intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khóa luận tốt nghiệp: Hành vi tự cô lập ở sinh viên tại một số trường đại học trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:99

51
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nghiên cứu hệ thống hóa cơ sở lý luận liên quan đến hành vi tự cô lập ở sinh viên tại một số trường đại học trên địa bàn TP. HCM; phân tích thực trạng hành vi tự cô lập của sinh viên. Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp: Hành vi tự cô lập ở sinh viên tại một số trường đại học trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP HÀNH VI TỰ CÔ LẬP Ở SINH VIÊN TẠI MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành: Tâm lý học GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: NCS. ThS. Đỗ Tất Thiên SINH VIÊN THỰC HIỆN: Nguyễn Lê Bảo Hoàng LỚP: K40.TLH.B MSSV: K40.611.027 TP. HỒ CHÍ MINH, 2018
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP HÀNH VI TỰ CÔ LẬP Ở SINH VIÊN TẠI MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành: Tâm lý học TP. HỒ CHÍ MINH, 2018
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi. Các số liệu sử dụng phân tích trong luận án có nguồn gốc rõ ràng, đã công bố theo đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn do tôi tự tìm hiểu, phân tích một cách trung thực, khách quan và phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Các kết quả này chưa từng được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào khác. Sinh viên Nguyễn Lê Bảo Hoàng
  4. LỜI CẢM ƠN Xin dành lời cảm ơn trân trọng nhất đến NCS. ThS. Đỗ Tất Thiên - người đã tận tâm hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Xin gửi lời cảm ơn đến tập thể Quý thầy cô, cán bộ công nhân viên đang hoạt động ở Trường Đại học Sư phạm TP. HCM - những người đã giảng dạy và hỗ trợ tôi trong quá trình học tập và sinh hoạt trong thời gian ở trường. Xin cảm ơn Khoa Tâm lý học - Trường Đại học Sư phạm TP. HCM đã tạo điều kiện tốt nhất cho tôi hoàn thành chương trình học. Cảm ơn các bạn sinh viên từ Trường Đại học Sư phạm TP. HCM, Đại học Kiến trúc TP. HCM, Đại học Bách khoa TP. HCM, Đại học Ngoại ngữ - Tin học (HUFLIT) và Đại học Công nghệ TP. HCM (HUTECH) đã giúp đỡ tôi thực hiện phần nghiên cứu cho khóa luận. Dù đã rất cố gắng trong quá trình hoàn thành luận văn song không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý chân thành từ phía thầy cô. Sinh viên Nguyễn Lê Bảo Hoàng
  5. MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ......................................................................................... 2 DANH MỤC CÁC BẢNG ......................................................................................................... 3 MỞ ĐẦU .................................................................................................................................... 1 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI .......................................................................................................... 1 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU .................................................................................................. 2 3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU .................................................................................................. 2 4. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU ................................................................. 2 5. GIỚI HẠN VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ........................................................................... 3 6. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU .............................................................................................. 3 CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HÀNH VI TỰ CÔ LẬP Ở SINH VIÊN ......................... 6 1.1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ VỀ HÀNH VI TỰ CÔ LẬP CỦA SINH VIÊN .............................. 6 1.1.1. Những nghiên cứu về hành vi tự cô lập của sinh viên trên thế giới ........................ 6 1.1.2. Những nghiên cứu về hành vi tự cô lập của sinh viên ở Việt Nam ...................... 10 1.2. LÝ LUẬN VỀ HÀNH VI TỰ CÔ LẬP Ở SINH VIÊN................................................................. 11 1.2.1. Các vấn đề lý luận về hành vi ............................................................................... 