao nhiễm SVB và SVC(4). Các nghiên cứu cho <br />
thấy truyền máu thường xuyên, điều trị tại <br />
nhiều khoa lọc máu khác nhau, thời gian lọc <br />
máu kéo dài và đặc biệt là các tiếp xúc trong môi <br />
trường khoa chạy thận là những yếu tố nguy cơ <br />
nhiễm bệnh(2,11). <br />
Việc cập nhật những thay đổi về các nguyên <br />
nhân phổ biến gây bệnh STMGĐC và tỷ lệ hiện <br />
mắc SVB và SVC giúp đưa ra các chiến lược <br />
phòng bệnh hợp lí cũng như đánh giá được vai <br />
trò của các biện pháp chống nhiễm khuẩn đang <br />
được áp dụng tại khoa lọc máu. Từ đó góp phần <br />
nâng cao hiệu quả của chương trình phòng bệnh <br />
và cải thiện hơn nữa chất lượng điều trị <br />
STMGĐC. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu tại <br />
khoa Lọc Máu, Bệnh Viện Quận 6, thành phố Hồ <br />
Chí Minh nhằm khảo sát nguyên nhân <br />
STMGĐC và tỷ lệ hiện mắc SVB và SVC ở các <br />
bệnh nhân đang điều trị tại khoa. <br />
<br />
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU <br />
Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện trên <br />
141 bệnh nhân người lớn (trên 18 tuổi) đang điều <br />
trị tại khoa lọc máu Bệnh viện Quận 6 từ tháng <br />
<br />
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng <br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 <br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
<br />
10/2012 đến 10/2013. Tất cả bệnh nhân đều đồng <br />
ý tham gia nghiên cứu. Đề tài nghiên cứu được <br />
chấp thuận bởi hội đồng Y Đức Đại học New <br />
South Wales, Sở Y Tế thành phố Hồ Chí Minh và <br />
Bệnh viện Quận 6. <br />
Người tham gia được thực hiện xét nghiệm <br />
tầm soát kháng nguyên bề mặt SVB (HBsAg) và <br />
kháng nguyên lõi SVC (HCV‐coreAg). Ngoài ra, <br />
bệnh nhân được yêu cầu cung cấp các thông tin <br />
về bản thân, tiền căn và tình trạng bệnh lý hiện <br />
tại thông qua việc điền vào bảng câu hỏi <br />
theomẫu in sẵn dưới sự hướng dẫn của nghiên <br />
cứu viên. Các thông tin này sẽ được đối chiếu <br />
với hồ sơ bệnh án của bệnh nhân. <br />
Do giới hạn về diện tích, khoa lọc máu Bệnh <br />
viện Quận 6 chưa có các phòng lọc máu riêng <br />
cho bệnh nhân nhiễm SVB và/hoặc SVC. Tuy <br />
nhiên các bệnh nhân này được sử dụng máy <br />
chạy thận riêng biệt (“máy nhiễm SVB” và “máy <br />
nhiễm SVC”). Tương tự, màng lọc tái sử dụng <br />
được rửa và bảo quản ở những khu vực khác <br />
nhau tùy theo tình trạng nhiễm bệnh của chủ <br />
nhân màng lọc. <br />
Số liệu thống kê được xử lý bằng phần mềm <br />
SPSS phiên bản 20. <br />
<br />
số này, 21% bệnh nhân nhỏ hơn 41 tuổi, 42% từ <br />
41 đến 60 và 37% lớn hơn 60 tuổi. Nữ giới chiếm <br />
53%.33% bệnh nhân đến từ các tỉnh thành khác <br />
thành phố Hồ Chí Minh (bảng 1). <br />
