intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh doanh: Doanh nghiệp xã hội theo pháp luật Việt Nam: Trường hợp của Doanh nghiệp xã hội KOTO

Chia sẻ: Caphesuadathemhanh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:86

37
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài có mục đích nghiên cứu các vấn đề lý luận, thực tiễn của pháp luật về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay cùng với việc phân tích trường hợp của DNXH KOTO. Từ đó đề xuất các kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động của mô hình doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh doanh: Doanh nghiệp xã hội theo pháp luật Việt Nam: Trường hợp của Doanh nghiệp xã hội KOTO

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT --------- NGUYỄN ANH THƯ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM: TRƯỜNG HỢP CỦA DOANH NGHIỆP XÃ HỘI KOTO KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH: LUẬT KINH DOANH Hệ đào tạo: Chính quy Khoá học: QH-2013-L HÀ NỘI, 2017 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT --------- NGUYỄN ANH THƯ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM: TRƯỜNG HỢP CỦA DOANH NGHIỆP XÃ HỘI KOTO KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH: LUẬT KINH DOANH Hệ đào tạo: Chính quy Khoá học: QH-2013-L NGƯỜI HƯỚNG DẪN TS. Phan Thị Thanh Thủy HÀ NỘI, 2017 2
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Khóa luận là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Khóa luận chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Khóa luận đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Nếu không đúng như trên, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về Khóa luận của mình. Người cam đoan Nguyễn Anh Thư 3
  4. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT CSIP Trung tâm Hỗ trợ Sáng kiến Phục vụ Cộng đồng CSR Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp DNXH Doanh nghiệp xã hội DNhXH Doanh nhân xã hội NGO Tổ chức phi chính phủ OECD Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế QLNN Quản lý Nhà nước 4
  5. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Danh mục các từ viết tắt Mục lục MỞ ĐẦU............................................................................................................................ 3 1. Tính cấp thiết của đề tài .............................................................................................. 3 2. Tình hình nghiên cứu .................................................................................................. 5 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................. 6 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu................................................................................... 7 5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................. 7 6. Tính mới và những đóng góp của Khóa luận .............................................................. 8 7. Kết cấu của đề tài ........................................................................................................ 8 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI ..................................... 9 1.1. Vài nét về lịch sử ra đời và phát triển của DNXH trên thế giới .............................. 9 1.2. Khái niệm và đặc điểm của DNXH ....................................................................... 11 1.3. DNXH trong mối tương quan với các tổ chức và phong trào xã hội khác ............ 19 1.3.1. DNXH trong mối tương quan với Doanh nghiệp truyền thống và NGO ........ 19 1.3.2. DNXH và Trách nhiệm xã hội của Doanh nghiệp ........................................... 24 TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ................................................................................................ 26 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI VÀ TRƯỜNG HỢP CỦA DOANH NGHIỆP XÃ HỘI KOTO ....................................... 27 2.1. Vài nét về quá trình phát triển của DNXH ở Việt Nam ........................................ 27 2.1.1. Trước Đổi mới (1986) ...................................................................................... 27 2.1.2. Giai đoạn từ 1986 – 2010............................................................................ ….28 2.1.3. Từ 2010 – nay .................................................................................................. 31 5
