intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh doanh: Quản tài viên trong pháp luật phá sản Việt Nam

Chia sẻ: Caphesuadathemhanh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:66

31
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của nghiên cứu đề tài là tìm hiểu những vấn đề lý luận và thực trạng quy định trong pháp luật Phá sản của Việt Nam về Quản tài viên, Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh doanh: Quản tài viên trong pháp luật phá sản Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN ANH THƠ QUẢN TÀI VIÊN TRONG PHÁP LUẬT PHÁ SẢN VIỆT NAM KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC HÀ NỘI-2017
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN ANH THƠ QUẢN TÀI VIÊN TRONG PHÁP LUẬT PHÁ SẢN VIỆT NAM KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH DOANH NGƯỜI HƯỚNG DẪN: ThS.NCS Trần Anh Tú HÀ NỘI-2017
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Anh Thơ
  4. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1 1. Tính cấp thiết của đề tài .................................................................................... 1 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................... 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: ..................................................................... 2 4. Phương pháp nghiên cứu: ................................................................................. 2 5. Cơ cấu của khóa luận: ....................................................................................... 3 Chương I: Một số vấn đề lý luận về quản tài viên và địa vị pháp lý của quản tài viên trong thủ tục phá sản: ....................................................................................... 4 1.1. Khái quát chung về quản tài viên: .................................................................... 4 1.1.1. Khái niệm về quản tài viên: ........................................................................... 4 1.1.2. Bản chất pháp lý của quản tài viên: ............................................................... 5 1.1.3. Đặc điểm của chủ thể quản lý, thanh lý tài sản- quản tài viên: ................... 10 1.2. Vị trí pháp lý của Quản tài viên trong thủ tục phá sản: .................................. 15 1.2.1. Vai trò của Quản tài viên trong kiểm soát và quản lý sản nghiệp phá sản: . 15 1.2.2 Vai trò thực hiện nhiệm vụ giúp doanh nghiệp phục hồi hoạt động kinh doanh: .................................................................................................................... 16 1.2.3. Vai trò thực hiện nhiệm vụ thanh lý tài sản của doanh nghiệp phá sản: ..... 17 1.3. Quản tài viên theo pháp luật một số nước trên thế giới ...................................... 1.3.1. Chế định quản tài viên theo pháp luật Nhật Bản: ........................................ 18 1.3.2. Chế định quản tài viên theo pháp luật Cộng hòa liên bang Đức: ................ 19 1.3.3. Chế định Quản tài viên theo pháp luật Liên bang Nga:............................... 20 Chương II: Thực trạng pháp luật và việc thực hiện pháp luật về Quản tài viên ở Việt Nam hiện nay ................................................................................................ 22 2.1. Những quy định của pháp luật Việt Nam về quản tài viên: ........................... 22 2.1.1. Điều kiện trở thành Quản tài viên:............................................................... 22 2.1.2. Nguyên tắc hành nghề quản tài viên: ........................................................... 24 2.1.3. Nhiệm vụ và quyền hạn của Quản tài viên trong quản lý, thanh lý tài sản phá sản: .................................................................................................................. 25 2.1.4. Thù lao của Quản tài viên: ........................................................................... 27
  5. 2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về Quản tài viên ở Việt Nam hiện nay: .................................................................................................................... 29 Kết luận chương 2: ................................................................................................ 33 Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về quản tài viên ở Việt Nam hiện nay ................................................................................................... 34 3.1. Định hướng hoàn thiện: ............................................................................ 34 3.2. Những giải pháp cụ thể hóa nhằm hoàn thiện pháp luật về quản tài viên ở Việt Nam hiện nay: ................................................................................................ 37 3.2.1. Đơn giản hóa thủ tục để được hành nghề Quản tài viên: ............................ 37 3.2.2. Tăng thêm nhiệm vụ, thẩm quyền cho Quản tài viên: ................................. 