intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh doanh: Cơ quan quản lý cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay – một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Chia sẻ: Caphesuadathemhanh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:58

50
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Khóa luận nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay. Từ đó, đánh giá quá trình hoạt động, tìm ra những bất cập, hạn chế về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của cơ quan quản lý cạnh tranh tại Việt Nam, tiếp thu kinh nghiệm của một số quốc gia tiêu biểu trên thế giới, đề ra một số kiến nghị hoàn thiện cơ quan cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh doanh: Cơ quan quản lý cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay – một số vấn đề lý luận và thực tiễn

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT --0—0-- NGUYỄN THỊ THU HUYỀN CƠ QUAN QUẢN LÝ CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP NGÀNH: LUẬT KINH DOANH Hệ đạo tạo chính quy Khóa học: QH-2014 LKD Hà Nội - 2018
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT --0—0-- NGUYỄN THỊ THU HUYỀN CƠ QUAN QUẢN LÝ CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP NGÀNH: LUẬT KINH DOANH Hệ đạo tạo chính quy Khóa học: QH-2014 LKD Giảng viên hƣớng dẫn: Th.S Trần Anh Tú Hà Nội - 2018
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự hướng dẫn của Giảng viên Thạc sĩTrần Anh Tú . Các nội dung nghiên cứu, kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa công bố dưới bất kỳ hình thức nào trước đây. Những số liệu phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo. Ngoài ra, trong khóa luận còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số liệu của các tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc. Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung khóa luận của mình. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Khóa luận. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thị Thu Huyền
  4. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1 Chương 1: Khái quát chung về mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh............... 5 1.1 . Sự hình thành cơ quan quản lý cạnh tranh và một số mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh điển hình trên thế giới. .................................................... 5 1.1.1. Sự hình thành cơ quan cạnh tranh. .................................................. 5 1.1.2. Một số mô hình cơ quan cạnh tranh trên thế giới ........................... 9 1.2. Chức năng, nhiệm vụ của cơ quan quản lý cạnh tranh. ...................... 18 1.3. Đặc trưng pháp lý của cơ quan quản lý cạnh tranh. ............................ 20 1.3.1. Tính “lưỡng tính” hay nửa “tư pháp” nửa “hành chính”. ............. 20 1.3.2. Tính độc lập.................................................................................. 21 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG CƠ QUAN QUẢN LÝ CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. .................................................................................................... 23 2.1. Sự hình thành của cơ quan quản lý cạnh tranh tại Việt Nam. ............. 23 2.2.Hệ thống cơ quan quản lý cạnh tranh theo Luật Cạnh tranh năm 2004. 25 2.2.1. Cục quản lý cạnh tranh. .................................................................. 25 2.2.1.1. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Cục quản lý cạnh tranh.25 2.2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Cục quản lý cạnh tranh. ............................... 30 2.2.2. Hội đồng cạnh tranh. ....................................................................... 32 2.2.2.1. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng Cạnh tranh. .. 33 2.2.2.2. Cơ cấu tổ chức của Hội đồng cạnh tranh. .................................... 34 2.3. Những hạn chế trong mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh theo pháp luật hiện hành. .............................................................................................. 35 2.3.1. Bản chất pháp lý của cơ quan quản lý cạnh tranh chưa rõ ràng. .... 35 2.3.2. Tính độc lập của cơ quan quản lý cạnh tranh còn hạn chế. ............ 37 2.3.3. Tính chuyên môn của cơ quan quản lý cạnh tranh chưa cao. ......... 39