  6. 2.2. Pháp luật Việt Nam về DNXH ............................................................................... 32 2.2.1. Định nghĩa DNXH theo Luật Doanh nghiệp năm 2014 .................................. 32 2.2.2. Quyền và nghĩa vụ của DNXH ................................................................... ….36 2.2.3. Chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với DNXH ............................................ 39 2.3. Trường hợp của DNXH KOTO ............................................................................. 44 2.3.1. Vài nét về DNXH KOTO ................................................................................ 44 2.3.2. Phân tích trường hợp của DNXH KOTO ................................................... ….46 TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ................................................................................................ 53 CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA DNXH TẠI VIỆT NAM ............................................................. 54 3.1. Thực trạng DNXH tại Việt Nam hiện nay ............................................................. 54 3.1.1. Nhận thức của xã hội về hoạt động và vai trò của DNXH còn hạn chế .......... 55 3.1.2. Chưa có khung pháp lý đầy đủ cho DNXH hoạt động ................................ …56 3.1.3. Thiếu vốn và khả năng tiếp cận các nguồn tài chính còn hạn chế ................... 58 3.1.4. Hạn chế trong năng lực quản lý điều hành doanh nghiệp ........................... ….61 3.1.5. Những khó khăn liên quan tới nguồn nhân lực................................................ 63 3.2. Phương hướng và động lực phát triển của DNXH tại Việt Nam ........................... 65 3.3. Một số đề xuất, kiến nghị về cơ chế, chính sách nhằm phát triển DNXH tại Việt Nam ............................................................................................................................... 66 TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ................................................................................................ 71 KẾT LUẬN ..................................................................................................................... 72 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 74 6
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cùng với những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới kinh tế ở nước ta trong 30 năm qua, nhiều vấn đề xã hội và môi trường mới nổi lên cả về số lượng và quy mô, trở thành một mối lo ngại lớn với toàn Đảng và xã hội. Có thể kể đến các vấn đề nổi cộm như: tình trạng thất nghiệp; tội phạm thanh, thiếu niên; bất bình đẳng giới; HIV/AIDS; người cao tuổi; trẻ em đường phố; người khuyết tật; nạn buôn người... Cơ hội tiếp cận với các dịch vụ xã hội của những người có hoàn cảnh khó khăn vẫn còn thấp do đại đa số các doanh nghiệp nhà nước hoạt động chưa đủ để đáp ứng, mang lại ích lợi cho tất cả những người khó khăn và yếu thế trong xã hội. Đặc biệt, do sự hạn chế về nguồn lực, Nhà nước cũng không thể tự giải quyết tất cả những vấn đề này. Trong bối cảnh ấy, Doanh nghiệp xã hội (DNXH) xuất hiện như một giải pháp bổ sung và ngày càng hiệu quả cho Nhà nước trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường một cách hiệu quả và bền vững. Có thể nói mô hình DNXH chứa đựng sự linh hoạt, sáng tạo và phù hợp với cộng đồng; góp phần chia sẻ trách nhiệm và gánh nặng xã hội với Nhà nước bằng các con đường riêng đầy sáng tạo, tiết kiệm, thiết thực và hiệu quả, đồng thời giúp bù đắp được một khiếm khuyết khó khắc phục của cơ chế thị trường là vận hành bởi động cơ lợi nhuận. Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về việc tiếp tục cải thiện môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh để nâng cao hiệu quả hoạt động của nền kinh tế, Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 được Quốc Hội thông qua ngày 26/11/2014 và có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2015. Đây là đạo luật có nhiều quy định mới mang tính đột phá, khuyến khích doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế phát huy tính sáng tạo, bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh, và phát triển bền vững. Một trong những điểm mới nổi bật của Luật Doanh nghiệp năm 2014 là lần đầu tiên ghi nhận khái niệm DNXH trong hệ thống pháp lý. Theo đó, DNXH được định nghĩa là doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế 7