38 3.2.3. Xây dựng chế độ thù lao hợp lý cho Quản tài viên và Doanh nghiệp quản lý thanh lý tài sản: ...................................................................................................... 40 3.2.4. Xây dựng và phát triển nghề Quản tài viên sớm trở thành một ngành nghề chuyên nghiệp: ....................................................................................................... 41 3.2.5. Cần bổ sung quy định trường hợp đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Quản tài viên và Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản................................ 42 Kết luận chương 3: .................................................................................................. 43 KẾT LUẬN: ............................................................................................................ 44 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 46
  6. LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu đối với công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước là tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực sự của dân, do dân, vì dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Với việc tạo điều kiện và mở rộng cơ chế thị trường mà ngày càng có nhiều doanh nghiệp được mở ra với mục đích, đồng thời cũng là phương tiện và động lực để kinh doanh đó chính là lợi nhuận. Khi một doanh nghiệp không còn đáp ứng được những đòi hỏi khắt khe, nghiệt ngã đó của thương trường, thì doanh nghiệp đó sẽ bị đào thải. Cơ chế đào thải những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài, mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn, đồng thời phòng ngừa, khắc phục những hậu quả và những rủi ro của những doanh nghiệp này gây ra chính là cơ chế phá sản. Việc xử lý các khoản nợ của doanh nghiệp không phải là vấn đề đơn giản, nó không những tiểm ẩn những bất ổn về chính trị, kinh tế mà còn về xã hội, an sinh. Điều đó đòi hỏi Nhà nước phải can thiệp bằng biện pháp pháp luật để xử lý các vấn đề liên quan đến doanh nghiệp mất khả năng thanh toán để những doanh nghiệp này không làm tổn hại đến kinh tế, hạn chế tối đa những hậu quả tiêu cực. Các quy định về phá sản của các quốc gia trên Thế giới quy định các vấn đề chính như vấn đề tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, trong đó có hai nội dung chính là quản lý và thanh lý tài sản. Hệ thống pháp luật phá sản của các quốc gia trên Thế giới sẽ có sự khác biệt tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội cũng như thể chế chính trị của từng quốc gia. Xu hướng chung cho thấy, các quốc gia có nền lập pháp phát triển có quy định về chủ thể quản lý, thanh lý tài sản phá sản là cá nhân. Việt Nam cũng đã có sự tiếp thu có chọn lọc về pháp luật phá sản của một số nước trên thế giới để có được sự thay đổi phù hợp với xu thế chung trong đó phải kể đến là chế định Quản tài viên và Doanh nghiệp quản lý thanh lý tài sản phá sản. Trong bối cảnh nói trên, việc nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về thanh lý tài sản phá sản của doanh nghiệp phá sản nhằm xây dựng một quy trình phân chia tài 1
  7. sản phá sản hợp lý sẽ giúp các chủ nợ thu hồi nợ nhanh chóng, an toàn và tái cơ cấu nhanh các nguồn lực của doanh nghiệp phá sản, mà người thực hiện phân chia tài sản này không ai khác chính là “Quản tài viên”. Vậy “Quản tài viên” là gì? Công việc của họ có thực sự hiệu quả và đưa ra giải pháp tốt nhất cho doanh nghiệp lẫn chủ nợ hay không? Vì lẽ đó tác giả đưa ra đề tài “ QUẢN TÀI VIÊN TRONG PHÁP LUẬT PHÁ SẢN VIỆT NAM” để nghiên cứu và làm luận văn tốt nghiệp. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quy định của pháp luật về điều kiện hành nghề quản lý, thanh lý tài sản. Vai trò nhiệm vụ của các chủ thể quản lý, thanh lý tài sản trong thủ tục phá sản ở Việt Nam và một số nước trên Thế giời; Thực tiễn pháp luật về việc áp dụng quy định pháp luật về Quản tài viên ở Việt Nam. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: Mục đích của nghiên cứu đề tài là tìm hiểu những vấn đề lý luận và thực trạng quy định trong pháp luật Phá sản của Việt Nam về Quản tài viên, Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản. Để thực hện mục đích nêu trên, mục tiêu đặt ra bao gồm: Tìm hiểu những vấn đề về phá sản và chủ thể quản lý, thanh lý tài sản từ đó hiểu được bản chất pháp lý, đặc điểm nghề nghiệp, vai trò của chủ thể này và mối quan hệ với các chủ thể khác trong thủ tục phá sản. Đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam về quản tài viên và Doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản. 4. Phương pháp nghiên cứu: Bài nghiên cứu được hoàn thành trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, bài nghiên cứu sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học như: phương pháp so sánh, phương pháp phân tích. Phương pháp luật học so sánh, phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp nghiên cứu liên ngành, phương pháp dự báo qua những tài liệu thứ cấp, phương pháp phân tích kinh tế luật, phân tích án lệ được các tác giả nước ngoài sử dụng 2