  5. CHƢƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN HỆ THỐNG CƠ QUAN QUẢN LÝ CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. ............................................................................................................... 42 3.1. Làm rõ bản chất pháp lý của cơ quan quản lý cạnh tranh. ................... 42 3.2. Cơ cấu lại hệ thống cơ quan quản lý cạnh tranh. .................................. 42 3.3. Xác định lại Chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của cơ quan quản lý cạnh tranh. .................................................................................................... 45 3.4. Đổi mới nhân sự và cơ chế hoạt động của cơ quan quản lý cạnh tranh.47 PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................ 51 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 52
  6. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hiện nay, Nhà nước đang tạo lập một nền kinh tế thị trường với mong muốn hội nhập với nền kinh tế thế giới, cùng với các chính sách kinh tế Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho mọi thành phần tham gia vào nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là một hiện tượng tất yếu thúc đẩy kinh tế phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, sự cạnh tranh mạnh mẽ của các chủ thể trong nền kinh tếđã làm xuất hiện các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, hành vi cản trở, hạn chế cạnh tranh,... gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Điều đó, đặt ra vấn đề buộc phải có sự can thiệp quản lý và điều chỉnh của Nhà nước. Chính vì vậy, pháp luật cạnh tranh ra đời nhằm điều tiết các hành vi cạnh tranh, duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo cơ hội cạnh tranh cho các doanh nghiệp, sử dụng hiệu quả nguồn lực xã hội và thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Ngày 3/12/2004, Luật Cạnh tranh được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội Việt Nam thông qua và có hiệu lực từ ngày 01/7/2005. Luật Cạnh tranh năm 2004 điều chỉnh các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền, tập trung kinh tế. Để đảm bảo thực thi Luật cạnh tranh, Nhà nước đã xây dựng cơ quan quản lý cạnh tranh gồm: Cục quản lý cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh. Ngày 09/01/2006, Chính phủ ban hành Nghị định số 06/2006/NĐ-CP quy định về chức năng, nhiệm vụ , quyền hạn cơ cấu tổ chức của Cục quản lý cạnh tranh và Nghị định số 05/2006/NĐ-CP quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Hội đồng cạnh tranh. Tuy nhiên, sau 13 năm thực thi Luật Cạnh tranh, cùng với sự phát triển của các hành vi cạnh tranh đã làm cho pháp luật cạnh tranh và mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh đang bộc lộ những khuyết điểm khiến cho các thiết chế 1
  7. của Nhà nước áp dụng với nền kinh tế chưa thực sự hiệu quả. Do đó, hiện nay, Luật Cạnh tranh đang trong quá trình nghiên cứu sửa đổi để phù hợp với yêu cầu của thị trường và xây dựng cơ quan quản lý cạnh tranh thực sự phù hợp và hiệu quả. Trong bối cảnh đó, đề tài “ Cơ quan quản lý cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay – một số vấn đề lý luận và thực tiễn” được nghiên cứu nhằm tìm hiểu về mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh của nước ta hiện nay; chỉ ra những khuyết điểm, thiếu sót nhằm đưa ra giải pháp tạo dựng một cơ quan quản lý cạnh tranh mới thật sự phù hợp và hoạt động có hiệu quả để đưa vào dự thảo Luật Cạnh tranh (sửa đổi) trong thời gian tới. 2. Tình hình nghiên cứu. Pháp luật Cạnh tranh ở nước ta vẫn còn non trẻ và đang trong quá trình hoàn thiện. Trong bối cảnh quan hệ cạnh tranh giữa các chủ thể trong nền kinh tế ngày một phức tạp, để tạo ra khuôn khổ pháp lý điều chính chúng và mô hình cơ quan thực thi phù hợp là một vấn đề phức tạp đặt ra cho lý luận và trong thực tiễn. Ở Việt Nam, pháp luật cạnh tranh nói chung và cơ quan quản lý cạnh tranh nói riêng vẫn còn khá mới mẻ, do đó số lượng đề tài nghiên cứu còn rất hạn chế. Tuy nhiên, hiện nay Luật Cạnh tranh đag trong quá trình sửa đổi, cơ quan thực thi cũng cùng với đó mà được quan tâm nghiên cứu hơn. Một số nhà khoa học pháp lý, các đề tài có liên quan: - Luận án tiến sĩ: Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi Pháp luật Cạnh tranh của Việt Nam, tác giả: Trịnh Anh Tuấn. - Nghiên cứu khoa học: Xây dựng mô hình Cơ quan Quản lý Nhà nước về cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ trong thương mại quốc tế. Kinh nghiệm quốc tế và đề xuất cho Việt Nam, tác giả: TS ĐinhThị Mỹ Loan. - Bài viết: Cơ quan quản lý cạnh tranh ở Việt Nam những bất cập và phương hướng hoàn thiện, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (Văn phòng Quốc hội), số 06/2011. 2