  8. thị trường với triết lý kinh doanh gắn liền với xây dựng cuộc sống bền vững, giải quyết các vấn đề xã hội thay vì lợi nhuận thuần túy. Việc luật hóa DNXH trong Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã tạo tiền đề quan trọng cho việc hình thành môi trường pháp lý và những chính sách phù hợp khuyến khích cho sự phát triển của DNXH. Ở Việt Nam, mặc dù chưa bao giờ được công nhận chính thức, nhưng các hoạt động sử dụng kinh doanh như một công cụ để phục vụ cho lợi ích cộng đồng, đặc biệt là các cộng đồng yếu thế đã xuất hiện từ khá lâu. Hiện nay, DNXH ở nước ta đang trong giai đoạn phát triển sơ khai với các cơ sở pháp lý ban đầu đã có và đang tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện. Đặc biệt, có một số DNXH đã tạo dựng được thương hiệu, điển hình như: Trường đào tạo nghề nhân đạo Koto với chuỗi nhà hàng ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Trong hơn một thập kỷ phát triển, Koto đã nhận đào tạo nghề nấu ăn, dịch vụ khách sạn, nhà hàng cho rất nhiều trẻ em lang thang, có hoàn cảnh khó khăn. Năm 2016, KOTO trở thành DNXH được công nhận đầu tiên tại Việt Nam, theo tinh thần của Điều 10 Luật Doanh nghiệp và Nghị định 96 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Sự kiện KOTO chính thức được cấp giấy phép công nhận là DNXH đầu tiên theo Luật Doanh nghiệp 2014 không chỉ đối với KOTO mà còn đánh dấu một chặng đường mới trong lịch sử phát triển của phong trào DNXH tại Việt Nam. Sự phát triển của những DNXH như KOTO sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội theo hướng văn minh, tiến bộ, phù hợp với định hướng XHCN ở nước ta, vì vậy đây không chỉ là xu thế chung của thế giới mà còn rất cần thiết ở Việt Nam. Mặc dù có những điều kiện thuận lợi nhất định, nhưng vẫn còn không ít khó khăn, rào cản cho sự phát triển DNXH ở Việt Nam như: thiếu một khung khổ pháp lý thống nhất cho DNXH, các chính sách về hỗ trợ, ưu đãi của Nhà nước còn hạn chế, các vấn đề về nguồn nhân lực, sức ép từ cạnh tranh thị trường với các doanh nghiệp truyền thống,... Trước tình hình đó, việc tìm kiếm những giải pháp để hỗ trợ DNXH phát triển là một việc làm cần thiết. Kinh nghiệm thế giới chỉ ra rằng vai trò của Nhà nước với hệ thống pháp luật và chính sách là những điều kiện thiết yếu để các DNXH phát triển. Vì vậy, yêu cầu 8
  9. đặt ra là cần sớm hoàn thiện pháp luật và chính sách để gia tăng tác động xã hội của các DNXH ở Việt Nam. Với những lý do trên, sinh viên quyết định lựa chọn đề tài “Doanh nghiệp xã hội theo pháp luật Việt Nam: Trường hợp của Doanh nghiệp xã hội KOTO” làm đề tài khóa luận cử nhân Luật kinh doanh. 2. Tình hình nghiên cứu DNXH là mô hình doanh nghiệp đã được hình thành từ lâu, và cũng đã phát triển ở Việt Nam trong một thời gian nhất định. Những đóng góp cho xã hội của DNXH là không thể phủ nhận, chính vì vậy nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của DNXH đã được rất nhiều người đề cập đến. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu sau:  Trung tâm hỗ trợ sáng kiến cộng đồng (CSIP) với nghiên cứu về “Khái niệm Doanh nghiệp xã hội”;  Khảo sát về DNXH đăng trong “Báo cáo kết quả khảo sát doanh nghiệp xã hội Việt Nam” năm 2011 của Trung tâm hỗ trợ sáng kiến cộng đồng (CSIP) và Hội đồng Anh Việt Nam;  Công trình “Doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam: Khái niệm, Bối cảnh và Chính sách” năm 2012 của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Hội đồng Anh tại Việt Nam và Trung tâm hỗ trợ sáng kiến cộng đồng (CSIP);  Công trình “Điển hình Doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam” năm 2016 của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Hội đồng Anh tại Việt Nam và Trung tâm hỗ trợ sáng kiến cộng đồng (CSIP). Nghiên cứu về khía cạnh pháp lý của DNXH, đặc biệt là pháp luật về tổ chức, hoạt động của DNXH ở Việt Nam hiện nay còn rất hạn chế, mới chỉ có một số ít công trình nghiên cứu các vấn đề pháp lý về DNXH. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu đầu tiên như: 9