11 1.2.2. Lý luận về hành vi lệch chuẩn ............................................................................... 14 1.2.3. Lý luận hành vi tự cô lập ....................................................................................... 21 1.2.4. Một số đặc điểm tâm lý của sinh viên ................................................................... 25 1.2.5. Lý luận về hành vi tự cô lập của sinh viên ............................................................ 27 1.2.6. Hậu quả từ hành vi tự cô lập của sinh viên ........................................................... 30 1.2.7. Mô hình hành vi tự cô lập của sinh viên ............................................................... 31 TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ........................................................................................................... 32 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG HÀNH VI TỰ CÔ LẬP Ở SINH VIÊN TẠI MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÊN ĐỊA BÀN TP.HCM ................................................................... 33 2.1. TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VỀ HÀNH VI TỰ CÔ LẬP Ở SINH VIÊN TẠI MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÊN ĐỊA BÀN TP. HCM ........................................................................... 33 2.1.1. Mục đích nghiên cứu ............................................................................................. 33 2.1.2. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................... 33 2.2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG HÀNH VI TỰ CÔ LẬP Ở SINH VIÊN TẠI MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÊN ĐỊA BÀN TP. HCM TỪ BẢNG HỎI SÀNG LỌC BAN ĐẦU ...................... 37 2.2.1. Thực trạng hành vi tự cô lập ở sinh viên tại một số trường đại học trên địa bàn TP. HCM qua nghiên cứu sàng lọc ........................................................................................ 37 2.2.2. Thực trạng hành vi tự cô lập ở sinh viên tại một số trường đại học trên địa bàn TP. HCM sau sàng lọc ........................................................................................................... 39 2.2.3. Một số nguyên nhân ảnh hưởng đến hành vi tự cô lập ở sinh viên ....................... 64 TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ........................................................................................................... 66 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .................................................................................................. 67 1. KẾT LUẬN .......................................................................................................................... 67 2. KIẾN NGHỊ.......................................................................................................................... 69 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................................ 70 
  6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT STT VIẾT TẮT ĐẦY ĐỦ 1 ĐTB Điểm trung bình 2 HVTCL Hành vi tự cô lập 3 SV Sinh viên 4 TP. HCM Thành phố Hồ Chí Minh
  7. DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng Trang Bảng 2.1. Số lượng sinh viên khảo sát tại các trường Đại học 34 Bảng 2.2. Độ tin cậy của thang đo biểu hiện hành vi tự cô lập 36 Bảng 2.3. Cách tính điểm mức độ hành vi tự cô lập 36 Bảng 2.4. Thực trạng hành vi tự cô lập ở sinh viên 37 tại một số trường đại học trên địa bàn TP. HCM Bảng 2.5. Vài nét về khách thể nghiên cứu được sàng lọc 39 Bảng 2.6. Thực trạng hiểu biết của sinh viên về hành vi tự cô lập 41 Bảng 2.7. Thực trạng về thời gian thực hiện hành vi tự cô lập của sinh viên 42 Bảng 2.8. Tần số thực hiện hành vi tự cô lập ở sinh viên 43 khi không có sự căng thẳng hay buồn bã Bảng 2.9. Tần số thực hiện hành vi tự cô lập ở sinh viên 43 khi có chuyện buồn hay gặp áp lực Bảng 2.10. Biểu hiện hành vi tự cô lập trong nhận thức của sinh viên 44 Bảng 2.11. Biểu hiện hành vi tự cô lập trong xúc cảm/ thái độ của sinh viên 47 Bảng 2.12. Biểu hiện hành vi tự cô lập trong hành động của sinh viên 49 Bảng 2.13. Biểu hiện hành vi tự cô lập của sinh viên 51 Bảng 2.14. Hệ số tương quan các mặt biểu hiện của 51 hành vi tự cô lập ở sinh viên chung Bảng 2.15. Hành vi tự cô lập của sinh viên so sánh 52 theo phương diện giới tính Bảng 2.16. Hành vi tự cô lập của sinh viên so sánh 53 theo phương diện hệ đào tạo Bảng 2.17. Điểm trung bình biểu hiện hành vi tự cô lập 53 trên phương diện học lực Bảng 2.18. Kiểm định Tamhane trên phương diện học lực 54 Bảng 2.19. Điểm trung bình biểu hiện hành vi tự cô lập 56 trên phương diện điểm rèn luyện Bảng 2.20. Kiểm định Tamhane trên phương diện điểm rèn luyện 57 Bảng 2.21. Điểm trung bình biểu hiện hành vi tự cô lập 58