  8. - Bài viết: Mô hình nào cho cơ quan quản lý cạnh tranh ở Việt Nam, Nguyễn Văn Cương. - Bài viết: Mô hình nào cho cơ quan quản lý cạnh tranh?, Báo điện tử Đại biểu Nhân dân, ngày 15/9/2017. Có thể thấy, sách và các đề tài nghiên cứu, bài viết về cơ quan canh tranh ở Việt Nam còn khá khiêm tốn. Song thời gian gần đây số lượng bài viết về vấn đề này đang tăng lên, cho thấy đã có sự quan tâm, tiếp cận nghiên cứu về đề tài này. 3. Mục đích nghiên cứu. Khóa luận nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay. Từ đó, đánh giá quá trình hoạt động, tìm ra những bất cập, hạn chế về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của cơ quan quản lý cạnh tranh tại Việt Nam, tiếp thu kinh nghiệm của một số quốc gia tiêu biểu trên thế giới, đề ra một số kiến nghị hoàn thiện cơ quan cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay. Để đạt được mục tiêu trên, khóa luận sẽ tìm hiểu những nét cơ bản sự hình thành và phát triển của pháp luật cạnh tranh nói chung và cơ quan quản lý cạnh tranh nói riêng, những bất cập hạn chế hiện nay. Đồng thời, phân tích, đánh giá những bất cập cần hoàn thiện về những vấn đề cụ thể như: chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức cơ quan quản lý cạnh tranh. Qua đó, đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ quan quản lý cạnh tranh. 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu Khóa luận nghiên cứu cơ quan quản lý cạnh tranh của Việt Nam hiện nay và mô hình cạnh tranh trên thế giới. Thông qua đó, nêu đánh giá, nhận xét về thực tiễn và bất cập tồn tại của mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh của Việt Nam. Đưa ra một số góp ý nhằm hoàn thiện cơ quan quản lý cạnh tranh ở Việt Nam. Trong phạm vi nhất định, khóa luận tập trung nghiên cứu mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh ở Việt Nam theo quy định của pháp luật hiện hành, bất cập trong quá trình thực thi và hoạt động; đề xuất phương hướng xây dựng 3
  9. cơ quan quản lý cạnh tranh ở Việt Nam phù hợp hơn với bối cảnh kinh tế - xã hội hiện nay. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để việc nghiên cứu logic, rõ ràng, mạch lạc, khóa luận tập trung sử dụng các phương pháp sau: - Phương pháp phân tích và tổng hợp. - Phương pháp luật học so sánh. - Phương pháp lý luận - thực tiễn (khảo sát thực tế). - Phương pháp chuyên gia. 6. Ý nghĩa của khóa luận: Việc nghiên cứu lịch sử hình thành và sự phát triển mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh cũng như nghiên cứu chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của cơ quan quản lý cạnh tranh ở Việt Nam đã góp phần chỉ ra nhưng bất cập và tìm ra phương hướng hoàn thiện cơ quan quản lý cạnh tranh ở nước ta; đóng góp ý kiến về mô hình quản lý cạnh tranh cho việc xây dựng hoàn thiện cơ quan cạnh tranh trong Dự thảo sửa đổi Luật Cạnh tranh giai đoạn này. 7. Bố cục Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận có bố cục 3 chương, cụ thể: - Chương 1: Khái quát chung về mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh. - Chương 2: Thực trạng về tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan quản lý cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay. - Chương 3: Một số kiến nghị nhắm hoàn thiện hệ thống cơ quan quản lý cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay. 4
  10. CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ MÔ HÌNH CƠ QUAN QUẢN LÝ CẠNH TRANH. 1.1. Sự hình thành cơ quan quản lý cạnh tranh và một số mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh điển hình trên thế giới. 1.1.1. Sự hình thành cơ quan cạnh tranh. Khi trong xã hội bắt đầu xuất hiện sự dư thừa của cải, xuất hiện tư hữu và phân biệt giàu nghèo, chính là lúc sự cạnh tranh bắt đầu sơ khai xuất hiện. Lịch sử phát triển của xã hội loài người dần phát triển, đi cùng với nó là sản xuất hàng hóa và nền kinh tế thị trường. Trong xã hội ngày nay, cạnh tranh là hiện tượng tất yếu, là động lực phát triển của thị trường. Trong lịch sử phát triển của thị trường, có thời kỳ, nguyên tắc tự do trong cạnh tranh được tôn trọng tuyệt đối, mọi cá nhân đều có thể cạnh tranh bằng mọi cách trên thị trường