  8. trong các nghiên cứu có liên quan cũng sẽ được tác giả tìm hiểu, tiếp cận và vận dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài. 5. Cơ cấu của khóa luận: Cơ cấu khóa luận: Lời nói đầu, phần nội dung, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Trong đó, phần nội dung được kết cấu thành ba chương cụ thể: Chương I: Một số vấn đề lý luận về Quản tài viên và Địa vị pháp lý của Quản tài viên trong thủ tục phá sản. Chương II: Thực trạng pháp luật và việc thực hiện pháp luật về Quản tài viên ở Việt Nam hiện nay. Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về Quản tài viên ở Việt Nam hiện nay. 3
  9. Chương I: Một số vấn đề lý luận về quản tài viên và địa vị pháp lý của quản tài viên trong thủ tục phá sản: 1.1. Khái quát chung về quản tài viên: 1.1.1. Khái niệm về quản tài viên: - Phá sản là một thủ tục tố tụng tư pháp đặc biệt với sự tham gia của nhiều chủ thể khác nhau, trong đó có thiết chế quản lý tài sản của con nợ. Sự hiện diện của chủ thể này trong pháp luật cũng như thực tiễn giải quyết ở các nước là một điều cần thiết nhằm ngăn chặn tình trạng con nợ tẩu tán, làm thất thoát tài sản, thu hồi được nhiều nhất các quyền lợi vật chất cho các chủ nợ; tránh tình trạng bắt nợ phi pháp từ phía các chủ nợ; đồng thời việc phân chia tài sản, điều hòa lợi ích giữa các chủ nợ, giữa chủ nợ với con nợ và lợi ích của người lao động, của Nhà nước một cách công bằng và đúng luật trên cơ sở tài sản hiện có của con nợ cũng là một yêu cầu cho sự hình thành của thiết chế quản lý tài sản. Như vậy, khi một doanh nghiệp phá sản, nhằm xây dựng một quy trình phân chia tài sản phá sản hợp lý sẽ giúp các chủ nợ thu hồi nợ nhanh chóng, an toàn và tái cơ cấu nhanh các nguồn lực của doanh nghiệp phá sản, mà người thực hiện phân chia tài sản này không ai khác chính là “Quản tài viên”. Ta có thể thấy, chủ thể của việc quản lý và thanh lý tài sản có vị trí quan trọng trong quá trình giải quyết phá sản. Chức danh “Quản tài viên” được lập ra phù hợp với mục đích và tính chất của việc giải quyết phá sản là thu hồi được nhiều tài sản nhất từ con nợ cho chủ nợ, đồng thời cũng điều hòa lợi ích giữa các bên, tránh xảy ra tranh chấp, bảo đảm phân chia tài sản một cách công bằng nhất, nhằm ngăn chặn hành vi tẩu tán, cất giấu tài sản của một con nợ và là một thủ tục đòi nợ tập thể. Ở các nước khác nhau, việc quy định về cơ cấu, tổ chức, vị trí, vai trò cũng như thẩm quyền chủ thể quản lý, thanh lý tài sản khác nhau. Trong luật phá sản Nhật Bản, chủ thể quản lý, thanh lý tài sản được dung bằng thuật ngữ “ bankruptcy trustee” có nghĩa là người này được ủy thác, ủy quyền trong thủ tục phá sản. Luật phá sản Hoa Kỳ gọi những chủ thể thanh lý, quản lý tài sản là những Tín thác viên, theo đó những Tín thác viên này là những người thu hồi những tài sản không được miễn trừ của con nợ, quản lý nguồn vốn từ việc bán tài sản này, sau đó chi trả và phân phối cân bằng cho các chủ nợ còn khoản nợ. 4
  10. Pháp luật mỗi quốc gia sẽ có cách định nghĩa khác nhau về chủ thể quản lý, thanh lý tài sản phá sản. Qua quá trình khảo sát và nghiên cứu, tác giả đưa ra quan điểm chủ thể quản lý, thanh lý tài sản có thể được định nghĩa như sau: Chủ thể quản lý, thanh lý tài sản được hiểu là chủ thể được hình thành khi thực hiện thủ tục phá sản nhằm kiểm tra, giám sát việc quản lý tài sản của Doanh nghiệp, ngăn chặn hành vi tẩu tán tài sản và thực hiện nhiệm vụ thanh toán các khoản nợ dựa trên tài sản của Doanh nghiệp cho chủ nợ. Như vậy, Quản tài viên có thể hiểu là một chức danh tư pháp do tòa án chỉ định tham gia vào thủ tục phá sản nhằm quản trị, bảo toàn và phát triển sản nghiệp phá sản của con nợ và thực hiện chức năng thanh toán sản nghiệp phá sản cho các đối tượng thụ hưởng theo luật định trong trường hợp phải tuyên bố phá sản con nợ. Theo Luật phá sản Việt Nam 2014 thì: “Quản tài viên là cá nhân hành nghề quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán trong quá trình giải quyết phá sản” (khoản 7 điều 4 Luật phá sản). 1.1.2. Bản chất pháp lý của quản tài viên: Đóng vai trò quan trọng trong quá trình giải quyết tài sản phá sản, quản tài viên không những là người đứng giữa con nợ và chủ nợ, mà còn có nghĩa vụ quản lý, giám sát, bảo toàn hay thậm chí là làm gia tăng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã. Qua quá trình nghiên cứu về quản tài viên, có thể thấy chủ thể này mang bản chất pháp lý khá đặc biệt và trong quá trình giải quyết phá sản, quản tài viên nắm giữ nhiều vai trò khác nhau trong mối quan hệ giữa con nợ, chủ nợ và Nhà nước. Tài sản phá sản là khối sản nghiệp của doanh nhiệp bao gồm toàn bộ những tài sản có và tài sản nợ của doanh nghiệp từ thời điểm Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đến thời điểm có quyết định của Tòa án về việc hoàn tất vụ việc phá sản. Nhằm tránh sự thất thoát tài sản, bảo đảm an toàn về mặt pháp lý cho tài sản của doanh nghiệp, đồng thời thanh toán nợ một cách công bằng, khách quan và hiệu quả, các nước khi ban hành luật phá sản đều rất quan tâm đến vấn đề quản lý và xử lý tài sản của doanh nghiệp mắc nợ. Do đó, mà Luật phá sản các nước đều có quy định lập ra một thiết chế nhằm đảm bảo quyền lợi cho các chủ nợ và sau đó cho nói một địa vị pháp lý nhất định, đó chính là chủ thể quản lý, thanh lý tài sản. 5