  8. trên phương diện xuất thân Bảng 2.22. Kiểm định Tamhane trên phương diện xuất thân 59 Bảng 2.23. Điểm trung bình biểu hiện hành vi tự cô lập 61 trên phương diện kinh tế gia đình Bảng 2.24. Kiểm định Tamhane trên phương diện kinh tế gia đình 62 Bảng 2.25. Nguyên nhân ảnh hưởng đến hành vi tự cô lập ở sinh viên 64
  9. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Đầu năm 2018, Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) phối hợp Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội công bố kết quả nghiên cứu về sức khỏe tâm thần và tâm lý xã hội của trẻ em - thanh thiếu niên Việt Nam. Theo đó, có đến 8-29% đối tượng được nghiên cứu (11 đến 24 tuổi) gặp vấn đề sức khỏe tâm thần chung (tùy theo tỉnh thành, giới…), và hiện có khoảng 3 triệu trẻ em, thanh thiếu niên có nhu cầu về những dịch vụ chăm sóc sức khỏe tâm thần. Các vấn đề sức khỏe tâm thần phổ biến ở các em thường ở hướng nội (lo âu, trầm cảm, cô đơn…) hoặc hướng ngoại (tăng động, giảm chú ý…). Nghiên cứu dựa trên khảo sát 10.000 người được tiến hành sau khi có nhiều ý kiến tỏ ra lo ngại rằng tình trạng lo sợ về cô đơn ở giới trẻ đang trở thành vấn đề lớn của xã hội. Kết quả, người ta thấy rằng sống với ô nhiễm không khí tăng tỉ lệ tử vong lên 5%, đối với béo phì là 20%, lạm dụng rượu bia là 30%... và khi sống cô độc, con số này là 45% [24]. Lứa tuổi đầu thanh niên (18 - 25) theo học thuyết của Erikson nằm ở giai đoạn “Gắn bó và cô lập”. Giai đoạn này con người tìm kiếm các mối quan hệ có sự gắn bó lâu dài với người nào đó ngoài gia đình. Hoàn thành thành công giai đoạn này có thể tạo ra các mối quan hệ thoải mái và cảm giác gắn bó, an toàn, và có được tình yêu. Nếu không có được sự yêu thương, con người có xu hướng tự cô lập, vị kỷ, say mê với chính mình [27]. Việc sống tự cô lập không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất và tình thân của bản thân, mà còn ảnh hưởng đến các mối quan hệ xã hội, tiêu tốn phúc lợi và thậm chí làm trì trệ nền tài chính quốc gia. Những biểu hiện của người tự cô lập cho thấy họ không quan tâm đến việc chăm sóc bản thân, thu mình lại với các mối quan hệ xã hội, thậm chí ở mức độ nặng là sẽ giam mình trong nhà trong thời gian dài - đây cũng là nguyên nhân xã hội thiếu hụt nguồn nhân lực cả về lao động lẫn tri thức. Ở Nhật Bản, Hikikomori - một tên gọi khác của tự cô lập do ràng buộc văn hóa - được nghiên cứu sâu và đã có đề xuất xem đây là một chứng rối loạn tâm thần đưa vào DSM-V [15]. Điều này cho thấy các vấn đề về hành vi lệch chuẩn ngày càng xuất hiện dưới nhiều hình thái khác nhau, và từ nhiều góc độ thì “tự cô lập” là một hành vi tuy không mới, nhưng chưa được quan tâm và nghiên cứu đúng mực, nhất là ở Việt Nam. 1
  10. Sinh viên là những người thuộc lứa tuổi đầu thanh niên, vừa là những người đang mưu cầu hạnh phúc, lại là lực lượng nòng cốt góp phần quan trọng trong sự nghiệp xây dựng xã hội. Việc nghiên cứu và đánh giá mức độ, biểu hiện của các loại hành vi tự cô lập ở sinh viên có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc thay đổi các nhìn nhận đúng đắn hơn về vấn đề chăm sóc sức khỏe tinh thần và nâng cao các kỹ năng xã hội cần thiết. TP. HCM là nơi có nhiều trường Đại học chất lượng cao ở khu vực phía Nam, nơi sản sinh nguồn nhân lực tri thức đáp ứng cho nhu cầu phát triển xã hội. Trên thực tế bên cạnh những hậu quả được nghiên cứu như hành vi nghiện, hành vi tự hủy hoại bản thân… đến tâm sinh lý của bộ phận sinh viên, ảnh hưởng từ hành vi tự cô lập lại đang làm sức khỏe tinh thần và lối sống của lứa tuổi năng động này mai một đi một cách âm thầm. Việc tìm hiểu về hành vi tự cô lập của sinh viên, không chỉ tạo nên một hướng đi mới trong nghiên cứu ban đầu mà còn góp phần thúc đẩy mọi người có cách nhìn nhận đúng đắn hơn về dạng hành vi lệch chuẩn mới này - từ đó có những biện pháp chăm sóc sức khỏe tinh thần và cải thiện lối sống, mối quan hệ xã hội, đầu tư vào nguồn nhân lực hợp lý và hiệu quả. Từ những cơ sở trên, đề tài “Hành vi tự cô lập ở sinh viên tại một số trường đại học trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh” được xác lập. 2. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu thực trạng hành vi tự cô lập của sinh viên tại một số trường Đại học trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hóa cơ sở lý luận liên quan đến hành vi tự cô lập ở sinh viên tại một số trường đại học trên địa bàn TP. HCM. - Phân tích thực trạng hành vi tự cô lập của sinh viên. 4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu 4.1. Khách thể nghiên cứu Sinh viên đại học tại một số trường trên địa bàn TP.HCM 4.2. Đối tượng nghiên cứu Hành vi tự cô lập của sinh viên ở một số trường đại học trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. 2
  11. 5. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu 5.1. Giới hạn về nội dung nghiên cứu Đề tài nghiên cứu về hành vi tự cô lập ở sinh viên thông qua biểu hiện ở các mặt nhận thức, thái độ và hành vi. Tìm hiểu một số nguyên nhân dẫn đến hành vi tự cô lập của sinh viên. 5.2. Giới hạn về khách thể nghiên cứu Đề tài nghiên cứu trên sinh viên tại các trường đại học như: Đại học Kiến trúc TP. HCM; Đại học Ngoại ngữ - Tin học (HUFLIT); Đại học Sư phạm TP. HCM; Đại học Công nghệ TP. HCM (HUTECH); Đại học Bách khoa TP. HCM. 6. Giả thuyết nghiên cứu Biểu hiện của hành vi tự cô lập ở sinh viên tại một số trường Đại học trên địa bàn TP. HCM ở mức trung bình, thể hiện cao nhất ở mặt thái độ và thấp nhất ở mặt hành vi. Hành vi tự cô lập có sự khác biệt ý nghĩa thống kê giữa giới tính, học lực và điểm rèn luyện của sinh viên. Một số nguyên nhân dẫ đến hành vi tự cô lập do bị lạm dụng/ bạo hành cảm xúc (trêu chọc, đánh giá, phê bình, chế giễu, tẩy chay, chì chiết, bị cô lập…) hoặc không thích ứng được với môi trường mới (Trường Đại học, nơi làm việc, ngoài xã hội…). 7. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 7.1. Phương pháp luận 7.1.1. Quan điểm hệ thống - cấu trúc Quan điểm hệ thống - cấu trúc được vận dụng như là phương hướng cho toàn bộ quá trình xây dựng khung lý thuyết, xác lập khái niệm công cụ dưới dạng định nghĩa chỉ báo cũng như xây dựng bảng hỏi theo cấu trúc đã được xác lập. Cấu trúc nhận thức, thái độ và hành động cũng như mối quan hệ giữa 3 thành tố này được xem là 3 mặt chỉ báo nghiên cứu xuyên suốt cho khung lý luận, thang đo và nghiên cứu thực tiễn của đề tài. 3
  12. 7.1.2. Quan điểm thực tiễn Hành vi tự cô lập của sinh viên được xem xét như một dạng hành vi được hình thành, nảy sinh trên cơ sở thực tiễn chịu những tác động tiêu cực từ phía các mối quan hệ trong đời sống của chủ thể. Nghiên cứu hành vi tự cô lập của sinh viên phải nghiên cứu thông qua thực tiễn các mặt của hoạt động trong đời sống xã hội của sinh viên như sinh hoạt, học tập và tham gia các hoạt động xã hội. 7.2. Phương pháp nghiên cứu 7.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận a. Mục đích: Xây dựng cơ sở lý luận về hành vi tự cô lập của sinh viên ở một số trường Đại học tại TP. HCM. b. Cách thực hiện: + Tập hợp các tài liệu có liên quan. + Phân tích tài liệu thành từng đơn vị kiến thức. + Khái quát thành một hệ thống lý thuyết riêng phù hợp cho đề tài. 7.2.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn 7.2.2.1. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi a. Mục đích: + Khảo sát tự nhận thức và nhận thức của sinh viên ở một số trường đại học trên địa bàn TP. HCM về hành vi tự cô lập. + Khảo sát mức độ hành vi tự cô lập của sinh viên. + Đánh giá sự tác động các yếu tố hình thành nên mối quan hệ nguyên nhân - kết quả của hành vi tự cô lập. b. Xây dựng phiếu hỏi: Phiếu hỏi được xây dựng dựa trên cơ sở lý luận của đề tài và các yêu cầu cơ bản về kỹ thuật soạn thảo công cụ nghiên cứu. Tóm lại, đề tài sử dụng phương pháp điều tra bằng bảng hỏi là phương pháp chính. Các phương pháp còn lại nhằm mục đích hỗ trợ quá trình nghiên cứu. Các phương pháp này được sử dụng đồng bộ, phối hợp một cách hệ thống trong suốt quá trình nghiên cứu 4