mà Nhà nước cho dù là chủ thể của quyền lực xã hội cũng không được quyền can thiệp vào các quan hệ thị trường. Điều này lý giải tại sao cạnh tranh đã có từ lâu nhưng pháp luật về cạnh tranh lại xuất hiện muộn hơn rất nhiều. Tuy nhiên để Nhà nước có thể quản lý được nền kinh tế và quản lý xã hội thì cần sử dụng pháp luật với tư cách là công cụ chủ yếu và hữu hiệu nhất để Nhà nước thực hiện quyền lực của mình. Khi bàn đến sự cần thiết phải có pháp luật cạnh tranh đối với đời sống kinh tế, cũng cần phải làm rõ vai trò kinh tế của Nhà nước, tạo nên những lý do chính yếu về sự xuất hiện cũng như xác định giới hạn điều tiết của Nhà nước và pháp luật trong môi trường cạnh tranh. “Bất kỳ Nhà nước nào trong lịch sử loài người đều có chức năng kinh tế. Bởi lẽ, những biến chuyển cơ bản trong đời sống kinh tế và những thay đổi trong xã hội là nguyên nhân, là môi trường sản sinh ra Nhà nước. Chính vì thế, Nhà nước là một bộ máy đặc biệt để bảo đảm sự thống trị về kinh tế, để thực hiện quyền lực về chính trị và thực hiện sự tác động về tư tưởng đối với quần chúng”. [8,46] Chức năng quản lý kinh tế (việc thực hiện quyền thống trị 5
  11. kinh tế) thể hiện ở việc bảo đảm quyền lực kinh tế của giai cấp thống trị và duy trì trật tự kinh tế của xã hội. Tùy vào mô hình Nhà nước và tùy vào từng thời kỳ, vai trò kinh tế của Nhà nước có nội dung và được thực hiện khác nhau. Trong thời kỳ kinh tế thị trường sơ khai cổ điển của giai cấp tư bản, Nhà nước ban đầu chỉ có chức năng bảo vệ an ninh, xây dựng luật pháp để đảm bảo công bằng trong đời sống xã hội và xét xử tranh chấp; pháp luật chỉ giới hạn ở việc quản lý chung đời sống dân sự và trật tự xã hội. Chức năng đó đủ để pháp luật và Nhà nước tạo lập một môi trường cho cạnh tranh và quan hệ thị trường vận động linh hoạt, năng động; tuy nhiên xã hội ngày càng nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp làm cho mọi khuyết tật của thị trường được bộc lộ một cách mạnh mẽ mà pháp luật của Nhà nước không còn đủ để điều chỉnh. Chính vì vậy mà sự thất bại của mô hình kinh tế chỉ huy ở các nước xã hội chủ nghĩa và những cuộc khủng hoảng kéo dài trên thị trường tự do của Nhà nước tư sản là những nguyên nhân, là động lực để thiết lập mô hình kinh tế thị trường hiện đại. Trong mô hình này, ở tầm vĩ mô về cơ bản do bàn tay vô hình của thị trường điều tiết. Vai trò kinh tế của Nhà nước là vừa hạn chế những khuyết tật của thị trường, vừa tạo môi trường cho ưu thế của thị trường tự do phát huy tác dụng tích cực lên nền kinh tế. Với vai trò đó, Nhà nước không còn là người tạo ra và quản lý nền kinh tế đơn thuần nữa mà còn có chức năng định hướng thị trường, thiết lập trật tự, khuôn khổ điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong nền kinh tế. Để có thể quản lý được nền kinh tế thị trường tự do, các mối quan hệ cạnh tranh phức tạp giữa các chủ thể trong nền kinh tế, Nhà nước bằng công cụ pháp luật cạnh tranh phải can thiệp để duy trì một trật tự chung đảm bảo sự lành mạnh và phát triển của thị trường. Do vậy, pháp luật cạnh tranh ra đời cùng với sự thừa nhận và đảm bảo quyền tự do kinh doanh nhưng trong khuôn khổ pháp lý nhất định. “Theo nghĩa kinh điển, pháp luật cạnh tranh chỉ bao hàm các quy định ngăn cấm những hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo cách hiểu của ngày 6
  12. nay. Sở dĩ như vậy là vì, trong lịch sử đã có lúc người ta chưa biết đến hiện tượng độc quyền và sự tác hại của nó. Đó là thời kỳ của chủ nghĩa tư bản tự do”. [15] Trong Bộ luật Dân sự của Pháp (Code civil – 1804), Điều 1382 và 1383 quy định về trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng.[3] Từ đó, những trách nhiệm phát sinh cho các thương nhân trong cạnh tranh được án lệ của nước Pháp coi là một loại hình mới của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong dân sự. Trên cơ sở đó, những hành vi cạnh tranh mà ở đó người thực hiện chúng phải chịu trách nhiệm về hậu quả gây ra cho người khác được gọi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Khái niệm đầu tiên về cạnh tranh không lành mạnh được gọi là concurrence déloyale (cạnh tranh không công bằng). Hiện nay, những quy định mang tính nguyên tắc của Bộ luật Dân sự Pháp - 1804 cùng với một số văn bản pháp luật đơn hành tạo thành một chế định pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh của Cộng hoà Pháp. Ở Italia cũng tương tự, các Điều 1151 và Điều 1152 của Bộ Luật Dân sự năm 