Bảng 1: Đặc điểm chung của 141 bệnh nhân điều trị <br />
tại khoa Lọc Máu, Bệnh viện Quận 6 <br />
Nữ giới % (n)<br />
Phân bố theo nhóm tuổi<br />
<br />
54 (75)<br />
<br />
< 41 tuổi<br />
41 - 60 tuổi<br />
> 60 tuổi<br />
Phân bố theo nơi sinh sống<br />
<br />
21 (30)<br />
42 (59)<br />
37 (52)<br />
<br />
Thành phố Hồ Chí Minh<br />
Tỉnh thành khác<br />
<br />
67 (95)<br />
33 (46)<br />
<br />
THA (33%), ĐTĐ (32%) và BCT (18%) là 3 <br />
nguyên nhân gây bệnh hàng đầu trong dân số <br />
nghiên cứu.Nguyên nhân gây bệnh có sự khác biệt <br />
về giới và nhóm tuổi. Ở nam giới, nguyên nhân <br />
phổ biến nhất theo thứ tự là THA, BCT và ĐTĐ. <br />
Ngược lại, ở nữ giới chỉ có ĐTĐ và THA là 2 <br />
nguyên nhân chính.Trong khi BCT chiếm tỷ lệ 27% <br />
ở các bệnh nhân nam, con số này chỉ 11% ở các <br />
bệnh nhân nữ. Nguyên nhân gây bệnh hàng đầu ở <br />
các bệnh nhân nhỏ hơn 41 tuổi là BCT. THA và <br />
ĐTĐ là các nguyên nhân phổ biến ở nhóm 41 – 60 <br />
tuổi và trên 60 tuổi theo thứ tự (bảng 2). <br />
<br />
KẾT QUẢ <br />
Độ tuổi trung bình của các bệnh nhân là 55 ± <br />
16 (nhỏ nhất là 19 và lớn nhất là 87 tuổi).Trong <br />
Bảng 2: Nguyên nhân STMGĐC của 141 bệnh nhân điều trị tại khoa Lọc Máu, Bệnh viện Quận 6 <br />
Nguyên nhân STMGĐC<br />
<br />
Tăng huyết áp<br />
Đái tháo đường type 2<br />
Bệnh cầu thận<br />
Lupus<br />
Bệnh ống thận mô kẽ<br />
Bệnh thận đa nang<br />
Nguyên nhân tắc nghẽn*<br />
Sỏi hệ niệu<br />
Ung thư bàng quang<br />
Không rõ<br />
<br />
Tổng số<br />
(N= 141)<br />
% (n)<br />
33 (46)<br />
32 (45)<br />
18 (26)<br />
2 (3)<br />
3 (4)<br />
2 (3)<br />
2 (3)<br />
2 (3)<br />
1 (1)<br />
5 (7)<br />
<br />
Theo giới tính<br />
Nam(N= 66) Nữ(N= 75)<br />
% (n)<br />
% (n)<br />
30 (20)<br />
23 (15)<br />
27 (18)<br />
0<br />
5 (3)<br />
3 (2)<br />
5 (3)<br />
0<br />
2 (1)<br />
6 (4)<br />
<br />
35 (26)<br />
40 (30)<br />
11 (8)<br />
4 (3)<br />
1 (1)<br />
1 (1)<br />
0<br />
4 (3)<br />
0<br />
4 (3)<br />
<br />
Theo nhóm tuổi<br />
< 41 tuổi(N= 30) ‐ 60 tuổi(N= 59) > 60 tuổi(N= 52)<br />
% (n)<br />
% (n) <br />
% (n)<br />
3 (1)<br />
42 (25)<br />
39 (20)<br />
0<br />
31 (18)<br />
52 (27)<br />
67 (20)<br />
9 (5)<br />
2 (1)<br />
10 (3)<br />
0<br />
0<br />
0<br />
3 (2)<br />
4 (2)<br />
0<br />
5 (3)<br />
0<br />
7 (2)<br />
2 (1)<br />
0<br />
0<br />
3 (2)<br />
2 (1)<br />
0<br />
0<br />
2 (1)<br />
(4)<br />
5 (3)<br />
0<br />
<br />
*Hẹp niệu quản bẩm sinh và mắc phải, bàng quang thần kinh do chấn thương tuỷ sống. <br />
Ghi chú: Tổng các tỷ lệ có thể khác 100% do làm tròn số <br />
<br />
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng <br />
<br />
207<br />
<br />
Nghiên cứu Y học <br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014<br />
<br />
<br />