  13. 7.2.3. Phương pháp thống kê toán học a. Mục đích: Sử dụng phương pháp này để xử lý và phân tích các số liệu thu được từ bảng hỏi nhằm định lượng các kết quả nghiên cứu và sử dụng như công cụ quy chiếu cho việc xây dựng bảng phân loại mức độ hành vi tự cô lập. b. Cách thực hiện: + Thống kê kết quả bảng hỏi, xử lý thô bằng chương trình SPSS 20.0. + Tính tỉ lệ phần trăm, thống kê tần số, điểm trung bình, xếp hạng và crosstab. 5
  14. CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HÀNH VI TỰ CÔ LẬP Ở SINH VIÊN 1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề về hành vi tự cô lập của sinh viên 1.1.1. Những nghiên cứu về hành vi tự cô lập của sinh viên trên thế giới Tuy được nhận định là biểu hiện của trầm cảm hoặc các bệnh tâm lý khác, một lượng đáng kể các trường hợp tự cô lập không đáp ứng các tiêu chí cho bất kỳ rối loạn tâm thần hiện có theo chuẩn DSM-V1 hay ICD-102. Từ những hậu quả mang lại, hành vi tự cô lập đã bắt đầu nhận được sự quan tâm từ cộng đồng Tâm lý học - Xã hội học, Y học… trên thế giới hơn nửa thế kỷ gần đây. Các nghiên cứu chuyên sâu về hành vi này cũng theo đó được xác lập. Có thể kể đến một số hướng nghiên cứu tiêu biểu sau: Về lãnh vực Tâm lý học, đã có những công trình xuất hiện từ sớm. Tiêu biểu trong đó là Học thuyết phát triển tâm lý của nhà tâm lý học Erik Erikson (1959). Mong muốn gần gũi (Intimacy) và hành vi tự cô lập (Isolation) đã được mô tả trong quan điểm của Erik Erikson về giai đoạn phát triển thứ 6 (độ tuổi 19-40) của con người. Ông tin rằng con người đôi khi bị cô lập vì mong muốn được gần gũi. Chúng ta sợ bị những hành động khước từ như quay lưng, phản bộ, từ chối tình cảm hay chấm dứt mối quan hệ... Chúng ta dần quen thuộc với nỗi đau (tinh thần) và một số người trong chúng ta từ chối nỗi đau này bởi vì cái tôi của họ không thể chịu được. Erikson cũng cho rằng sự gần gũi có một đối trọng, gọi tên là “Sự xa cách” (Distantiation): Sự sẵn sàng để tự cô lập và nếu cần thiết, phá hủy các mối quan hệ hoặc con người có ý định gây ảnh hưởng, xâm phạm, nới rộng phạm vi quan hệ của bản thân.” (1950). Trong giai đoạn này, khả năng độc lập, tự chủ, ý chí nghị lực, tinh thần trách nhiệm của cá nhân là khá cao. Ở lứa tuổi thanh niên này, con người có khuynh hướng tạo mối tương quan với người khác một cách riêng tư và thân mật hơn. Nếu thất bại, con người sẽ vụng về trong giao tiếp xã hội và khó kết thân với người khác, nhất là những người khác phái. Nếu không có được sự yêu thương, con người có xu hướng trở nên cô lập, vị kỷ, tự say mê với chính mình. Sự tự cô lập qua đó có thể thấy là biểu hiện của một nhân cách không được phát triển ổn định có thể dẫn đến các hành vi lệch chuẩn khác. Tuy nhiên, bên cạnh nguyên nhân lứa 1 Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders: Sổ Tay Thống Kê Và Chẩn Đoán Các Rối Loạn Tâm Thần Rút Gọn, phiên bản thứ 5 2  International Classification of Diseases: Phân loại quốc tế về bệnh tật  6
  15. tuổi và thất bại trong các mối quan hệ, việc mạng xã hội xuất hiện và dần kiểm soát thời gian sinh hoạt của các cá nhân cũng là một trong những yếu tố tác động đến mong muốn tự cô lập của bộ phận sinh viên hiện nay. Một nghiên cứu của Đại học Rice, Mỹ trên 159 người trong độ tuổi 18-55 với khoảng 60% nam giới về thể chất và tâm lý. Họ được nhỏ vào mũi dung dịch gây cảm lạnh và được cách ly trong khách sạn 5 ngày. Sau khi cân nhắc các yếu tố như giới tính, lứa tuổi… các nhà nghiên cứu xác định nguy cơ bị cảm lạnh của mọi người là tương đương nhau. Tuy nhiên khi bị cảm lạnh thì tình trạng bệnh của họ nặng hơn rất nhiều. Cảm giác cô đơn khiến tình trạng bệnh nặng hơn và đối mặt với rủi ro chết sớm [24]. Năm 2015, những nhà nghiên cứu từ Đại học Bringham Young ở Utah xem xét dữ liệu từ 3 triệu người trong 35 năm, phát hiện tằng những người sống một mình, không tương tác xã hội thường xuyên, ít mối quan hệ có nguy cơ tử vong sớm hơn những người khác [24]. Đài BBC ngày 11.04.2018 dẫn nghiên cứu của Cơ quan Thống kê quốc gia Anh cho thấy tỉ lệ người trẻ cảm thấy cô đơn cao hơn hẳn so với các nhóm tuổi khác: cứ 8 người sẽ có một người cho biết họ không có bạn thân, 2/3 số người ở độ tuổi 16-24 đã từng cảm thấy cô đơn trong một vài giai đoạn và 1/3 thường xuyên hoặc luôn cảm thấy cô độc. Tỉ lệ người trẻ 16-24 “có cảm giác cô đơn” cao gấp 63 lần so với người trên 75 tuổi [25]. Một số những nghiên cứu ở Nhật Bản