1865 quy định các nguyên tắc cơ bản liên quan đến trách nhiệm của người thực hiện hành vi không lành mạnh. Tuy nhiên, cho đến năm 1872 với sự ra đời của Bộ luật Dân sự mới thì những quy định về cạnh tranh không lành mạnh mới được quy định cụ thể, chi tiết và rõ ràng. Như vậy, nhìn về lịch sử, lúc sơ khai pháp luật cạnh tranh được xây dựng trên cơ sở của các nguyên tắc trong dân luật và được đảm bảo thực hiện bằng trách nhiệm dân sự. Đồng thời, do sự nhận thức chưa đầy đủ và sự hạn chế trong khả năng dự liệu của luật pháp đối với hành vi cạnh tranh đang phát triển trên thị trường mà pháp luật về cạnh tranh trong thời kỳ đó chủ yếu tồn tại dưới dạng các án lệ của toà án. Những nguyên tắc của dân luật là nền tảng cơ sở của các án lệ và là cơ sở pháp luật quan trọng để duy trì trật tự cạnh tranh, vào thời điểm đó cơ quan thực thi pháp luật dân sự cũng là cơ quan đảm bảo về cạnh tranh. Cùng với sự phát triển của thị trường, sự biến đổi đa dạng và phức tạp trong các biểu hiện của cạnh tranh đã giảm thiểu tính hiệu quả của các nguyên 7
  13. tắc trên. Các Nhà nước ngày càng tích cực nhận dạng và ngăn cấm những biểu hiện không lành mạnh bằng các quy định trong các văn bản pháp luật riêng biệt về cạnh tranh. Hầu hết các nước có nền kinh tế thị trường đều đã ban hành văn bản pháp luật cạnh tranh. Cùng với đó là cơ quan đảm bảo tính thực thi thực tếcủa pháp luật cạnh tranh ra đời. Đến cuối thế kỷ XIX, pháp luật cạnh tranh đã được mở rộng và có những thay đổi rất cơ bản về nội dung cũng như phương pháp điều chỉnh. Cho đến nay, ngoài các quy định về cạnh tranh không lành mạnh trong pháp luật cạnh tranh của các nước, chế định về chống hạn chế cạnh tranh và kiểm soát độc quyền luôn là nội dung quan trọng không thể thiếu để Nhà nước bảo vệ và điều tiết cạnh tranh. Theo đó, pháp luật được mở rộng cho thấy Nhà nước đã thực sự nhận thức và giành quyền quản lý thị trường, điều tiết cạnh tranh không chỉ bằng cách loại bỏ các biểu hiện tranh đua không lành mạnh, mà còn tạo ra các thiết chế pháp lý ngăn chặn và loại bỏ các rào cản nhân tạo cũng như tự nhiên để bảo vệ cho thị trường cạnh tranh. Từ đó cơ quan quản lý cạnh tranh cũng được lập ra với chức năng, nhiệm vụ chuyên biệt và độc lập nhằm bảo đảm thực thi pháp luật cạnh tranh. Mặt khác, từ tư duy Luật Cạnh tranh là lĩnh vực pháp luật dân sự mà ở đó chỉ khi có yêu cầu thì Nhà nước mới giải quyết, tuy nhiên sau này là pháp luật về kiểm soát độc quyền các nước trên thế giới càng phát triển đã cho phép Nhà nước chủ động ngăn chặn và kiểm soát mọi nguy cơ có thể làm hạn chế cạnh tranh bằng các thiết chế quyền lực của mình, kể cả bằng các biện pháp trừng phạt nặng như chế tài hình sự cho các hành vi vi phạm.Cũng nhờ đó sự độc lập và tính cưỡng chế của cơ quan quản lý cạnh tranh ngày càng được củng cố. Luật Cạnh tranh được đưa ra như một công cụ hữu hiệu để quản lý thị trường và xã hội. Tuy nhiên để đảm bảo thực thi Luật Cạnh tranh thì cơ quan quản lý cạnh tranh chính là cơ quan nhân danh Nhà nước đảm bảo tính thực thi thực tế của Luật Cạnh tranh. Vì vậy mà sự hình thành và phát triển của 8
  14. luật cạnh tranh gắn liền với sự hình thành và phát triển của cơ quan quản lý cạnh tranh (cơ quan đảm bảo thực thi Luật Cạnh tranh) với chức nâng đảm bảo sự cạnh tranh công bằng, minh bạch trên thị trường, đảm bảo quyền lợi của các chủ thể tham gia thị trường. Theo thống kê của Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển , trên thế giới (UNCTAD) tính tới năm 2007, đã có tới 113 nước và vùng lãnh thổ có luật điều tiết hoạt động cạnh tranh và kiểm soát độc quyền.Đi cùng với đó là cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh. Tuỳ theo điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể, mỗi quốc gia sẽ xây dựng mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh khác nhau, song đều có chung mục đích là góp phần thực thi Luật Cạnh tranh một cách có hiệu quả nhất. 1.1.2. Một số mô hình cơ quan cạnh tranh trên thế giới Việc cơ quan quản lý cạnh tranh được tổ chức và hoạt động như thế nào là một vấn đề quan trọng góp phần làm cho Luật Cạnh tranh được thi hành một cách hiệu quả. Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế – xã hội, chính trị của mình, mỗi quốc gia sẽ xây dựng mô hình cơ quan cạnh tranh với những nguyên tắc về tổ chức, hoạt động, chức năng, nhiệm vụ phù hợp. Một số quốc gia thiết lập vị trí cơ quan quản lý cạnh tranh thuộc Quốc hội, có những quốc gia lại xác định cơ quan quản lý cạnh tranh là một cơ quan ngang Bộ hoặc trực thuộc Chính phủ hay thuộc Tổng thống, một số quốc gia khác lại xác định cơ quan quản lý cạnh tranh là một đơn vị thuộc Bộ. Theo thống kê của Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD) tính đến năm 2008, đã có tới hơn 100 nước và vùng lãnh thổ có luật điều tiết hoạt động cạnh tranh và kiểm soát độc quyền và cơ quan quản lý cạnh tranh với bốn mô hình khác nhau. Thống kê số liệu và thông tin của 150 cơ quan quản lý cạnh tranh trên toàn thế giới đến tháng 04/2017 cho thấy có 07 cơ quan quản lý cạnh tranh thuộc Quốc hội (5%), 47 cơ quan quản lý cạnh tranh thuộc Chính phủ, cơ quan quản lý cạnh tranh thuộc Bộ/ngành (42%) và 33 cơ quan cạnh tranh thuộc các thiết chế khác như Tòa án... (22%). Mô hình thứ nhất, cơ quan quản lý cạnh tranh là cơ quan thuộc Quốc 9
  15. hội, điển hình như cơ quan cạnh tranh Italia. [20] Cơ quan quản lý cạnh tranh Italia là Cơ quan chống độc quyền Italia được thành lập độc lập bởi Luật số 287 Luật Cạnh tranh và Thương mại công bằng ngày 10/10/1990. Chủ tịch và các thành viên của cơ quan này được bổ nhiệm bằng các thủ tục và những tiêu chí lựa chọn chặt chẽ: họ được bổ nhiệm bởi người đứng đầu Hạ viện và Thượng viện và không được tái bổ nhiệm nhiệm kỳ thứ hai. Cơ cấu của cơ quan chống độc quyền Italia gồm: một chủ tịch và 4 thành viên được bổ nhiệm bởi Chủ tịch Hạ viện và Chủ tịch Thượng viện. Chủ tịch được chọn là người giữ vị trí cao trong bộ máy chính quyền và có tính độc lập, bốn thành viên là những người ở vị trí độc lập cao như thẩm phán của Tòa hành chính tối cao, Tòa kiểm toán, Tòa phúc thẩm tối cao, Giáo sư đại học hay Đại diện cộng đồng doanh nghiệp, những người đó phải được công nhận về tiêu chuẩn nghiệp vụ. Mỗi thành viên được bổ nhiệm sẽ đảm nhiệm chức vụ trong 7 năm và không được tái bổ nhiệm. Cơ quan này thực hiện các hoạt động và ra quyết định độc lập với Chính phủ, có nhiệm vụ thực thi Luật Cạnh tranh và Luật Thương mại công bằng số 287 năm 1990. Cơ quan chống độc quyền Italia có nhiệm vụ: kiểm soát các thỏa thuận ngăn cản cạnh tranh; các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh; mua lại hoặc sáp nhập nhằm tăng cường vị trí thống lĩnh nhằm loại bỏ hoặc hạn chế cạnh tranh trên thị trường. Cơ quan này có nhiệm vụ báo cáo trực tiếp lên Chính phủ và Quốc hội đồng thời có nhiệm vụ tư vấn cho hai cơ quan này. Cơ quan này còn được trao quyền yêu cầu Chính phủ và Quốc hội cân nhắc đầy đủ tới yêu cầu của thị trường và người tiêu dùng khi ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Hoa Kỳ cũng là một trong những quốc gia tổ chức cơ quan cạnh tranh theo mô hình cơ quan thuộc Quốc hội. Các cơ quan tham gia xử lý vụ việc cạnh tranh ở Hoa Kỳ bao gồm Uỷ ban Thương mại Liên bang Hoa Kỳ (viết tắt là US-FTC) và Vụ Chống độc quyền thuộc Bộ Tư pháp Hoa Kỳ (viết tắt là US-DOJ). 10
  16. US-FTC được thành lập vào năm 1914, nhiệm vụ của cơ quan này là ngăn chặn các biện pháp cạnh tranh không lành mạnh trong thương mại như một phần của cuộc chiến nhằm “thúc đẩy lòng tin”. Trong nhiều năm, Quốc hội đã thông qua các bộ luật bổ sung trao quyền lớn hơn cho Uỷ ban nhằm kiểm soát các hoạt động cạnh tranh không lành mạnh.Do sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế và các doanh nghiệp, đòi hỏi Bộ Tư pháp phải có một lực lượng chuyên biệt trong lĩnh vực Luật Chống độc quyền nhằm đối phó với tình hình ngày càng phức tạp của thị trường. Do vậy, năm 1933, Vụ Chống độc quyền thuộc Bộ Tư pháp (DOJ) đã được thành lập. US-FTC là một cơ quan độc lập báo cáo trực tiếp cho Quốc hội. Ủy ban hoạt động dưới sự chỉ đạo của năm ủy viên có nhiệm kỳ 7 năm, được bổ nhiệm bởi Tổng thống và được phê chuẩn bởi Thượng nghị viện. Tổng thống chỉ định một ủy viên đảm trách Chủ tọa, không quá ba ủy viên là thành viên của một Đảng. Hoạt động của US-FTC được thực hiện bởi các Cục gồm: Cục Bảo vệ người tiêu dùng, Cục Cạnh tranh, Cục Kinh tế và các Văn phòng: Văn phòng các vấn đề cộng đồng, Văn phòng quan hệ Quốc hội, Văn phòng Giám đốc điều hành, Văn phòng Tổng thanh tra, Văn phòng Tổng tham vấn thực hiện các hoạt động này, cụ thể như sau: [16] “ - Cục Bảo vệ người tiêu dùng có nhiệm vụ là bảo vệ người tiêu dùng trước các hành vi không công bằng, hành vi gian lận hoặc dối trá. Cục Bảo vệ Người tiêu dùng thực thi các văn bản pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng do Quốc hội ban hành cũng như các quy định về thương mại do Uỷ ban ban hành. Hoạt động chính của Cục bao gồm tiến hành các cuộc điều tra đối với các công ty tư nhân và các ngành công nghiệp lớn, giải quyết các tranh chấp của toà hành chính và toà án liên bang, nâng cao nhận thức cho doanh nghiệp và người tiêu dùng. Thêm vào đó, Cục Bảo vệ Người tiêu dùng còn hỗ trợ Uỷ ban báo cáo Quốc hội và các cơ quan Chính phủ về các hoạt động có nguy cơ ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng. - Cục Cạnh tranh có nhiệm vụ phát hiện các hoạt động kinh doanh gây 11