  11. Nếu như theo Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 có tên gọi là Tổ quản lý tài sản và tổ thanh toán tài sản, và Tổ quản lý và thanh lý tài sản theo Luật Phá sản năm 2004 thì hiện nay, theo luật Phá sản 2014 hiện hành, tên gọi chủ thể này được gọi là Quản tài viên. Đây không chỉ là khác biệt về tên gọi, Khoản 2, Điều 9 Luật Phá sản năm 2004 và khoản 2, Điều 15 Nghị định số 67 ngày 11/7/2006 của Chính phủ quy định Tổ quản lý và thanh lý tài sản bao gồm: Một Chấp hành viên của cơ quan thi hành án làm Tổ trưởng; một cán bộ Tòa án nhân dân có quyền thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, một đại diện chủ nợ là tổ chức, cá nhân có số nợ lớn nhất trong số các chủ nợ. Như vậy, theo quy định này, Tổ quản lý và thanh lý tài sản là một tập thể bao gồm các thành viên đại diện cho chủ thể khác nhau, có chức năng quản lý và xử tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản nhằm đảm bảo quyền lợi của chủ nợ, con nợ, người lao động và của Nhà nước một cách công bằng và đúng luật. Điều này dẫn đến nhiều bất cập, hạn chế trong quá trình giải quyết phá sản, Tổ quản lý và thanh lý tài sản do Thẩm phán ra quyết định thành lập cùng với quyết định mở thủ tục phá sản và chịu trách nhiệm truớc Thẩm phán về hoạt động của mình. Qua đó thể hiện Tổ quản lý và thanh lý tài sản có mối quan hệ ràng buộc với Toà án, hoạt động của Tổ nhằm thực hiện các quyết định pháp lý của Thẩm phán; mặt khác, trên cơ sở hoạt động của Tổ, Thẩm phán có được những thông tin, cơ sở cần thiết quyết định các vấn đề pháp lý cơ bản trong quá trình tố tụng phá sản. Tuy nhiên, các thành viên của Tổ không chỉ chịu trách nhiệm trước Thẩm phán, mà còn chịu sự quản lý của cơ quan nơi công tác. Đặc biệt là Chấp hành viên, người giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động của Tổ, vừa chịu trách nhiệm trước Thẩm phán, vừa chịu trách nhiệm với Thủ trưởng cơ quan thi hành án. Điều 21 Nghị định số 67 của Chính phủ quy định: “Tổ trưởng Tổ quản lý và thanh lý tài sản vẫn sinh hoạt chuyên môn tại cơ quan thi hành án và chịu trách nhiệm chuyên môn trước thủ trưởng cơ quan thi hành án, chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản trước Thẩm phán”. Việc quy định địa vị pháp lý không rõ ràng đối với chủ thể này đã gây ra những khó khăn, vướng mắc khiến cho hoạt động của Tổ không hiệu quả trong quá trình giải quyết phá sản. 6
  12. Còn với khoản 7, Điều 4 Luật phá sản năm 2014 quy định: “cá nhân hành nghề quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán trong quá trình giải quyết phá sản là Quản tài viên”. Như vậy, ta có thể thấy rõ sự tiến bộ về pháp luật phá sản nói chung và trong hoạt động quản lý thanh lý tài sản nói riêng, việc giao quyền hạn và nghĩa vụ cho một cá nhân, với một mô hình chủ thể hoàn toàn mới, thay thế Tổ quản lý và thanh lý tài sản, điều này hoàn toàn phù hợp với xu thế chung của thế giới và đáp ứng yêu cầu sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, khiến cho hoạt động quản lý thanh lý tài sản đi vào thực tiễn một cách hiệu quả, mang lại nhiều lợi ích cho các bên. Luật phá sản 2014 được ban hành kế thừa và phát triển các quy định của pháp luật phá sản của Việt Nam, khắc phục những hạn chế của quy định cũ, không còn phù hợp để đáp ứng tình hình kinh tế đất nước trong giai đoạn kinh tế thị trường định hướng XHCN, trên cơ sở tham khảo quy định của Luật phá sản nhiều nước trên Thế giới. Đặc biệt, lần đầu tiên pháp luật phá sản Việt Nam đưa chế định Quản tài viên và doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản vào trong luật. Luật quy định cá nhân, doanh nghiệp được hành nghề quản lý, thanh lý tài sản trong quá trình giải quyết phá sản gồm: Quản tài viên và doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản. Thiết chế về chủ thể Quản tài viên được đưa vào Luật phá sản 2014 cho thấy một sự phát triển mới, khắc phục được những hạn chế, vướng mắc trong mô hình của Tổ quản lý, thanh lý tài sản theo quy định Luật phá sản 2004, đáp ứng được yêu cầu về tính nhanh chóng, hiệu quả và chuyên nghiệp trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị lâm vào tình trạng phá sản, phù hợp với việc thực hiện chủ trương xã hội hóa những hoạt động mang tính nghề nghiệp theo quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về cải cách hành chính; đồng thời phù hợp với thông lệ quốc tế. chế định Quản tài viên cũng được phổ biến rộng rãi ở các nước có nền lập pháp phát triển trên thế giới như: Nhật Bản, Nga, Mỹ, Pháp, Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan… Như vậy, có thể thấy, Quản tài viên và Doanh nghiệp quản lý thanh lý tài sản là một đối tượng đặc biệt của Luật phá sản năm 2014 vừa mang những đặc điểm chung của thiết chế tài sản quản lý tài sản trên Thế giới vừa có những điểm đặc thù riêng biệt. 7