từ bốn thập kỷ trở lại đây về sự tự cô lập dưới tên gọi Hikikomori đem lại những thông tin rất đáng quan tâm. Năm 1978, Kasahara đã mô tả một số trường hợp “loạn thần thoái lui” (withdrawal neurosis) hay taikyaku shinkeishou. Những năm 1980, Lock cũng liệt kê những trường hợp có “hội chứng từ chối nhà trường” (school refusal syndrome). Cả hai đều có những mô tả tương đồng với hành vi tự cô lập, tuy nhiên lại có rất ít cơ sở để kiểm chứng. Hikikomori sau đó được tiếp tục nghiên cứu vào những năm 1990 và đã bắt đầu nhận được sự quan tâm. Nhà tâm thần học Nhật Bản Saito (1998) đã mô tả Hikikomori đầu tiên, tiếp nối là những nghiên cứu đến từ Murakami (2000), Jones (2006)… Sau đó có sự quan tâm hỗ trợ từ các viện Hàn lâm phương Tây ủng hộ vào việc phân tích, nghiên cứu chi tiết [15]. Trong DSM-IV có mô tả về Rối loạn nhân cách tránh né, trong đó rối loạn thường xuất hiện lúc bắt đầu trưởng thành trong nhiều hoàn cảnh khác nhau và có ít nhất 4 trong các biểu hiện dưới đây: 7
  16. 1. Tránh né các hoạt động xã hội nghề nghiệp phải quan hệ nhiều do sợ bị phê bình, phản đối và chối bỏ. 2. Ngần ngại không bộc lộ tình cảm với người khác dù có nhu cầu được yêu thương. 3. Dè dặt ngay cả trong quan hệ thân tình vì sợ xấu hổ và làm chuyện kỳ cục 4. Trong các bối cảnh xã giao rất sợ bị phê bình và chối bỏ. 5. Trong những quan hệ mới mẻ thường ức chế vì cảm giác mình không được đánh giá cao 6. Tự xem mình không có năng lực giao tiếp xã hội, kém thu hút và thấp kém so với người khác 7. Rất dè dặt để tránh mọi vấn đề trong quan hệ cá nhân hoặc tránh né dấn thân trong các hoạt động mới vì sợ rơi vào tình trạng lúng túng [13]. Các nghiên cứu chỉ ra một dải tương đối rộng các bệnh kết hợp, rối loạn nhân cách tránh né được báo cáo có tỉ lệ cao liên kết với các bệnh thuộc nhóm rối loạn lo âu. Từ 20 đến 40% người mắc AvPD có bệnh ám ảnh sợ xã hội, đây là một con số không nhỏ. Nhưng một số báo cáo còn cho thấy các tỉ lệ cao hơn ở các bệnh khác, chẳng hạn có đến 45% người bệnh có biểu hiện của bệnh rối loạn lo âu lan tỏa và trên 56% bệnh rối loạn ám ảnh cưỡng chế [13]. Ngoài ra còn có ám ảnh sợ khoảng trống, tâm thần phân liệt, rối loạn chuyển đổi,… Về lãnh vực Xã hội học, hành vi tự cô lập được xem là một dạng hành vi chống xã hội - điều này đi ngược với quan điểm bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội, không chỉ tổng hoà các mối quan hệ trong hiện taị mà cả trong quá khứ. Trong những năm 1960, các nhà nghiên cứu Mỹ đã bắt đầu nghiên cứu để xác định những lối sống ảnh hưởng đến tuổi thọ của các nền văn hoá và bộ lạc bản địa, ở các vùng sâu vùng xa trên thế giới - những người vẫn chưa bị ảnh hưởng bởi công nghiệp hóa, số hóa... Các nhà khoa học như Alexander Leaf thuộc Trường Y Harvard, René Dubos thuộc Đại học Rockefeller phát hiện ra rằng các liên kết tình cảm mạnh mẽ, sự gần gũi trong một cộng đồng dường như bảo vệ con người khỏi bệnh tật và giúp họ sống lâu hơn [26]. Trong vòng 20 năm trở lại đây, đã có nhiều hơn sự quan tâm về sự cô lập của con người mà nghiên cứu của các nhà Tâm lý học, Xã hội học ở đại học Duke là một trong số đó. Nghiên cứu cho biết có đến 25% người Mỹ đã không có tương tác xã hội nào có ý nghĩa với người họ tin tưởng, quá nửa số đó cho biết họ không có bạn thân hay người gần gũi trong gia đình. Cũng theo Robert Putnam, nhà xã hội học và là tác giả cuốn 8
  17. Bowling Alone, cho biết cứ mỗi 10 phút trôi qua, lại có thêm 10% các mối quan hệ xã hội mất đi [22]. Về lãnh vực Y học, không chỉ tác động tiêu cực về mặt tâm lý, hành vi tự cô lập còn mang lại những hậu quả về mặt sinh học. Nghiên cứu vào tháng 11 năm 2015, Kiến trúc khác biệt về di truyền học của di truyền giả dược bạch cầu trong nhận thức cách ly xã hội, xuất hiện trong Kỷ yếu của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia [14]. Nghiên cứu này làm sáng tỏ sự cô đơn và nhận thức về cô lập xã hội gây ra những thay đổi sinh lý có thể làm cho ai đó bị bệnh hoặc chết sớm. Trên thực tế, các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng đối với người lớn tuổi, sự cô lập xã hội có thể làm tăng nguy cơ tử vong sớm lên 14%. Luận văn năm 1959 của Fromm-Reichmann về Tính cô độc khiến các nhà phân tâm học nghiên cứu thêm về sinh học về các tế bào và dây thần kinh. Họ khẳng định rằng cô đơn cũng liên kết với các loại bệnh tật như