  17. hạn chế cạnh tranh, từ đó góp phần đảm bảo lợi ích cho người tiêu dùng thể hiện ở mức giá thấp và tính sẵn có của các sản phẩm và dịch vụ. Cục sẽ tiến hành các cuộc điều tra để phát hiện hành vi vi phạm, trình Uỷ ban xem xét xử lý. Khi Uỷ ban có quyết định xử lý, Cục sẽ thực thi các quyết định này thông qua cơ chế giải quyết tranh chấp của toà án liên bang hoặc theo các quy định hành chính.Cục cũng có nhiệm vụ như một bộ phận nghiên cứu, hoạch định chính sách về các vấn đề liên quan đến cạnh tranh.Cục chuẩn bị các báo cáo và chứng cớ trước Quốc hội, hoặc có thể đưa ra những bình luận về các vấn đề liên quan đến cạnh tranh trước khi có quyết định từ những cơ quan quản lý khác. Cục Cạnh tranh cũng phát triển những kiến thức chuyên sâu về một số ngành công nghiệp quan trọng đối với người tiêu dùng như: chăm sóc sức khoẻ, lương thực, năng lượng và các dịch vụ chuyên môn khác. Luật Chống độc quyền do cả Cục Cạnh tranh của Uỷ ban và Vụ Chống độc quyền thuộc Bộ Tư pháp thi hành. Do đó, để tránh chồng chéo, hai cơ quan này sẽ tham khảo ý kiến của nhau trước khi tiến hành xử lý bất kỳ trường hợp nào. - Cục Kinh tế giúp US – FTC đánh giá ảnh hưởng kinh tế của các hoạt động của US – FTC.Để thực hiện điều này, Cục tiến hành các phân tích kinh tế và hỗ trợ các cuộc điều tra về chống độc quyền và bảo vệ người tiêu dùng. Cục cũng phân tích những ảnh hưởng từ các quy định do Chính phủ ban hành về cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng và cung cấp cho Quốc hội cũng như cho công chúng các phân tích kinh tế về các quy trình thị trường liên quan đến chống độc quyền, bảo vệ người tiêu dùng và các quy định khác. - Văn phòng các vấn đề cộng đồng: cung cấp các thông tin liên quan đến hoạt động của US – FTC, các tin tức, vụ việc… cho công chúng. - Văn phòng quan hệ Quốc hội hỗ trợ các thành viên Quốc hội và các nhân viên riêng và nhân viên ủy ban của họ.Nhiệm vụ của văn phòng là cung cấp các thông tin liên quan đến các vấn đề chống độc quyền và bảo vệ người tiêu dùng một cách chính xác, kịp thời và toàn diện cho Quốc hội. - Văn phòng Giám đốc điều hành phục vụ mục tiêu quản lý và thực thi 12
  18. của FTC chịu trách nhiệm toàn bộ hoạt động của cơ quan. Văn phòng có 4 tiểu ban chức năng gồm: Ban Dịch vụ Hành chính, Ban Quản trị Tài chính, Ban Quản trị Nhân lực, Ban Quản trị Công nghệ và Thông tin. - Văn phòng Tổng tham vấn có nhiệm vụ là đại diện cho Ủy ban trước tòa và tham vấn luật cho Ủy ban. - Văn phòng Thư ký có nhiệm vụ giám sát, xử lý nhanh chóng và kịp thời tất cả các vấn đề trình lên Ủy ban và hỗ trợ Ủy ban trong quá trình ra quyết định, đảm bảo Ủy ban hoạt động hiệu quả. - Văn phòng Tổng thanh tra (OIG) là cơ quan trực thuộc US – FTC được thành lập năm 1989 theo Đạo luật Tổng thanh tra sửa đổi năm 1988. OIG có nhiệm vụ thực hiện và giám sát việc kiểm toán và điều tra độc lập, khách quan liên quan đến các chương trình và hoạt động của cơ quan; ngăn chặn và phát hiện các hành vi gian lận, lãng phí và lạm dụng trong các chương trình và hoạt động của cơ quan; rà soát và khuyến nghị về hệ thống những quy định pháp luật liên quan tới các chương trình và hoạt động của cơ quan hiện hành hoặc được đưa ra; và báo cáo cập nhật chi tiết các thông tin về các vấn đề trong các chương trình và hoạt động của cơ quan cho thủ trưởng cơ quan và cho Quốc hội. - Các Văn phòng khu vực bao gồm bảy khu vực địa lý. Các văn phòng khu vực làm việc với Cục Cạnh tranh và Cục Bảo vệ người tiêu dùng để tiến hành hoạt động điều tra và khởi kiện; cung cấp các ý kiến tư vấn cho các quan chức cấp bang và địa phương về những tác động cạnh tranh của các hoạt động được đề xuất, các trường hợp khuyến nghị; cung cấp các dịch vụ tiếp cận địa phương cho người tiêu dùng và các doanh nhân, và phối hợp hoạt động với các cơ quan địa phương, bang và khu vực”.[16] Mô hình thứ hai, cơ quan quản lý cạnh tranh là cơ quan thuộc Chính phủ như cơ quan quản lý cạnh tranh Hà Lan. Cơ quan quản lý Cạnh tranh Hà Lan ( viết tắt là NMA) được thành lập năm 1998 và là một cơ quan trực thuộc Bộ Kinh Tế Hà Lan. Tuy nhiên, ngày 7/12/2004, Quốc Hội Hà Lan đã thông qua đạo luật cho phép NMA chuyển đổi thành cơ qua Hành chính độc lập. 13