  10.  TS. Phan Thị Thanh Thủy với bài viết “Những vấn đề pháp lý về Doanh nghiệp xã hội theo Luật Doanh nghiệp 2014” đăng trên tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 6/2015 và bài viết “Hình thức pháp lý của Doanh nghiệp xã hội: Kinh nghiệm nước Anh và một số gợi mở cho Việt Nam” đăng trên tạp chí Luật học, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN số 4 năm 2015.  ThS. Vũ Thị Hòa Như với bài viết “Hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam về Doanh nghiệp xã hội” đăng trên Tạp chí Luật học, số 3/2015. Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến một số khía cạnh nhất định của mô hình phát triển DNXH dưới góc độ pháp lý. Tuy nhiên, cho đến hiện nay chưa có một công trình nghiên cứu ở cấp độ luận văn cử nhân Luật kinh doanh nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ về vấn đề pháp luật về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay. Chính vì vậy, việc tác giả chọn đề tài “Doanh nghiệp xã hội theo pháp luật Việt Nam: Trường hợp của Doanh nghiệp xã hội KOTO” với mong muốn làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật về DNXH ở Việt Nam thông qua việc phân tích trường hợp thành công của KOTO và đóng góp những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về DNXH. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài có mục đích nghiên cứu các vấn đề lý luận, thực tiễn của pháp luật về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay cùng với việc phân tích trường hợp của DNXH KOTO. Từ đó đề xuất các kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động của mô hình doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, đề tài giải quyết các nhiệm vụ chủ yếu như sau:  Nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm của mô hình DNXH, về lịch sử hình thành và 10
  11. phát triển của DNXH trên thế giới và đặc biệt ở Việt Nam từ trước tới nay. Nghiên cứu về sự cần thiết của việc ban hành khung pháp luật về DNXH, khái niệm của pháp luật về DNXH.  Nghiên cứu về các nội dung chủ yếu của pháp luật về DNXH, thực trạng DNXH ở Việt Nam hiện nay. Từ đó rút ra được những ưu điểm và những tồn tại, hạn chế của pháp luật về DNXH, chỉ ra được những nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó.  Nghiên cứu về quá trình hình thành và phát triển, bộ máy quản lý, cơ cấu tổ chức và các vấn đề liên quan đến tài chính, nguồn vốn, tác động đối với xã hội... của DNXH KOTO để từ đó có thể lí giải thích được sự phát triển mạnh mẽ của KOTO trong suốt thời gian qua.  Nghiên cứu đề xuất các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về DNXH và giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động của DNXH ở Việt Nam hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đề tài có đối tượng nghiên cứu là các quy phạm pháp luật quy định về tổ chức và hoạt động của DNXH được quy định trong Luật Doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành. Về thực tiễn đề tài nghiên cứu về thực trạng hoạt động của các DNXH ở Việt Nam hiện nay, cụ thể là trường hợp của DNXH KOTO. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của đề là các quy định của pháp luật về DNXH được quy định trong Luật Doanh nghiệp năm 2014, về địa bàn nghiên cứu đề tài nghiên cứu trên địa bàn cả nước, thời gian nghiên cứu từ năm tháng 2 năm 2017 đến nay. 5. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp hệ 11