  13. Quản tài viên không phải là những “nhiệm- lại”; họ là những “thụ ủy tư pháp” do tòa án chỉ định và được nhận thù lao bằng tiền phụ cấp do thẩm phán quyết định theo pháp luật. Quản tài viên là một “thụ ủy tư pháp”, là thiết chế vừa đại diện tổng thể chủ nợ, vừa đại diện cho con nợ tham gia vào thủ tục phá sản theo sự chỉ định của tòa án. Về mặt bản chất, quản tài viên và doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản là một chủ thể độc lập, hoạt động với vai trò trung gian và vì lợi ích của các đối tượng liên quan đến doanh nghiệp. Khoản 7 điều 14 Luật phá sản 2014 giải thích: Quản tài viên là cá nhân hành nghề quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán trong quá trình giải quyết phá sản. Quản tài viên có thể là một cá nhân hoặc một pháp nhân, khi được chỉ định Quản tài viên sẽ đóng vai trò trung tâm trong việc thi hành hiệu quả Luật phá sản. Đây là nghề đã được phát triển ở các nước trên Thế giới, nhưng ở nước ta thì Luật phá sản 2014 là văn bản đầu tiên luật hóa nghề này. Quản tài viên có thể lả luật sư, kiểm toán viên, người có trình độ cử nhân Luật, kinh tế, kế toán, tài chính ngân hàng,… và có kinh nghiệm 5 năm trở lên về lĩnh vực được đào tạo được cấp chứng chỉ ngành nghề quản tài viên. Luật phá sản trước đây chưa từng đề cập đến nghề này mà đưa ra các quy định về thủ tục phá sản nhưng lại mang mô hình tập thể, thiếu độc lập nên khó để áp dụng thực tiễn một cách hiệu quả.Ta có thể thấy, trước đây, có rất nhiều doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản nhưng lại không muốn thực hiện thủ tục phá sản, do họ nhận thấy khâu giải quyết rườm rà và tốn kém. Chủ thể thực hiện quản lý và thanh lý tài sản là một hội đồng được Toà án đề xuất thực hiện và giải quyết, nên được đánh giá kém khách quan và không mang lại hiệu quả. Pháp luật của các nước trên Thế giới đã sớm hình thành mô hình quản lý thanh lý tài sản là một chủ thể cá nhân, lấy Quản tài viên làm trung tâm trong hệ thống giải quyết phá sản hiện đại. Quản tài viên là người duy trì động lực thiết yếu đối với cả hai quá trình phá sản hay phục hồi doanh nghiệp thành công, điều này yêu cầu đối với Quản tài viên phải là người có năng lực và uy tín và có được sự tin cậy từ xã hội lẫn hệ thống tòa án, và có đào tạo chuyên môn thích hợp để thực thi nhiệm vụ một cách hiệu quả nhất, người hành nghề Quản tài viên phải đảm bảo được sự độc lập và liem chính giữa các bên. Hiện nay, Luật phá sản 2014 đã có sự áp dụng theo thông lệ quốc tế trong 8
  14. việc giải quyết tài sản theo doanh nghiệp phá sản, tức là, có người thứ ba đứng giữa, hoạt động một cách độc lập vì mục đích của các bên liên quan đến doanh nghiệp, được hưởng thù lao theo quy định. Người này được đặt chức danh là Quản tài viên hay còn gọi là người quản lý tài sản. Có thể thấy, Quản tài viên có hai trách nhiệm chính là cùng doanh nghiệp lập kế hoạch và triển khai khôi phục doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng khủng hoảng tài chính, và trong trường hợp không thể khôi phục thì Quản tài viên sẽ triển khai thanh lý tài sản theo hiệu quả cao nhất đổi với các bên liên quan. Luật phá sản 2014 quy định hình thức hành nghề của Quản tài viên gồm hành nghề với tư cách cá nhân và thành lập hoặc tham gia thành lập hoặc làm việc hợp đồng cho doanh nghiệp quản lý và thanh lý tài sản. Doanh nghiệp quản lý và thanh lý tài sản là doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị mất khả năng thanh toán trong quá trình giải quyết phá sản, đây có thể coi là một ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Như đã nêu ở trên, Quản tài viên chính là một “thụ ủy tư pháp”, là một chủ thể độc lập với cơ quan khác, vừa đại diện cho doanh nghiệp phá sản lại vừa đại diện cho chủ nợ, làm việc theo sự chỉ định của Tòa án nhưng hoạt động mang tính chất kinh tế. Luật phá sản 2014 quy định về những người được cấp chứng chỉ hành nghề quản tài viên, điều kiện hành nghề quản tài viên; các trường hợp thu hồi chứng chỉ hành nghề quản tài viên; chi phí Quản tài viên và doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản. Ngoài ra luật cũng quy định trách nhiệm của quản tài viên với tư cách là một nghề độc lập: Quản tài viên phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; tuân theo nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp Quản tài viên; bảo đảm tính độc lập về chuyên môn, nghiệp vụ, tính trung thực, minh bạch, khách quan và chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động hành nghề. Để đảm bảo tính độc lập, khách quan, minh bạch của Quản tài viên trong quá trình hành nghề quản lý, thanh lý tài sản ở một doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản hoặc đăng ký hành nghề với tư cách cá nhân (Khoản 2 điều 8, Nghị định 22/2015/NĐ-CP), đồng thời phải mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp theo quy định pháp luật đối với trường hợp Quản tài viên hành nghề với tư cách cá nhân (Khoản 4 điều 7, Nghị định số 22/2015/NĐ-CP). 9