Về tỷ lệ hiện mắc SVB và SVC, có 8 bệnh <br />
nhân (5,7%) và 9 bệnh nhân (6,4%) dương tính <br />
với HBsAg và HCV‐coreAg. Một bệnh nhân <br />
<br />
(0,7%) dương tính với cả hai loại xét nghiệm <br />
(hình 1). <br />
<br />
5.7%<br />
<br />
6.4%<br />
<br />
0.7%<br />
Nhiễm SVVGB<br />
Nhiễm SVVGC<br />
Đồng nhiễm<br />
Không nhiễm<br />
<br />
Không nhiễm, <br />
87.20%<br />
<br />
Hình 1: Tỷ lệ hiện mắc SVB và SVC của 141 bệnh nhân điều trị tại khoa Lọc Máu, Bệnh viện Quận 6 <br />
muộn của bệnh bao gồm bệnh thận mạn có khả <br />
BÀN LUẬN <br />
năng xuất hiện. Ngoài ra, các bệnh nhân trong <br />
Cập nhật nguyên nhân STMGĐC đóng vai <br />
nghiên cứu của chúng tôi đa số sống tại thành <br />
trò quan trọng trong việc kiểm soát bệnh do một <br />
phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận, nơi có điều <br />
số nguyên nhân có thể dự phòng hoặc điều trị <br />
kiện kinh tế xã hội tốt hơn khu vực thực hiện <br />
nhằm giúp kéo dài diễn tiến đến STMGĐC. <br />
nghiên cứu của tác giả Võ Tam là các xã thuộc <br />
Trong nghiên cứu của chúng tôi, các nguyên <br />
Thừa Thiên Huế. Điều này phần nào tạo nên sự <br />
nhân STMGĐC bao gồm THA, ĐTĐ, BCT, bệnh <br />
khác biệt về mô hình bệnh tật ở hai nơi. Mặt <br />
ống thận mô kẽ, Lupus, bệnh thận đa nang, bệnh <br />
khác, trong nghiên cứu hiện tại, chúng tôi thấy <br />
thận do nguyên nhân tắc nghẽn, sỏi hệ niệu và <br />
rằng nguyên nhân gây bệnh có sự khác biệt theo <br />
ung thư bàng quang. Trong số này, hai nguyên <br />
nhóm tuổi và giới tính. Như đã trình bày, THA <br />
nhân hàng đầu là THA và ĐTĐ phù hợp với các <br />
và ĐTĐ là các nguyên nhân phổ biến ở nhóm <br />
báo cáo ở Mĩ và Châu Âu(3). Ở các nước đang <br />
bệnh nhân 41 – 60 và trên 60 tuổi theo thứ tự. <br />
phát triển thuộc khu vực hạ Sahara và châu Á, <br />
Nguyên nhân do BCT vẫn còn chiếm tỷ lệ khá <br />
tương tự như Việt Nam, các bệnh này cũng đang <br />
cao (18%) và đứng hàng thứ ba gây STMGĐC <br />
dần trở thành nguyên nhân STMGĐC quan <br />
trong toàn dân số nghiên cứu. Đặc biệt, BCT <br />
trọng(13)(16). Tại Việt Nam, các nghiên cứu về <br />
chiếm tỷ lệ cao ở nam giới so với nữ (27% và <br />
nguyên nhân STMGĐC không nhiều. Khảo sát <br />
11%). Đặc biệt, BCT là nguyên nhân hàng đầu ở <br />
của tác giả Võ Tam thực hiện năm 2004 cho thấy <br />
nhóm bệnh nhân diễn tiến đến STMGĐC ở lứa <br />
bệnh lý cầu thận, viêm thận bể thận do nhiễm <br />
tuổi vẫn còn khả năng lao động (trước 41 tuổi) <br />
khuẩn hệ tiết niệu mạn tính và sỏi hệ niệu là <br />
(67%). Điều này tương tự như báo cáo của tác <br />
những nguyên nhân hàng đầu gây suy thận mạn <br />
giả Tsai TC và cộng sự tại Đài Loan(14). Với xu <br />
ở người lớn(15). Trong nghiên cứu hiện tại, chúng <br />
hướng tuổi chạy thận đang dần trẻ hóa tại Việt <br />