  12. thống, lịch sử, logic, phân tích, so sánh, tổng hợp. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, tác giả tham khảo ý kiến chuyên gia liên quan đến đề tài. 6. Tính mới và những đóng góp của khóa luận Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ một khóa luận cử nhân Luật kinh doanh về các vấn đề liên quan đến pháp luật về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay. Đề tài giải quyết những nội dung cơ bản thuộc về lý luận và thực tiễn của pháp luật về doanh nghiệp xã hội là: các định nghĩa, đặc điểm của DNXH và pháp luật về DNXH và thực trạng pháp luật về DNXH Việt Nam theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Bên cạnh đó, thông qua việc phân tích trường hợp cụ thể của DNXH KOTO, đề tài cũng đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về DNXH và nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động đối với loại hình doanh nghiệp này. Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu và học tập của các nhà nghiên cứu, giảng dạy luật học, việc học tập của sinh viên, học viên chuyên ngành luật kinh tế... 7. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được kết cấu gồm 3 chương như sau: Chương 1: Tổng quan về Doanh nghiệp xã hội Chương 2: Thực trạng pháp luật về Doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam và trường hợp của Doanh nghiệp xã hội KOTO Chương 3: Một số kiến nghị, giải pháp để nâng cao hoạt động của Doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam 12
  13. CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI 1.1. Vài nét về lịch sử ra đời và phát triển của Doanh nghiệp xã hội trên thế giới DNXH đã trải qua một quá trình hình thành và phát triển từ rất lâu đời. Theo nghiên cứu của MacDonald M. & Howarth C. (2008), mô hình DNXH đầu tiên xuất hiện tại London vào năm 1665, khi Đại dịch (Great Plague) hoành hành đã khiến nhiều gia đình giàu có, vốn là các chủ xưởng công nghiệp và cơ sở thương mại rút khỏi thành phố, để lại tình trạng thất nghiệp tăng nhanh trong nhóm dân nghèo lao động. Trong bối cảnh đó, Thomas Firmin đã đứng ra thành lập một xí nghiệp sản xuất và sử dụng nguồn tài chính cá nhân cung cấp nguyên liệu cho nhà máy để tạo và duy trì việc làm cho 1.700 công nhân. Ngay từ khi thành lập, ông tuyên bố xí nghiệp không theo đuổi mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận và số lợi nhuận sẽ được chuyển cho các quỹ từ thiện [7, tr.1]. Như vậy, DNXH lần đầu tiên xuất hiện tại Anh do những nhu cầu nhất định về thực hiện chính sách an sinh xã hội và phúc lợi xã hội đối với người nghèo, người khuyết tật. Đến cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, các DNXH ở Anh đã phát triển một cách tương đối và có thể phân thành hai nhóm như sau [7, tr.1]: (i) Nhóm thứ nhất, là một số người giàu có thay đổi quan điểm của họ trong hoạt động từ thiện. Theo quan điểm của họ, việc đóng góp, hỗ trợ một khoản vật chất nhất định cho tầng lớp dân nghèo có thể gây ra tâm lý ỷ lại, lười biếng và “nhàn cư vi bất thiện” ở họ. Chính vì vậy, họ xây dựng các chương trình cung cấp việc làm để nhóm này học việc và có thể duy trì công việc cũng như thu nhập của mình, trở thành “những thành viên hữu ích của quốc gia”. Với quan điểm và phương pháp tiếp cận như vậy, một số mô hình doanh nghiệp hỗ trợ hoạt động của các quỹ, các chương trình dành cho người nghèo, người 13
  14. khuyết tật đã được ra đời, có thể kể đến như: Quỹ tín dụng vi mô (chủ yếu là cho vay công cụ sản xuất) ở Bath; trường dạy xe sợi, dệt vải và tạo việc làm cho những người mù nghèo khổ ở Liverpool năm 1790; trường giáo dưỡng, tái hòa nhập trẻ phạm tội của tư nhân… Những chương trình hỗ trợ như vậy, được sự ủng hộ của các nhà hảo tâm, của các nhà tư sản lớn. Từ đó tạo nên những DNXH đầu tiên trên thế giới. (ii) Nhóm thứ hai, đối với một số đối tượng khác có quan điểm khác về phúc lợi xã hội và hỗ trợ cộng đồng. Theo đó, trong giai đoạn này ở Anh, xuất hiện các mô hình cho phép người lao động có nhiều quyền hơn trong ký kết hợp đồng lao động và lần đầu tiên họ có khả năng làm chủ kế hoạch kinh doanh cũng như phân phối lợi nhuận. Sự phát triển của mô hình này dẫn đến việc ra đời của các Hợp tác xã (Co-op), hội ái hữu (Provident Society), làng nghề (Industrial Society) đã thực hiện phân phối lợi nhuận và cung cấp phúc lợi cho toàn bộ cộng đồng, cũng như trao quyền biểu quyết về quản lý tổ chức và kinh doanh cho tất cả thành viên. Sang thế kỷ 20, hoạt động của các DNXH có phần giảm sút khi chủ thuyết kinh tế Keynes lên ngôi từ sau cuộc Đại suy thoái (1929-1933), cổ vũ cho vai trò can thiệp của Nhà nước đối với nền kinh tế; và cũng