intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khóa luận tốt nghiệp: Năng lực bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân theo pháp luật Dân sự Việt Nam

Chia sẻ: Phucuong Nguyen | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:61

528
lượt xem
98
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Khóa luận tốt nghiệp: Năng lực bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân theo pháp luật Dân sự Việt Nam hướng tới làm rõ các quy định của pháp luật về năng lực bồi thường thiệt hại của cá nhân trong từng trường hợp cụ thể. Trên cơ sở đó đưa ra những kiến nghị để hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp: Năng lực bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân theo pháp luật Dân sự Việt Nam

  1. Kho¸ luËn tèt nghiÖp Lª ThÞ HuyÒn MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Quyền yêu cầu người khác bồi thường thiệt hại do hành vi sai trái của   người  gây thiệt  hại  (về  tài  sản, sức  khỏe…..)  cho bản thân mình là một  quyền được áp dụng có tần suất lớn nhất trong các quyền về  yêu cầu bồi   thường thiệt hại quy định bởi luật dân sự  tại xã hội hiện đại. Tại Nhật, số  vụ  yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại do hành vi sai trái (bồi thường thiệt hại  ngoài hợp đồng (BTTHNHĐ)) chiếm 61% trong tổng số  vụ  việc tranh chấp   dân sự. Con số này nói lên mức độ quan trọng của quyền yêu cầu bồi thường   thiệt hại do hành vi sai trái trong đời sống dân sự.  Khi nghiên cứu về  hệ  thống pháp luật Dân sự  Việt Nam  Ông John   Gillespie  giáo sư  thỉnh giảng của Trường Đại học Luật Deakin ­ một trong   những trường Đại học Luật danh tiếng của Úc  đã nhận định rằng: “Người  dân Việt Nam không biết đến quyền yêu cầu nhà sản xuất, nhà cung cấp dịch   vụ  bồi thường thiệt hại cho mình do hành vi sai trái của nhà sản xuất nói  riêng và quyền yêu cầu người khác bồi thường thiệt hại do hành vi sai trái   của người đó nói chung”(1).  Ở Việt Nam quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi sai trái tuy   đã được luật hóa tại Bộ  luật dân sự, tại chương “Trách nhiệm bồi thường   thiệt hại ngoài hợp đồng” (từ Điều 604 đến 630 BLDS năm 2005) và một số  văn bản pháp luật dưới BLDS khác. Tuy nhiên, vấn đề xác định năng lực chủ  thể   trong   trách   nhiệm   BTTHNHĐ   luôn   luôn   đặt   ra   cho   các   nhà   làm   luật,  những người thừa hành pháp luật cũng như  các nhà nghiên cứu luật pháp   những vấn đề nan giải khi tiếp cận. .Xuất phát từ  đó tôi chọn đề  tài: “Năng lực bồi thường thiệt hại   ngoài hợp đồng của cá nhân theo pháp luật dân sự  Việt Nam”  để  làm  khoá luận tốt nghiệp. 1
  2. Kho¸ luËn tèt nghiÖp Lª ThÞ HuyÒn (1) Theo bài: Quyền của cá nhân trong thương mại (dân sự) ở Việt Nam: Phân tích dưới phương pháp so sánh )  đăng trên tạp chí Pháp luật quốc tế Đại học Stanford ( Stanford Journal of International Law) số 30 năm 1994 (30 Stan. J   Int’l L. 325) tại các trang 347, 348 và 349 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Hiện nay trên các diễn đàn nghiên cứu luật pháp ở nước ta đã xuất hiện  khá nhiều các bài viết, các công trình nghiên cứu về Trách nhiệm BTTHNHĐ,   như “những vấn đề cơ bản về trách nhiệm BTTHNHĐ trong Bộ luật dân sự”  của Tiến sỹ Lê Mai Anh… Tuy nhiên, đối với vấn đề  về  “Năng lực chủ thể  của cá nhân trong BTTHNHĐ” theo quy định của pháp luật dân sự  Việt Nam   thì còn khá khiêm tốn trong vấn đề nghiên cứu chuyên sâu và có tính khoa học   thực tiễn. 3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu của đề tài Đề tài chỉ đi sâu nghiên cứu quy định về trách nhiệm BTTHNHĐ mà cụ  thể  là “năng lực BTTHNHĐ của cá nhân” mà không đi vào nghiên cứu trách  nhiệm bồi thường theo hợp đồng và   năng lực BTTHNHĐ của các chủ  thể  khác. Đề  tài hướng tới làm rõ các quy định của pháp luật về  năng lực bồi  