các bệnh tâm lý khác. Sự cô đơn gửi tín hiệu hormone gây hiểu nhầm, ảnh hưởng lên sự sao chép gene điều khiển hành vi và dần chiếm lấy toàn bộ hệ thống gene cùng tế bào thần kinh. Khi con người ở những tình huống dễ bị tổn thương, hệ thống phản ứng căng thẳng sẽ được đẩy lên trạng thái báo động, tim đập nhanh, cortisol tràn ngập cơ thể, các mô sưng lên, bạch cầu được tiết ra nhiều để giảm cơn đau. Lượng norepinephrine (chất tương tự adrenaline, có thể thu hẹp các mạch máu và tăng lượng đường trong máu) ở người cô đơn cao hơn so với người bình thường. Norepinephrine kích động các tế bào gốc trong tủy xương, từ đó sản xuất nhiều hơn một loại tế bào miễn dịch đặc biệt gọi là bạch cầu đơn nhân. Tình trạng này diễn ra trong thời gian dài khiến huyết áp tăng lên, hệ thống miễn dịch yếu đi, sụt giảm bạch cầu… từ đó con người dễ bị bệnh, làm trầm trọng bệnh hơn, về lâu dài, nguy cơ hệ miễn dịch suy yếu là không thể tránh khỏi thậm chí dẫn đến tử vong [19]. Từ đó có thể thấy “đại dịch cô đơn” có nguy hại chẳng kém HIV/AIDS. Từ những công trình đã nêu cho thấy các nhà nghiên cứu, các nhà Tâm lý học, Xã hội học và Y học… trên thế giới đã bắt đầu có sự quan tâm trong việc phân chia sự cô đơn, sự cô lập, tự kỉ… thành những khái niệm tách bạch - được đánh giá dựa trên thiệt hại về tâm-sinh lý; thậm chí từ mặt lợi ích kinh tế xã hội đến ảnh hưởng lên một nền văn hóa trong thời đại công nghệ số hiện đại. Tuy nhiên với những kết quả hầu hết được nghiên cứu trên người lớn tuổi - trong khi nguồn nhân lực chủ yếu tập trung ở người trẻ, nhất là độ tuổi sinh viên lại chưa được quan tâm. Việc sinh viên không có những cơ hội 9
  18. giao lưu và tiếp xúc cũng ảnh hưởng khá nhiều đến kĩ năng sống cũng như dễ dẫn đến những triệu chứng rối nhiễu tinh thần. Mặt khác, điều này cũng ảnh hưởng quan trọng đến nhân cách của cá nhân. Những cơ sở trên cho thấy sự tự cô lập ở sinh viên vẫn đang là một vấn đề mang tính thách thức chưa được nhìn nhận đúng mực. 1.1.2. Những nghiên cứu về hành vi tự cô lập của sinh viên ở Việt Nam Hiện nay các công trình nghiên cứu trực tiếp đến hành vi tự cô lập của sinh viên ở Việt Nam và còn rất hiếm hoi. Có thể điểm qua một số nghiên cứu có liên quan gần đến đề tài như sau: Một số nghiên cứu về hành vi tự cô lập Các nghiên cứu ở Việt Nam xem sự cô đơn và tự cô lập như là biểu hiện của trầm cảm, bị bạo lực từ nhỏ, thay đổi môi trường sống, xâm hại tình dục… là những rối nhiễu tâm lý dẫn đến hành vi lệch chuẩn. Những người trầm cảm có mạng lưới giao tiếp xã hội thưa thớt và coi chúng như là nguồn nâng đỡ. Sự nâng đỡ xã hội giảm sút có thể làm yếu đi năng lực của cá nhân trong việc phản ứng với những sự kiện tiêu cực trong cuộc sống, và làm cho cá nhân dễ cảm ứng với trầm cảm [3]. Người bệnh trầm cảm thường ngủ không yên, ngủ không sâu, hay mộng mị. Họ thường trong trạng thái chán nản, bi quan, thường bỏ dở nửa chừng và thấy việc gì cũng khó. Tội lỗi, mặc cảm thua kém, khiến người bệnh thu mình lại, không muốn tiếp xúc với xung quanh. Điều này làm bệnh ngày càng nặng thêm [25]. Một số nghiên cứu về hành vi lệch chuẩn Các nghiên cứu, chẩn đoán và điều chỉnh hành vi lệch chuẩn ở thanh, thiếu niên Việt Nam tuy còn mới nhưng ngày càng thu hút được sự quan tâm của các nhà Tâm lý học, Giáo dục học, Y học. Tuy phần lớn các nghiên cứu được thực hiện ờ khu vực Hà Nội, TP. HCM nhưng các tác giả đều nhận thức được tầm ảnh hưởng của các rối loạn tâm lý, hành vi đến sự hình thành và hoàn thiện nhân cách của thanh thiếu niên Việt Nam (cụ thể là lứa tuổi sinh viên). Các biểu hiện “Tự nhốt mình trong nhà”, “Lao vào một trò chơi nào đó” [12]… trong nghiên cứu “Rối loạn lo âu của sinh viên một số trường sư phạm tại Thành phố Hồ Chí Minh” phần nào cho thấy tự cô lập - tự thu mình chỉ được xem là một trong những biểu hiện của các rối loạn tâm thần đang được nghiên cứu… 10