nhờ đó, một loạt mô hình Nhà nước phúc lợi đã ra đời ở Tây Âu và Bắc Mỹ sau Thế chiến II [7, tr.2]. Bước vào thời kỳ hiện đại, trong bối cảnh nền kinh tế thế giới phục hồi và phát triển mạnh mẽ kể từ sau Chiến tranh thế giới, cùng với sự tác động của Chiến tranh lạnh và đối đầu Đông – Tây, ở các quốc gia Phương Tây, chính sách xã hội đặc biệt được quan tâm và được coi là mũi nhọn trong việc đảm bảo sự phát triển hài hòa giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội. Trong giai đoạn này, các DNXH chỉ thực sự phát triển mạnh để hình thành nên một phong trào rộng khắp có diện mạo như ngày nay sau những chính sách kinh tế của nước Anh vào thập kỷ 80 của thế kỷ XX. Cụ thể là chủ trương thu hẹp lại vai trò của Nhà nước và cho rằng Nhà nước không nên trực tiếp tham gia cung cấp phúc lợi xã hội. Nhà nước tư sản phương Tây trong giai đoạn này đã rút dần ảnh hưởng trong lĩnh vực 14
  15. công, xã hội hóa nhiều hoạt động phúc lợi, từ thiện. Từ đó dẫn đến sự phát triển của các DNXH trong giai đoạn này. Về cơ bản có thể thấy, các vấn đề về dịch vụ công và phúc lợi xã hội vốn luôn được thừa nhận rộng rãi như một trong các chức năng cơ bản của Nhà nước, Nhà nước khi được ra đời cần phải thực hiện hai chức năng cơ bản là bảo vệ và quản lý xã hội, trong đó quản lý xã hội bao gồm thực hiện cả những yếu tố phúc lợi xã hội và dịch vụ công như hỗ trợ người nghèo, người khuyết tật, người yếu thế trong xã hội khác. Tuy nhiên, trong giai đoạn từ sau thập niên 80 của thế kỷ XX Chính phủ của nhiều nước Phương Tây đều thực hiện chức năng này thông qua các tổ chức dân sự và tư nhân bằng hình thức đấu thầu và thuê ngoài. Hoạt động xã hội hóa các hình thức dịch vụ công và phúc lợi xã hội khác cho thấy hiệu quả cao hơn hẳn so với việc nhà nước trực tiếp thực hiện hoạt động này. Trong ba thập niên trở lại đây, phong trào DNXH đã phát triển mạnh ra khỏi biên giới các quốc gia và trở thành một vận động xã hội có quy mô và tầm ảnh hưởng toàn cầu. Hiện tại không có số liệu chính xác bao nhiêu DNXH đang hoạt động tại bao nhiêu quốc gia bởi mô hình khái quát về DNXH tuy đã được công nhận thức một cách rộng rãi, nhưng đi vào nội dung, tiêu chí cụ thể để định nghĩa, phân loại DNXH lại có nhiều quan điểm khác nhau, phụ thuộc vào trình độ phát triển, đặc điểm kinh tế-xã hội của từng nước, và thậm chí là mục tiêu chính sách của từng chính phủ. Mặc dù vậy, qua các tài liệu nghiên cứu, có thể nói DNXH đang hoạt động mạnh mẽ ở tất cả các khu vực trên thế giới từ Tây Âu, Bắc Mỹ, Úc đến Mỹ La-tinh, Trung Đông, châu Phi, Nam Á, Đông Nam Á. Không ít quốc gia đã ban hành văn bản pháp lý riêng về DNXH và tạo lập được các mạng lưới có tổ chức để tập hợp, chia sẻ và kết nối lên tới hàng nghìn DNXH ở phạm vi trong nước cũng như quốc tế [7, tr.2]. 15
  16. 1.2. Khái niệm và đặc điểm của Doanh nghiệp xã hội Mặc dù DHXH có lịch sử hình thành và phát triển khá lâu đời, tuy nhiên, cho đến nay, khái niệm DNXH vẫn chưa có sự thống nhất, dẫn đến việc hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm DNXH. Trong Chiến lược phát triển DNXH năm 2002, Chính phủ Anh định nghĩa: “DNXH là một mô hình kinh doanh được thành lập nhằm thực hiện các mục tiêu xã hội, và sử dụng lợi nhuận để tái đầu tư cho mục tiêu đó hoặc cho cộng đồng, thay vì tối đa hóa lợi nhuận cho cổ đông hoặc chủ sở hữu” [7] Đây có thể được là một định nghĩa toàn diện, nêu bật lên được những đặc điểm cơ bản của DNXH. Đó là DNXH cần được hiểu như là một mô hình, phương án, giải pháp thông qua hoạt động kinh doanh hơn là ràng buộc DNXH vào một hình thức công ty nhất định. Bên cạnh đó, mục tiêu xã hội được xem là ưu tiên hàng đầu và cốt lõi của DNXH. Và cuối cùng, lợi nhuận được tái phân phối lại cho tổ chức hoặc cộng đồng, không phải cho cá nhân. Ngoài ra, Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD cũng đưa ra định nghĩa: “DNXH là những tổ chức hoạt động dưới nhiều hình thức pháp lý khác nhau vận dụng tinh thần doanh nhân nhằm theo đuổi cùng lúc cả hai mục tiêu xã hội và kinh tế. DNXH thường cung cấp các dịch vụ xã hội và việc làm cho các nhóm yếu thế ở cả thành thị và nông thôn. Ngòai ra, DNXH còn cung cấp các dịch vụ cộng đồng, trên các lĩnh vực giáo dục, văn hóa, môi trường.” [33] Ngoài hai định nghĩa nêu trên là những định nghĩa được nhiều nghiên cứu và tổ chức tham khảo, trích dẫn, còn có một số định nghĩa khác về DNXH. Ví dụ như Tổ chức hỗ trợ sáng kiến vì cộng đồng – CSIP của Việt Nam đưa ra quan điểm: “DNXH là một khái niệm dùng để chỉ hoạt động của các doanh nhân xã hội dưới nhiều hình thức khác nhau tùy thuộc vào mục đích và điều kiện hoạt động cụ thể. DNXH 16