tôi không ghi nhận trường hợp nào có nguyên <br />
Nam hiện nay, việc xác định nguyên nhân gây <br />
nhân do nhiễm khuẩn hệ tiết niệu. Sự khác biệt <br />
STMGĐC ở nhóm bệnh nhân này thực sự cần <br />
này có thể do việc gia tăng số lượng bệnh nhân <br />
thiết nhằm kiểm soát tình trạng bệnh. BCT nếu <br />
ĐTĐ và/hoặc THA trên toàn thế giới bao gồm <br />
được chẩn đoán sớm, tùy theo nguyên nhân, có <br />
Việt Nam trong thời gian gần đây(10). Bên cạnh <br />
thể điều trị và theo dõi nhằm kéo dài thời gian <br />
đó, những tiến bộ trong điều trị và quản lý các <br />
diễn tiến đến STMGĐC. Điều đáng lưu ý là đa <br />
bệnh này cũng giúp cho thời gian sống của bệnh <br />
số bệnh nhân trong nghiên cứu sống tại khu vực <br />
nhân được kéo dài hơn. Từ đó, các biến chứng <br />
<br />
208<br />
<br />
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng <br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 <br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
<br />
có trình độ kinh tế xã hội và y tế phát triển. Từ <br />
đó cho thấy người dân còn chưa có thói quen đi <br />
khám sức khỏe định kỳ nhằm phát hiện sớm <br />
bệnh cũng như kiến thức về STMGĐC còn hạn <br />
chế. Mặt khác, việc khảo sát chức năng thận có <br />
thể cũng chưa được thực hiện thường qui, đặc <br />
biệt ở các bệnh nhân trẻ tuổi tại một số cơ sở y tế. <br />
Vấn đề nhiễm SVB và SVC là một trong <br />
những mối quan tâm hàng đầu ở các bệnh nhân <br />
điều trị CTNT. Nhiễm SVB và SVC ở các bệnh <br />
nhân này thường không có triệu chứng lâm sàng <br />
rõ rệt nhưng lại có nguy cơ cao diễn tiến đến <br />
viêm gan mạn tính. Từ đó có thể đưa đến xơ gan <br />
và ung thư gan. Điều này làm tăng chi phí điều <br />
trị, giảm thời gian và chất lượng cuộc sống của <br />
các bệnh nhân STMGĐC. Tuy nhiên, điều đáng <br />
lưu ý là đáp ứng miễn dịch ở bệnh nhân CTNT <br />
với các xét nghiệm kháng thể dùng cho việc tầm <br />
soát SVB và SVC kém. Nghiên cứu gần đây cho <br />
thấy tỷ lệ âm tính giả ở nhóm bệnh nhân này lên <br />
tới 17,9%(6). Đây là một trở ngại lớn trong việc <br />
tầm soát viên gan siêu vi ở các bệnh nhân CTNT. <br />
Trong nghiên cứu hiện tại, chúng tôi sử dụng xét <br />
nghiệm HCV‐coreAg để phát hiện sự hiện diện <br />
của kháng nguyên lõi SVC với độ đặc hiệu đạt <br />
99.8% cùng độ nhạy tương đương xét nghiệm <br />
HCV‐RNA giúp làm giảm tỷ lệ âm tính giả(12). <br />
Chúng tôi ghi nhận tỷ lệ hiện mắc của SVB và <br />
SVC lần lượt là 5,7% và 6,4%. Một bệnh nhân <br />
(0,7%) dương tính với cả hai loại xét nghiệm tầm <br />
soát viêm gan siêu vi. Tỷ lệ này nhìn chung thấp <br />
hơn nhiều so với báo cáo của các tác giả khác <br />
trong nước thời gian gần đây. Tại miền Nam, <br />
năm 2011, tác giả Nguyễn Bách và cộng sự thực <br />