  19. Ngày 1/7/2005, NMA hoàn toàn tách khỏi Bộ Kinh Tế và chính thức trở thành Ủy ban với tư cách là một cơ quan Hành chính độc lập. Sau sự thay đổi này, Bộ trưởng Bộ Kinh Tế không còn tham gia ban hành chỉ thị trong những vụ việc riêng lẻ do NMA giải quyết. Tuy nhiên, Bộ trưởng Bộ Kinh Tế sẽ vẫn chịu trách nhiệm về mặt chính trị, chính sách và pháp chế trong quan hệ với lĩnh vực năng lượng và việc thi hành cạnh tranh, có quyền cùng ban hành chỉ thị với NMa. Sau khi tách ra đứng độc lập, nhằm tăng cường tính hiệu quả, tính quyết đoán và tính có căn cứ vốn được coi là những giá trị cốt lõi của NMA. Ủy ban đã ngay lập tức thực thi, ban hành các biện pháp và những hướng dẫn về cạnh tranh. Việc đưa ra những thay đổi mới trong thực thi Luật Cạnh tranh đã giúp cho Ủy ban dễ dàng hơn trong việc tiếp cận thông tin các vụ việc. Đồng thời mở ra được lộ trình cụ thể trong tiến hành tố tụng cũng như xử phạt. Điều dễ nhận thấy ở những thay đổi này là Ủy ban đã tập chung nhiều hơn vào việc xây dựng ý thức tự giác cho các doanh nghiệp, tổ chức và người tiêu dùng. Kết quả cho thấy có những thành công rõ rệt. Cùng thời điểm đó, chính phủ Hà Lan cũng phê duyệt một đạo luật mới về Cạnh tranh. Theo đó, Luật Cạnh tranh đã được điều chỉnh và có hiệu lực kể từ ngày 1/9/2007 với mục tiêu Trao nhiều quyền lực hơn cho NMA nhằm chú trọng tăng cường thực thi Luật Cartel. Mặc dù là một cơ quan mới được thành lập, nhưng NMA đã thực sự là một cơ quan có tầm quan trọng trong việc phát triển kinh tế của Hà Lan. [10] Mô hình thứ ba, “cơ quan quản lý cạnh tranh là cơ quan ngang Bộ như: Pháp, Đức, Đan Mạch, Nhật Bản... Tuy nhiên việc phân chia cũng chỉ mang tính chất tương đối.Tại Nhật Bản, cơ quan thực thi là Ủy ban thương mại lành mạnh Nhật Bản (JFTC). Theo quan điểm của nhà nước Nhật Bản, Luật cạnh tranh là nền tảng cơ bản cho các hoạt động kinh tế nên cần được thực thi với tính liên tục và nhất quán bởi một cơ quan trung lập và công bằng, không chịu ảnh hưởng hay tác động của bất kỳ một đảng phái chính trị nào. Vì vậy, JFTC 14
  20. hoạt động một cách hoàn toàn chủ động và độc lập, không chịu sự quản lý hoặc chỉ đạo của bất kỳ một cơ quan nào như các cơ quan hành chính thông thường khác. [13] Ủy ban được thành lập như là một cơ quan quản lý của Chính phủ để đạt được mục tiêu của Luật Chống độc quyền. Bên cạnh Luật Chống độc quyền, Uỷ ban còn thi hành Luật Chống tặng phẩm phi lý và trưng bày gây nhầm lẫn, Luật Chống thanh toán chậm trong hợp đồng gia công phụ đối với người sản xuất phụ, đây là những luật đặc biệt bổ sung cho Luật Chống độc quyền. Một mặt, Uỷ ban có vị trí như là một cơ quan cấp Bộ thuộc sự chỉ đạo của Bộ trưởng các bộ: Bộ Quản lý công cộng, Bộ Nội vụ, Bộ Bưu chính viễn thông. Tuy nhiên, Uỷ ban có đặc điểm của một tổ chức quản lý theo hệ thống hội đồng, bao gồm một chủ tịch và bốn uỷ viên. Trong việc thực thi Luật Chống độc quyền, Uỷ ban thực hiện nhiệm vụ của nó một cách độc lập, không chịu sự chỉ đạo hay giám sát của bất cứ một ai. Uỷ ban được trao quyền để thực thi Luật Chống độc quyền và các luật hỗ trợ với quyết tâm loại bỏ những trở ngại về mặt chính trị liên quan tới việc thực thi những luật nói trên. Những trở ngại về mặt chính trị phát sinh vì Luật Chống độc quyền và các luật hỗ trợ, quy định những luật lệ cơ bản của hoạt động kinh doanh trong một hệ thống tự do và do đó tạo ra nền tảng của hệ thống kinh tế Nhật Bản, giải quyết rất nhiều vấn đề bao gồm những xung đột về lợi ích. Mặt khác, Uỷ ban giống như toà án, việc giải quyết các vi phạm Luật Chống độc quyền yêu cầu sự trung lập và công bằng. Hơn nữa, kể từ khi các luật trên được áp dụng với những tình huống liên tục thay đổi, việc thi hành chúng yêu cầu những chuyên gia có kinh nghiệm, những người giàu kiến thức về luật và kinh tế. JFTC gồm có Chủ tịch và 4 Ủy viên hội đồng cạnh tranh. Chủ tịch và các Ủy viên hội đồng được Thủ tướng bổ nhiệm từ những người trên 35 tuổi có kinh nghiệm, kiến thức về luật pháp hoặc kinh tế, sau khi được Hạ viện và 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2