  17. lấy lợi ích xã hội làm mục tiêu chủ đạo, được dẫn dắt bởi tinh thần doanh nhân nhằm đạt được cả mục tiêu xã hội/ môi trường và mục tiêu kinh tế.” [25] Như được đề cập ở trên, cách định nghĩa về DNXH rất phong phú, tùy thuộc trình độ phát triển của mỗi nước và khu vực, cũng như đặc thù và ưu tiên của từng tổ chức. Nhưng nhìn chung, DNXH đều có những đặc điểm nổi bật sau đây:  Sử dụng hoạt động kinh doanh, cạnh tranh bình đẳng như một công cụ để thực hiện được mục tiêu xã hội đề ra ngay từ khi thành lập doanh nghiệp Trước hết, so với những tổ chức phi chính phủ, phi lợi nhuận, các quỹ từ thiện chỉ đơn thuần nhận tài trợ từ các tổ chức, nhà hảo tâm để thực hiện các dự án hoặc chương trình xã hội thì DNXH có thể thực hiện hoạt động kinh doanh riêng của mình. Đây cũng là một nét đặc thù của DNXH và nó cũng tạo ra thế mạnh cho loại hình doanh nghiệp này. Bởi lẽ nếu như mối quan hệ giữa các tổ chức phi chính phủ, phi lợi nhuận, tổ chức từ thiện với những nhà tài trợ khác thường là quan hệ một chiều (cho đi) và mang tính thụ động thì DNXH có thể có vị thế độc lập, chủ động hơn thông qua việc tự mình thực hiện các hoạt động kinh doanh, tạo ra những nguồn lực nhất định để vừa đảm bảo việc giải quyết các vấn đề xã hội đang tồn tại, vừa có thể vận hành doanh nghiệp một cách hiệu quả. Nói cách khác, DNXH phải là người trực tiếp cung cấp các sản phẩm hàng hóa dịch vụ với chất lượng tốt ở mức giá cạnh tranh so với thị trường [7, tr.6]. Song đây cũng là một thách thức đối với các DNXH bởi nguồn lực về tài chính và nhân lực của họ còn có hạn trong khi thị trường cạnh tranh giữa các doanh nghiệp rất phức tạp. Chính điều này phần nào lý giải tại sao DNXH luôn gắn liền với các sáng kiến xã hội, bởi giải pháp kinh doanh của DNXH phải có tính mới lạ thì mới có thể đem đến mục tiêu xã hội dưới hình thức kinh doanh [14]. Hơn nữa, DNXH còn phải trực tiếp cạnh tranh với các doanh nghiệp truyền thống trong cùng một lĩnh vực. Việc cạnh tranh bình đẳng và công bằng, tuy là một thách thức lớn, nhưng nó có thể đem lại cho DNXH vị thể độc lập và tự chủ trong tổ chức và hoạt động của mình mà không phải phụ thuộc vào bất kỳ một tổ chức hoặc cá nhân khác. Doanh 17
  18. thu từ hoạt động kinh doanh có thể không bù đắp tất cả chi phí cho mục tiêu xã hội, nhưng ít nhất việc bù đắp một phần, thường là từ 50-70% nguồn vốn (phần còn lại các DNXH vẫn có thể dựa vào nguồn tài trợ), sẽ giúp DNXH độc lập hơn trong quan hệ với các nhà tài trợ để theo đuổi sứ mệnh xã hội của riêng mình và quan trọng hơn là tạo điều kiện để DNXH mở rộng được quy mô các hoạt động xã hội của họ [7, tr.6] Do vậy, xây dựng một chiến lược kinh doanh tốt, có lợi nhuận, bền vững là một yêu cầu thiết yếu để đảm bảo DNXH thực hiện hiệu quả mục tiêu giải quyết các vấn đề xã hội. Thực tế đã cho thấy có rất nhiều DNXH hiện đang phát huy được thế mạnh của mình và có những sản phẩm, dịch vụ có thể cạnh tranh binh đẳng với các doanh nghiệp truyền thống trên thị trường. Ví dụ như Nhà hàng KOTO có chất lượng tốt cả về đồ ăn và phục vụ, được giới thiệu trên Lonely Planet, Time-Out; sản phẩm của Mai Handicrafts và Mekong Quilts đều được thiết kế rất độc đáo và bán chạy với giá cao…[7, tr.6]  Đặt mục tiêu vì xã hội và cộng đồng lên hàng đầu kể từ khi thành lập doanh nghiệp Một trong những điểm tạo ra sự khác biệt giữa DNXH và doanh nghiệp truyền thống chính là mục tiêu được đề ra khi thành lập doanh nghiệp. Cụ thể, ở doanh nghiệp thông thường, các nhà đầu tư dựa vào thị trường để tìm ra nhu cầu của khách hàng, từ đó lên kế hoạch, chiến lược đầu tư, sản xuất, kinh doanh hàng hóa, cung ứng dịch vụ và thông qua hàng loạt các hoạt động kinh doanh được điều tiết bởi các quy luật của nền kinh tế thị trường để đạt được mục đích cuối cùng là lợi nhuận. Nói cách khác, chính lợi nhuận trở thành động lực để nhà đầu tư quyết định tìm giải pháp kinh doanh, đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng và tối đa hóa lợi nhuận cho mình, có được lợi nhuận, tức nhà đầu tư đã thành công [11]. Mặc dù ngày càng có nhiều doanh nghiệp chú trọng đến việc đảm bảo thực hiện các trách nhiệm với xã hội như bảo vệ môi trường hoặc các vấn đề liên quan đến người lao động…, nhưng xét cho cùng, đây vẫn 18