thường thiệt hại của cá nhân trong từng trường hợp cụ  thể. Trên cơ  sở  đó  đưa ra những kiến nghị để  hoàn thiện các quy định của pháp luật về  vấn đề  này. 4. Phương pháp nghiên cứu đề tài Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác  ­ Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Kết hợp giữa quan  điểm của Chủ  nghĩa duy vật biện chứng và Chủ  nghĩa duy vật lịch sử. Quá   trình nghiên cứu đề  tài tác giả  đã sử  dụng nhiều phương pháp nghiên cứu  như: Phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp  chứng minh. 5. Kết cấu của khóa luận 2
  3. Kho¸ luËn tèt nghiÖp Lª ThÞ HuyÒn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung  của khóa luận gồm hai chương: Chương 1: Khái quát về trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng Chương 2: Năng lực bồi thường thiệt hại của cá nhân theo Bộ luật dân   sự Việt Nam 2005 CHƯƠNG I KHÁI QUÁT VỀ TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ NGOÀI HỢP ĐỒNG 1.1.Khái niệm và các điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự  ngoài hợp   đồng 1.1.1.Khái niệm trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng Xã hội luôn luôn là tổng hoà của các mối quan hệ đa dạng và phức tạp   và cần đến sự điều chỉnh của pháp luật. Chính từ sự đa dạng và phức tạp của  các quan hệ xã hội nên yêu cầu pháp luật cũng cần có một cơ chế điều chỉnh   đa dạng và phù hợp, xuất phát từ  đây mà nhiều quan hệ  pháp luật đã ra đời  trong đó có quan hệ về nghĩa vụ dân sự. Trong quan hệ này khi chủ thể tham   gia không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ  đã cam kết kể  cả  thực hiện không đúng nghĩa vụ  do pháp luật quy định  thì phải gánh chịu về  mình những hậu quả  bất lợi. Hậu quả  bất lợi này thể  hiện thông qua việc  giải quyết “trách nhiệm dân sự” giữa người có quyền với người có nghĩa vụ  và được thực hiện theo nguyên tắc bên có hành vi vi phạm và gây ra thiệt hại   sẽ  phải bồi thường. Theo T¹p chÝ d©n chñ vµ ph¸p luËt cña Bé T ph¸p, sè chuyªn ®Ò vÒ Bé luËt d©n sù ViÖt Nam 2005, t¹i phÇn thuËt ng÷ ph¸p luËt d©n sù cã ®a ra kh¸i niÖm vÒ tr¸ch nhiÖm d©n sù nh sau: “Trách nhiệm dân sự  (theo nghĩa rộng) là các biện pháp có tính cưỡng chế  được áp dụng nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu của một quyền dân sự  3
  4. Kho¸ luËn tèt nghiÖp Lª ThÞ HuyÒn bị  vi phạm.  Tr¸ch nhiÖm d©n sù  (theo nghĩa hẹp) là các biện pháp cưỡng   chế áp dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp luật gây ra thiệt hại cho   người khác, người gây ra thiệt hại phải chịu trách nhiệm khắc phục những  hậu quả xấu xảy ra bằng tài sản của mình”.[tr. 249] Các chủ thể  khi tham gia vào quan hệ  pháp luật phải gánh chịu những   hậu quả  bất lợi, họ  phải chịu trách nhiệm dân sự  là do chính những hành vi  sai trái của mình. Hành vi của các chủ thể có thể là vi phạm hợp đồng (không  thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết) hoặc do   hành vi vi phạm pháp luật. Như vậy, trách nhiệm dân sự có thể chia thành hai  loại đó là trách nhiệm dân sự theo hợp đồng và trách nhiệm dân sự ngoài hợp   đồng. Thực tiễn đời sống hàng ngày của chúng ta xảy ra rất nhiều các thiệt  hại về  tài sản, tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân  phẩm của công dân, tài  sản, danh dự, uy tín của tổ  chức. Nguyên nhân dẫn đến những thiệt hại này  rất đa dạng, có thể  là do tác động của các yếu tự  nhiên bên ngoài, tác động  bởi hoàn cảnh khách quan hay hành vi của con người…trong đó phần lớn là  do các hành vi trái pháp luật của con người mang lại. Trước những hành vi  xâm phạm tới các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức được pháp  luật bảo vệ  cho nên nhà nước cần đề  ra những biện pháp để  ngăn chặn và  khắc phục hậu quả. Điều 71 Hiến pháp 1992 của nước ta ghi nhận: “Công  dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính  mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm…”. Thể  chế  hoá các quy định về  vấn  đề   này   của   Hiến   pháp   BLDS   Việt   Nam   2005   tại   Điều   604   đã   quy   định:  “Người nào do lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh   dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm   phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt   hại thì phải bồi thường”. Điều này có nghĩa là một người nào đó gây thiệt  4