  15. Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản hoạt động với vai trò trung gian vì lợi ích của các đối tượng liên quan đến doanh nghiệp thể hiện qua việc Thẩm phán chỉ định, Quản tài viên có vị trí độc lập với cả bên là con nợ và chủ nợ, vừa là người đại diện cho lợi ích của cả con nợ lẫn chủ nợ và Nhà nước. Luật phá sản 2014 quy định Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý và thanh lý tài sản chỉ thực hiện đại diện cho doanh nghiệp, hợp tác xã không có đại diện theo pháp luật. Quản tài viên là chủ thể được chủ nợ, con nợ và Nhà nước chỉ định lựa chọn trong quá trình thực hiện thủ tục phá sản, làm việc với tư cách là một thủ ủy tư pháp. Pháp luật trao cho họ những nhiệm vụ, quyền hạn để đảm bảo lợi ích cho cả con nợ, chủ nợ lẫn Nhà nước, chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện các nhiệm vụ đó. Như vậy, có thể thấy, việc thay đổi chế định Tổ quản lý, thanh lý tài sản thành chế định Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản đồng nghĩa với việc thay thế một tập thể thành một cá nhân thực hiện các nhiệm vụ về quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản cho đến thời điểm phá sản. Điều này tạo ra cơ chế mới, linh hoạt hơn trong hoạt động giải quyết được mối lo ngại về trình độ của chủ thể thực hiện nhiệm vụ quản lý tài sản của doanh nghiệp bị phá sản, cũng như hạn chế những mâu thuẫn giữa các văn bản pháp luật trong hoạt động của các thành viên của tổ quản lý và thanh lý tài sản trước đây. Việc hoạt động độc lập theo cơ chế cấp phép đối với Quản tài viên và doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản cũng là điểm thuận lợi trong phối hợp quản lý Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý thanh lý tài sản; có xu hướng năng động và liên tục trong việc nâng cao chuẩn mực nghề nghiệp của Quản tài viên và doanh nghiệp quản lý thanh lý tài sản. 1.1.3. Đặc điểm của chủ thể quản lý, thanh lý tài sản- quản tài viên: Khi một doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài, mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn, để phòng ngừa, khắc phục những hậu quả và những rủi ro của những doanh nghiệp này gây ra chính là cơ chế phá sản.Quản tài viên có nhiệm vụ là kiểm tra, phát hiện, bảo toàn, thậm chí làm gia tang khối tài sản phá sản nhằm đảm bảo lợi ích tốt nhất cho tất cả các bên. Có thể thấy, Quản tài viên là một nghành nghề chuyên nghiệp, theo đó cũng sẽ có những đắc thù riêng. 10
  16. Thứ nhất, mô hình chủ thể quản lý, thanh lý tài sản phá sản rất đa dạng. Pháp luật mỗi quốc gia trên Thế giới sẽ thiết kế mô hình chủ thể quản lý tài sản phá sản khác nhau.Với mỗi mô hình, pháp luật các nước cũng trao cho các chủ thể này những nhiệm vụ, quyền hạn rộng hẹp khác nhau tùy thuộc vào điều kiện kinh tế- xã hội đặc thù của mỗi nước. Ta có thể thấy, nhìn chung mô hình chủ thể quản lý, thanh lý tài sản trên Thế giới tồn tại hai mô hình: Chủ thể quản lý, thanh lý tài sản là một cá nhân do Tòa án bổ nhiệm và Chủ thể quản lý, thanh lý tài sản là một tập thể được gọi là Tổ quản lý, thanh lý tài sản. - Chủ thể quản lý, thanh lý tài sản là một cá nhân: Pháp luật của các nước phát triển trên Thế giới đều quy định chủ thể quản lý tài sản phá sản là một các nhân. Đó là các Tín thác viên (Trustees) theo pháp luật Hoa Kỳ; Luật phá sản Nhật Bản theo chế định Quản trị viên (Kanxanin); theo luật Phá sản Đức có chế định người quản lý tài sản (Insovelzrwalter); luật mất khả năng thanh toán của |Cộng hòa liên bang Nga cũng có quy định về Quản trị viên… Họ đều là những luật sư chuyên trách về luật phá sản, các nhà kinh tế, chuyên gia tài chính… được Tòa án bổ nhiệm để thực hiện các nhiệm vụ trong quá trình tố tụng phá sản. - Chủ thể quản lý, thanh lý tài sản là một tập thể: Ở một số nước việc quản lý tài sản phá sản của một doanh nghiệp được giao cho một tập thể với nhiều thành phần khác nhau do tòa án thành lập và chịu sự giám sát của thẩm phán. Thành phần nhóm thông thường bao gồm: một nhân viên Tòa án, đại diện con nợ, đại diện chủ nợ. Mô hình này thường tồn tại ở những quốc gia chưa phát triển, nền tư pháp và hoạt động của luật sư chưa mang tính chuyên nghiệp cao. Vai trò của các chủ thể này thường khiêm tốn hơn. Thông thường, mô hình quản lý tài sản là một cá nhân thường tạo ra sự linh hoạt hơn trong hoạt động quản lý và thanh lý tài sản phá sản, đồng thời cũng mang tính chuyên nghiệp cao hơn. Thứ hai, Quản tài viên là thiết chế vừa đại diện tổng thể chủ nợ, vừa đại diện cho con nợ tham gia vào thủ tục phá sản theo sự chỉ định của tòa án Quản tài viên là chủ thể độc lập với con nợ và chủ nợ, cũng là người đại diện vì lợi ích cho con nợ và chủ nợ. Ta có thể thấy, quan tài viên ở đây như một người đứng giữa, giải quyết và phân chia tài sản cho các bên, sao cho đảm bảo 11