  19. không phải là ưu tiên hàng đầu của họ khi thành lập doanh nghiệp. Nói cách khác, nó chỉ thể hiện trách nhiệm của doanh nghiệp đối với cộng đồng và góp phần nâng cao vị thế của doanh nghiệp trong xã hội. Trong khi đó, đối với DNXH thì yếu tố lợi nhuận không phải là yếu tố quyết định đến sự ra đời của doanh nghiệp, mà chính từ các vấn đề đang tồn tại trong xã hội. Các vấn đề xã hội trở thành động lực để doanh nhân xã hội tìm kiếm và quyết định mô hình kinh doanh phù hợp, suy cho cùng thì doanh nhân xã hội sử dụng phương thức kinh doanh để giải quyết vấn đề xã hội mà họ đã phát hiện ra. Khi vấn đề xã hội được giải quyết thì mục đích của DNXH đã đạt được, dù có thể chính DNXH không thu về được lợi nhuận, thậm chí bị thua lỗ [11; 14]. Như vậy, DNXH phải lấy mục tiêu xã hội làm sứ mệnh hoạt động tối thượng ngay từ khi thành lập, và điều này phải được tuyên bố một cách công khai, rõ ràng, minh bạch. Mỗi DNXH được thành lập đều vì một mục tiêu xã hội cụ thể, hoạt động vì cộng đồng chứ không phải vì một cá nhân đơn lẻ [7, tr.7].  Tái phân phối lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh lại cho tổ chức, cộng đồng và mục tiêu xã hội Một trong những yêu cầu của mô hình DNXH chính là DNXH khi thực hiện hoạt động kinh doanh phát sinh lợi nhuận không phân phối như các doanh nghiệp thông thường. Lợi nhuận mà doanh nghiệp có được từ hoạt động sản xuất, kinh doanh được dùng để tái đầu tư vào doanh nghiệp với mục tiêu giải quyết các vấn đề xã hội mà DNXH đang theo đuổi [12]. Thực chất, hai đặc điểm ở trên về hoạt động kinh doanh và mục tiêu xã hội là những nét cơ bản nhất về DNXH. Còn tiêu chí sử dụng lợi nhuận để tái đầu tư phục vụ các mục tiêu xã hội là tiêu chí để giúp phân định rõ đặc điểm ‘vì- lợi nhuận’ hay ‘vì- xã hội’ mà thôi. 19
  20. Ngoài những đặc điểm nổi bật nêu trên, hầu hết các DNXH còn có những đặc điểm khác như sau:  Cơ cấu sở hữu mang tính xã hội Một đặc điểm khác tuy không phổ biến nhưng được một số cách định nghĩa DNXH đề cập là cấu trúc sở hữu và quản lý của DNXH có sự tham gia của cộng đồng hoặc các bên liên quan, các bên hưởng lợi... Điều này cho phép DNXH có tính tự chủ cao. Đây là trường hợp của các Hợp tác xã hoạt động theo mô hình DNXH rất hiệu quả ở một số nước [7, tr.8]. Trên thực tế, hầu hết các DNXH đều có cấu trúc quản lý cởi mở và dân chủ. Yêu cầu gắn kết với cộng đồng, các bên hưởng lợi và một số lượng đối tác đông đảo, trong khi mục đích xã hội được đặt ở vị trí tối cao, khiến các DNXH sẵn sàng chia sẻ ‘quyền lực’ của mình với tất cả các bên liên quan. Đáng chú ý, ở nhiều DNXH khái niệm đối nhân – đối vốn không được áp dụng như tại các công ty cổ phần hay TNHH truyền thống. Tại không ít DNXH, Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng sáng lập viên đã áp dụng nguyên tắc ‘mỗi thành viên - một phiếu bầu/ quyền biểu quyết như nhau’ trong mọi quyết định của tổ chức, mà không dựa vào tỷ lệ góp vốn của họ [7, tr.8].  Phục vụ nhu cầu của Nhóm đáy tháp xã hội Một trong những sứ mệnh đặc thù của DNXH là phục vụ nhu cầu của Nhóm đáy tháp xã hội. Đây là đối tượng những người nghèo và yếu thế nhất trong xã hội, họ tạo nên một nhóm gồm 2 tỷ người với thu nhập dưới 2 USD/ngày [31]. Và vì chiếm số đông nhất nhưng ở dưới đáy cùng của xã hội nên được gọi là ‘Nhóm đáy’ của Kim tự tháp (Bottom of Pyramid- BoP). Đáng chú ý, nhóm đối tượng bị lề hóa, bao gồm người dân ở vùng sâu vùng xa, người khuyết tật, người bị nhiễm HIV/AIDS, trẻ em đường phố, thất học, phạm nhân mãn hạn tù... tuy không hoàn toàn nằm trong Nhóm đáy nhưng có tỷ lệ và nguy cơ cao rơi vào Nhóm đáy, do đó cũng là một địa bàn trọng yếu của các DNXH [7, tr.9]. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2