  19. Những nghiên cứu về hành vi lệch chuẩn và hành vi tự hủy hoại chưa được quan tâm nhiều trong giai đoạn những năm 90 trở về trước. Vì Tâm lý học phát triển mạnh trong lãnh vực sư phạm, giáo dục, những nghiên cứu về hành vi tự hủy hoại bản thân bắt đầu phát triển từ những năm 1980 trở đi và nổi rõ là những năm 1995 trở về sau. Những thuật ngữ như “hành vi lệch chuẩn”, “hành vi tự hủy hoại bản thân” hay “hành vi tự cô lập” còn khá mới ở Việt Nam, thậm chí một số nhà giáo dục có biểu hiện tránh né khi đề cập đến. Người có công lao lớn trong việc nghiên cứu, phổ biến thực trạng, nguyên nhân và tác hại của các loại hành vi lệch chuẩn ở Việt Nam là cố bác sĩ Nguyễn Khắc Viện. Năm 1996, bác sĩ Nguyễn Khắc Viện đã làm chủ nhiệm đề tài cấp Quốc gia: “Bước đầu nhận dạng và phân loại những biểu hiện tâm bệnh lý thường gặp ở trẻ em và thanh thiếu niên trong giai đoạn hiện nay” được Hội đồng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường đánh giá, xếp loại xuất sắc và nghiệm thu ngày 12.01.1997. Đây không phải là nghiên cứu chuyên biệt về hành vi lệch chuẩn, hành vi tự hủy hoại hay hành vi tự cô lập nhưng là một trong những nghiên cứu làm cho mối quan tâm đến vấn đề này trở nên phổ biến. Một số biểu hiện “Bỏ bê bản thân mình”; “Nghĩ mình không có giá trị với mọi người xung quanh” [2]… thể hiện cái tôi thấp - một trong những nguyên nhân chủ yếu đưa đến hình thành hành vi tự cô lập. Nhìn chung các nghiên cứu trong và ngoài nước nước vẫn chưa có cái nhìn quan tâm đáng kể về hành vi tự cô lập so với nghiên cứu trên thế giới. Các khái niệm, biểu hiện của hành vi tự cô lập vẫn còn bị đánh đồng với những căn bệnh phổ biến như trầm cảm, rối loạn tránh né… Việc xem xét hành vi tự cô lập như một chỉnh thể độc lập đòi hỏi phải có sự phân biệt rõ ràng với các biểu hiện giống nhau tránh gây nhầm lẫn. Nghiên cứu thực trạng trên sinh viên - lứa tuổi mà học tập thường được xem là hoạt động chủ đạo của sinh viên để chuẩn bị hành trang về kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp, giúp họ sẵn sàng bước vào môi trường lao động nghề nghiệp trong tương lai tuy nhiều, nhưng vẫn chưa có những nghiên cứu cụ thể về các vấn đề sức khỏe tinh thần cho sinh viên. Vì vậy, việc nghiên cứu hành vi tự cô lập ở sinh viên tại một số trường đại học trên địa bàn TP. HCM là hoàn toàn cần thiết. 1.2. Lý luận về hành vi tự cô lập ở sinh viên 1.2.1. Các vấn đề lý luận về hành vi 11
  20. a. Định nghĩa hành vi Theo cách hiểu thông thường: Hành vi là một chuỗi các hành động lặp đi lặp lại, có thể thuộc về ý thức, tiềm thức, công khai hay kín đáo, tự giác hoặc không tự giác. Hành vi có thể thay đổi qua thời gian [17]. Theo từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê chủ biên thì “Hành vi là toàn bộ nói chung những phản ứng, cách cư xử biểu hiện ra ngoài của một người trong một hoàn cảnh cụ thể nhất định”. Ở đây đề cập đến hoàn cảnh của sự xuất hiện hành vi (tức là những tác động bên ngoài chủ thể) và hành vi ở đây phải là những hành xử người khác có thể quan sát được [21]. Trong Tâm lý học xã hội thì hành vi được quan niệm như “Hành động hay ý định hành động mà cá nhân sẽ ứng xử với đối tượng”. Khi nói đến hành vi người, chúng ta hiểu đó “là những biểu hiện bên ngoài của hoạt động, được điều chỉnh bởi cấu trúc tâm lý bên trong của chủ thể” [22]. Bên cạnh đó, các nhà tâm lý học trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu và đưa ra quan điểm về khái niệm hành vi có nét tương đồng nhau: X.L. Rubinstein: “Hành vi là kết quả của hành động tích cực của chủ thể đối với các đối tượng chủ thể gặp trong một hoàn cảnh nào đó”. Hành vi con người không còn đơn thuần là hành vi phản ứng mà thành hành vi tích cực [8]. Theo A.N. Leonchiev, hành vi không phải là những phản ứng máy móc của một cơ thể sinh vật, mà hành vi phải được hiểu là hoạt động [7]. Theo Hersey và Hard, đơn vị cơ sở của hành vi là một hành động. Toàn bộ hành vi là một chuỗi hành động [19]. Trong nước, cũng có nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu vấn đề này như: Tác giả Vũ Dũng, cho rằng hành vi là “Sự tác động qua lại giữa cơ thể sống với môi trường xung quanh, do tính tích cực bên ngoài (kích thích) và bên trong (nhu cầu) thúc đẩy. Sự độc đáo của hành vi cá nhân phụ thuộc vào tính chất của các mối quan hệ tương hỗ trong nhóm, thái độ của cá nhân đối với những chuẩn mực, định hướng giá trị và vị thế xã hội mà người đó đảm nhiệm [15]. Tác giả Dương Thiệu Tống thì lại cho rằng: “Hành vi là những biểu hiện bên ngoài của hoạt động, được điều chỉnh bởi cấu trúc tâm lý bên trong của chủ thể” [2]. Tác giả Phạm Minh Hạc cho rằng hành vi là những biểu hiện bên ngoài của hoạt động và bao giờ cũng gắn liền với động cơ, mục đích. Ông cho rằng: nếu vận dụng cấu 12
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2