  17. được công bằng và tránh xảy ra tranh chấp giữa hai các bên. Tuy nhiên khác với các trường hợp đại diện thông thường, là sự đại diện theo ủy quyền giữa người ủy quyền và người nhận ủy quyền, Quản tài viên đại diện cho các chủ thể trên cơ sở quy định của pháp luật (đại diện theo pháp luật); nói cách khác, pháp luật trao cho họ những nhiệm vụ, quyền hạn để bảo vệ lợi ích cho cả chủ nợ, con nợ và Nhà nước, họ là “nhân vật chính” trong quá trình thực hiện các thủ tục phá sản. Quản tài viên được Tòa án chỉ định và thay mặt Tòa án để giải quyết các thủ tục pháp lý nhằm giải quyết phá sản, họ được trao quyền hạn cũng như nghĩa vụ giải quyết vụ việc phá sản, hoạt động của họ cũng nhằm thu hồi các khoản nợ đọng thuế, các khoản phí phát sinh trong quá trình giải quyết việc phá sản cho Nhà nước. Như vậy, quản tài viên chính là đại diện cho Nhà nước. Mặt khác, quản tài viên cũng là đại diện cho chủ nợ, sau khi chủ nợ có đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đề thu hồi nợ, quản tài viên sẽ là người giúp họ đứng ra làm các thủ tục nhằm thu hồi nợ. Nói cách khác, quản tài viên là người trực tiếp làm việc với doanh nghiệp phá sản nhằm thu hồi nợ. Trong trường hợp, doanh nghiệp làm thủ tục phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh thành công hoặc phải thanh lý tài sản thì quản tài viên có nghĩa vụ bảo toàn hay xử lý tài sản nhằm mang lại lợi ích cho chủ nợ một cách cao nhất. Còn có trường hợp, khi xét người lao động là chủ nợ, thì quản tài viên còn là đại diện cho người lao động nhằm thu hồi các khoản nợ như là tiền công, bảo hiểm, tiền lương… Quản tài viên sẽ là đại diện cho con nợ, đứng ra đàm phán với chủ nợ, nhằm thỏa thuận phương án phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời giúp con nợ vượt qua tình trạng khó khăn để có thể thanh toán các khoản nợ, tiếp tục duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh. Quản tài viên giúp cho việc phá sản của các doanh nghiệp diễn ra một cách trật tự, hòa bình, đảm bảo lợi ích cho các bên. Thứ ba, Hoạt động của Quản tài viên là hoạt động nghề nghiệp, mang tính chuyên nghiệp cao Như đã nêu trên, nếu như ở Luật phá sản năm 1993 và Luật phá sản năm 2004, hoạt động của Tổ quản lý và thanh lý tài sản vừa mang tính quyền lực nhà nước, vừa mang tính xã hội, do các thành viên đại diện cho nhiều cơ quan, tổ chức thực hiện, phục vụ mục tiêu của Nhà nước là nhằm giải quyết việc phá sản có hiệu 12
  18. quả, bảo đảm tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của chủ nợ, con nợ, người lao động. Tuy nhiên, thực tiễn thi hành Luật Phá sản năm 1993 và 2004 cho thấy, do Luật không xác định rõ trách nhiệm của từng thành viên đã dẫn đến tình trạng đùn đẩy, né tránh trách nhiệm, việc thực hiện các thủ tục pháp lý do Tổ thực hiện thường bị chậm trễ, hiệu quả thấp. Với việc sửa đổi một mô hình quản lý và thanh lý tài sản mới, Luật phá sản 2014 quy định chủ thể với chức danh là Quản tài viên đã mang lại một “luồng gió mới” phù hợp với hoạt động quản lý, thanh lý tài sản vốn có đặc điểm vừa mang tính pháp lý, vừa mang tính kinh tế. Bỏ đi những cái “cứng nhắc, khô khan, cũ kĩ” giúp cho hoạt động quản lý và thanh lý tài sản diễn ra hiệu quả hơn. Không chỉ được giao phó nhiệm vụ, quyền hạn, Quản tài viên còn phải đáp ứng được yêu cầu về thời gian, kinh nghiệm công tác, phải mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp theo quy định của pháp luật. Tính chuyên nghiệp cao trong hoạt động của Quản tài viên còn được thể hiện bởi pháp luật có quy định chặt chẽ, toàn diện về nguyên tắc hành nghề, trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ của Quản tài viên, đặc biệt quy định những hành vi bị nghiêm cấm, trách nhiệm pháp lý của Quản tài viên trong hành nghề quản lý, thanh lý tài sản. Có thể nói, với những quy định về Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản, Luật Phá sản năm 2014 đã tạo ra một nghề nghiệp mới - nghề quản lý và thanh lý tài sản ở Việt Nam, thêm một nội dung hoạt động vốn thuộc chức năng của Nhà nước đã được xã hội hóa. Thứ tư, Hoạt động quản lý, thanh lý tài sản do Quản tài viên thực hiện là hoạt động dịch vụ,mang tính kinh tế. Như đã nêu trên, Quản tài viên là thiết chế cá nhân, vừa là đại diện cho con nợ, vừa đại diện cho chủ nợ lại vừa đại diện cho Nhà nước, do vậy khi tham gia giải quyết phá sản của một doanh nghiệp Quản tài viên ngoài việc được hỗ trợ các chi phí nhằm thực hiện hoạt động quản lý, thanh lý tài sản như tiền tàu xe, lưu trú và các chi phí hợp lý khác thì mục đích Quản tài viên hướng tới chính là lợi ích vật chất, tức là thù lao. Thù lao của Quản tài viên được chi trả từ sản nghiệp của doanh nghiệp, hợp tác xã dựa trên cơ sở thời gian, công sức, kết quả thực hiện nhiệm vụ Quản tài viên, ( theo Khoản1, Điều 24 Luật Phá sản năm 2014) và được xác định bằng nhiều phương thức như: Căn cứ vào giờ làm việc của Quản tài viên, 13