hiện nghiên cứu trong thời gian 6 năm tại bệnh <br />
viện Thống Nhất cho thấy tỷ lệ nhiễm SVB, SVC <br />
và đồng nhiễm lần lượt là 4,89% (2,17 – 7,21%), <br />
19,58% (12,37 – 15,22%), và 2,09% (1,01 – <br />
3,26%)(11). Tại miền Bắc, tác giả Hà Phan Hải An <br />
và cộng sự khảo sát tỷ lệ nhiễm SVC giai đoạn <br />
2007 – 2011 là 33,5% tại bệnh viện Việt Đức(6). <br />
Nghiên cứu khác tại miền Bắc cho thấy tỷ lệ <br />
nhiễm SVB và/hoặc SVC là 64,9%, đồng nhiễm <br />
chiếm tỷ lệ 5,5%(1). Sự khác biệt này có thể là do <br />
<br />
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng <br />
<br />
việc thực hiện nghiêm ngặt qui trình chống <br />
nhiễm khuẩn tại cơ sở nghiên cứu kể từ khi <br />
thành lập cho đến nay. Bên cạnh phòng ngừa <br />
phổ quát, chúng tôi thực hành không tái sử <br />
dụng các thiết bị y tế dùng trong CTNT ngoại <br />
trừ màng lọc, hạn chế sử dụng chung một lọ <br />
thuốc (Heparin…) cho nhiều bệnh nhân, tuân <br />
thủ qui trình rửa máy sau chạy thận, rửa và bảo <br />
quản màng lọc tái sử dụng. Mặc dù vậy, như đã <br />
đề cập, sự khác biệt về loại xét nghiệm dùng tầm <br />
soát bệnh cũng như qui mô của cơ sở lọc máu <br />
cũng góp phần tạo nên sự khác biệt trên. <br />
Tóm lại, để phòng ngừa STMGĐC, bên cạnh <br />
việc kiểm soát tốt THA, ĐTĐ và BCT, phát hiện <br />
sớm và điều trị dự phòng bệnh thận mạn, chúng <br />
ta cần nâng cao kiến thức của người dân về bệnh <br />
thận mạn cũng như ý thức về việc thăm khám <br />
sức khỏe định kỳ. Mặt khác, các triệu chứng sớm <br />
của các bệnh nguyên nhân cũng như của <br />
STMGĐC cần được lưu ý tầm soát ở tất cả các <br />
chuyên khoa.Bên cạnh đó, nghiên cứu về mức độ <br />
tuân thủ qui trình chống nhiễm khuẩn tại các cơ <br />
sở CTNT cần được tiến hành để có thể đánh giá <br />
toàn diện hiệu quả của các biện pháp dự phòng <br />
nhiễm SVB và SVC ở các bệnh nhân CTNT. <br />
Hạn chế của nghiên cứu: do nghiên cứu <br />
được thực hiện ở qui mô một khoa lâm sàng nên <br />
cỡ mẫu còn khá nhỏ. Mặt khác, nguyên nhân <br />
gây bệnh trong nghiên cứu được xác định dựa <br />
vào bệnh sử và hồ sơ bệnh án. Do sinh thiết thận <br />
là một kỹ thuật cao, xâm lấn và chưa được thực <br />
hiện phổ biến tại Việt Nam, cho nên các bệnh <br />
nhân đều không được thực hiện sinh thiết thận <br />
để xác định nguyên nhân khi bệnh suy thận mạn <br />
được chẩn đoán ở giai đoạn sớm. Mặt khác, một <br />
số bệnh nhân đã vào giai đoạn cuối khi được <br />
chẩn đoán bệnh.Việc sinh thiết thận lúc này <br />
không giúp ích cho mục đích chẩn đoán nguyên <br />
nhân. <br />
Cảm ơn: chúng tôi chân thành cảm ơn các Bác <br />
sĩ Nguyễn Thị Kim Phượng, Phạm Kiều Nguyệt <br />
Oanh, Dương Bích Thủy, Bùi Ngọc Minh Tâm, <br />
Nguyễn Triệu Vân, Nguyễn Trọng Khoa, <br />
<br />
209<br />
<br />