  19. thỏa thuận mức thù lao trọn gói hoặc mức thù lao tính theo tỷ lệ phần trăm tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản thu được sau khi thanh lý. Tuy nhiên, dù xác định theo phương thức nào thì thù lao cũng phải bảo đảm tương xứng với thời gian, công sức và kết quả lao động của Quản tài viên. Như vậy, giá trị sức lao động của Quản tài viên được xác định trên cơ sở giá cả thị trường và mục đích của hoạt động cung cấp dịch vụ này là lợi ích kinh tế. Đối với Tổ quản lý và thanh lý tài sản, do thành viên hầu hết là đại diện các cơ quan Nhà nước, hưởng lương từ ngân sách nhà nước, trong quá trình tham gia hoạt động quản lý, thanh lý tài sản họ vẫn thực hiện nhiệm vụ thường xuyên nơi công tác,vì vậy mức thù lao họ được hưởng từ hoạt động quản lý, thanh lý tài sản chỉ mang tính “hỗ trợ”, không được xác định trên cơ sở giá cả thị trường, nhìn chung mức chi thấp, không phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội thực tế và không tương xứng với công sức nên không động viên, khích lệ được họ tích cực thực hiện nhiệm vụ quản lý, thanh lý tài sản. Thứ năm, điều kiện để trở thành chủ thể quản lý, thanh lý tài sản được quy định chặt chẽ. Chủ thể quản lý, thanh lý tài sản phải là người có uy tín và có sự tin cậy từ xã hội và cả hệ thống tòa án. Mỗi quốc gia khác nhau sẽ có những quy định khác nhau về điều kiện của chủ thể quản lý tài sản phá sản. Tuy nhiên, ở bất kì mỗi quốc gia nào, để trở thành chủ thể quản lý, thanh lý tài sản phá sản đòi hỏi có trình độ chuyên môn cũng như nghiệp vụ chuyên sâu về quản lý tài sản doanh nghiệp, am hiểu về lĩnh vực tài chính, kế toán, kinh tế…, bởi khi thực hiện nhiệm vụ của mình, chủ thể quản lý và thanh lý tài sản có những nhiệm vụ yêu cầu chuyên môn cao như định giá tài sản, lập bản kê biên tài sản; quản lý tài sản, tài liệu, sổ kế toán doanh nghiệp nhằm đáp ứng yêu cầu chính xác, nhanh chóng, chuyên nghiệp trong việc thực hiện quản lý, thanh lý tài sản phá sản, tránh khỏi sự phức tạp, mất thời gian khi thực hiện thủ tục phá sản. Đồng thời, chủ thể quản lý tài sản phải có đủ thẩm quyền và năng lực thực thi nhiệm vụ trong quyền hạn của mình. Đặc biệt những chủ thể này phải đảm bảo độc lập, liêm chính giữa các bên. 14
  20. 1.2. Vị trí pháp lý của Quản tài viên trong thủ tục phá sản: Trong vấn đề phá sản của các doanh nghiệp, điều mà mọi đối tượng quan tâm nhất chính là tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Chủ thể quản lý tài sản chính là người đóng vai trò trung tâm ở tất cả các hệ thống của Luật phá sản hiện đại. Chủ thể này giúp duy trì động lực thiết yếu đối với quá trình phá sản hay phục hồi doanh nghiệp thành công. Việc lập nên thiết chế chủ thể quản lý tài sản trong thủ tục phá sản là một nhu cầu tất yếu trong pháp luật phá sản của các quốc gia trên thế giới. Với sự có mặt của chủ thể này trong thủ tục phá sản sẽ nhằm ngăn chặn được việc con nợ cố tình tẩu tán tài sản và theo đó phân chia lợi ích một cách công bằng nhất cho các bên liên quan. Chủ thể quản lý tài sản ở mỗi quốc gia sẽ có những nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau. Tuy nhiên, các chủ thể quản lý đều thể hiện ba vai trò chính: Thứ nhất, kiểm soát và quản lý nghiệp phá sản; thứ hai, thực hiện nhiệm vụ giúp doanh nghiệp phục hồi hoạt động kinh doanh; và thứ ba là thực hiện thanh lý tài sản của doanh nghiệp phá sản. 1.2.1. Vai trò của Quản tài viên trong kiểm soát và quản lý sản nghiệp phá sản: Doanh nghiệp khi lâm vào tình trạng làm ăn thua lỗ, mất kiểm soát và không có khả năng thanh toán và có nguy cơ lâm vào tình trạng phá sản. Một số doanh nghiệp sẽ cho rằng, số tài sản đó sẽ bị kiểm kê và bán thanh lý để trả nợ nên nhìn chung không còn quan tâm đến tài sản nữa. Mặt khác, lại có những doanh nghiệp tìm cách trốn tránh, cố tình cất giấu, tẩu tán tài sản nhằm trục lợi một cách bất chính. Để tránh những rủi ro cho cộng đồng và cho chính ngay cả bản thân doanh nghiệp cần thiết phải có một loại chủ thể đặc biệt có kinh nghiệm, khách quan và trong chừng mực nhất định có quyền hạn để thực hiện việc kiểm soát cũng như áp dụng các biện pháp cần thiết khác để bảo toàn tài sản doanh nghiệp và thực hiện nhiệm vụ thanh lý tài sản của doanh nghiệp khi doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản. Chủ thể quản lý tài sản là cá nhân hoặc tổ chức được cử ra để thực hiện các hành vi quản lý tài sản của doanh nghiệp phá sản. Đây là điều mà Luật phá sản các nước đều thừa nhận bởi xuất phát từ một thực tế là: Khi một doanh nghiệp làm ăn thua lỗ đến mức không còn đủ khả năng tài chính để trang trải các khoản nợ đến hạn, lâm vào tình trạng phá sản đã chứng minh doanh nghiệp đó không còn khả năng điều hành cũng như tạo niềm tin cho việc quản lý doanh nghiệp. 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2