  5. Kho¸ luËn tèt nghiÖp Lª ThÞ HuyÒn hại cho người khác thì phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Khi một   người gây thiệt hại cho người khác sẽ làm phát sinh mối quan hệ bồi thường   thiệt hại giữa họ và người bị thiệt hại. Quan hệ bồi thường thiệt hại này phát   sinh từ hành vi trái pháp luật của một bên chủ thể nhưng giữa các bên không   có mối quan hệ  hợp đồng hoặc nếu có, thì vi phạm này không phải là vi  phạm nghĩa vụ  đã cam kết trong hợp đồng, do đó phát sinh trách nhiệm bồi  thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Vậy trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài  hợp đồng là trách nhiệm   phát sinh giữa các chủ  thể  mà trước đó không có   quan hệ hợp đồng hoặc tuy có quan hệ hợp đồng nhưng hành vi vi phạm của   người gây thiệt hại không thuộc về nghĩa vụ chấp hành hợp đồng đã ký kết. Như  vậy, về  cơ  bản thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp   đồng phát sinh không phải từ quan hệ hợp đồng nhưng cũng không thể khẳng  định một cách cứng nhắc rằng trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp  đồng chỉ  phát sinh không phải từ hợp đồng. Nếu khẳng định như  vậy thì sai   lầm, phiến diện và thiếu căn cứ, bởi lẽ  ta không thể  loại bỏ  được khả  năng  nghĩa vụ dân sự ngoài hợp đồng phát sinh xuất phát từ quan hệ hợp đồng giữa  các bên chủ  thể. Ngoài ra, quan hệ  bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng còn  xuất hiện trong rất nhiều trường hợp khác nhau. Ví dụ như quyết định của cơ  quan nhà nước có thẩm quyền,  việc thực hiện công việc không có uỷ quyền,  ngay cả hợp đồng dân sự vô hiệu hay hành vi pháp lý đơn phương cũng có thể  trở  thành nguyên nhân của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng   và còn rất nhiều các trường hợp khác nữa. Qua những phân tích trên có thể  đưa ra khái niệm về  trách nhiệm bồi  thường thiệt hại ngoài hợp đồng như sau: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại   ngoài hợp đồng là trách nhiệm dân sự  phát sinh giữa các chủ  thể  mà trước   đó không có quan hệ hợp đồng hoặc tuy có quan hệ hợp đồng nhưng hành vi   của người gây thiệt hại không thuộc về nghĩa vụ thi hành hợp đồng đã ký kết   giữa các bên. 5
  6. Kho¸ luËn tèt nghiÖp Lª ThÞ HuyÒn 1.1.2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp   đồng Pháp luật nghiêm cấm các hành vi gây thiệt hại đến tài sản, tính mạng,  sức khoẻ… cho công dân một cách bất hợp pháp. Các quyền và lợi ích hợp   pháp của công dân luôn được Nhà nước bảo hộ. Điều 74 Hiến pháp1992 của  Nhà nước CHXHCN Việt Nam quy định: “Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của  Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân phải được   kịp thời xử  lý nghiêm minh…”. Pháp luật quy định những biện pháp buộc  người có hành vi vi phạm pháp luật và gây ra thiệt hại phải có trách nhiệm   trước những hậu quả  mà mình gây ra cho người khác, đó là trách nhiệm bồi   thường thiệt hại. Điều 604 BLDS 2005 quy định:  “Người nào do lỗi cố  ý   hoặc vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài   sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín,   tài   sản  của  pháp  nhân  hoặc  chủ   thể   khác  mà  gây  thiệt  hại  thì   phải  bồi   thường”. Như  vậy, trách nhiệm bồi thường chính là hậu quả  bất lợi về  tài  sản mà người có hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân  phẩm…của người khác phải gánh chịu. Tuy nhiên, để đảm bảo cho quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể  tham gia vào quan hệ  pháp luật dân sự  thì việc quy định trách nhiệm bồi   thường thiệt hại do gây thiệt hại cho người khác không thể xác định một cách   tuỳ  tiện và thiếu căc cứ. Pháp luật dân sự  quy định việc giải quyết vấn đề  bồi thường thiệt hại căn cứ vào các điều kiện nhất định. Điều kiện làm phát  sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chính là những yếu tố  tạo nên cơ  sở  cho việc xác định trách nhiệm bồi thường. Các điều kiện này  phải được xem xét trong mối quan hệ biện chứng, thống nhất và đầy đủ. Trong Bộ luật dân sự 2005 của nước ta không có một quy định nào quy  định cụ thể về các điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại   ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, theo Nghị Quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án   6
  7. Kho¸ luËn tèt nghiÖp Lª ThÞ HuyÒn nhân dân tối cao số 01/2004 NQ/­ HĐTP ngày 28 tháng 4 năm 2004 hướng dẫn  áp dụng một số  quy định của Bộ  luật dân sự  về  bồi thường thiệt hại ngoài  hợp đồng thì có bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại  ngoài hợp đồng: (1) có thiệt hại xảy ra, (2) hành vi gây thiệt hại là hành vi trái  pháp luật, (3) có lỗi của người gây thiệt hại, (4) có mối quan hệ  nhân quả  giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật.  *Có thiệt hại xảy ra Mục đích của việc bồi thường thiệt hại là khôi phục lại, bù đắp lại   những tổn thất cho người bị thiệt hại cho nên nếu không có thiệt hại thì vấn   đề  bồi thường sẽ  không được đặt ra kể  cả  trong trường hợp các điều kiện   khác đã đáp ứng đầy đủ. Từ đây có thể thấy thiệt hại là điều kiện tiên quyết,  bắt buộc phải có của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng để  quyết định xem có phát sinh trách nhiệm bồi thường hay không. “Thiệt hại” theo luật dân sự Việt Nam là những tổn thất thực  tế được   tính thành tiền do việc xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín,  tài sản của tổ chức, cá nhân, tổn thất thực tế ở đây chính là sự giảm sút, mất  mát về lợi ích vật chất, tinh thần hay những chi phí bỏ ra để ngăn chặn, hạn   chế, khắc phục thiệt hại mà người bị thiệt hại phải gánh chịu. Như vậy, xét  từ  bất kỳ  góc độ  nào thì hành vi trái pháp luật và gây ra thiệt hại cũng đều   xâm phạm đến các quan hệ  xã hội được pháp luật bảo vệ, cho nên, những   quy định về bồi thường thiệt hại của pháp luật dân sự đưa ra là hợp lý để kịp   thời ngăn chặn những hành vi gây thiệt hại và buộc những người đã thực   hiện hành vi gây thiệt hại phải có trách nhiệm bồi thường. Người đã gây ra   thiệt hại thì phải có trách nhiệm bồi thường những tổn thất mà mình gây ra là  hoàn toàn đích đáng nhưng để  có một quyết định giải quyết về  mức bồi  thường thiệt hại thật chính xác và hợp tình, hợp lý thì người có trách nhiệm   giải quyết cần quan tâm đến tính chất của những thiệt hại đã xảy ra. Bởi lẽ,   khi có thiệt hại xảy ra thì thiệt hại này có thể dễ dàng tính toán, quy đổi thành  7
  8. Kho¸ luËn tèt nghiÖp Lª ThÞ HuyÒn tiền nếu đó đơn thuần là những thiệt hại về vật chất. Tuy nhiên thiệt hại xảy   ra có thể  là về  tinh thần, tính mạng, sức khỏe của con người. Bản chất của  hai loại thiệt hại nay mang những đặc điểm riêng biệt, do vậy việc phân chia   và nghiên cứu rõ hai loại thiệt hại này sẽ  giúp cho việc xác định bồi thường   thiệt hại tiến hành được chính xác hơn, thuận tiện hơn. ­ Thứ nhất là thiệt hại về vật chất Điều đầu tiên phải khẳng định rằng thiệt hại về  vật chất là thiệt hại  có thể tính toán, định lượng ra tiền được. Theo thông tư 173 UBTP/TANDTC   ngày 23/3/1997 thì thiệt hại về vật chất (tài sản) là sự  mất mát, giảm sút về  một lợi ích vật chất có thể  tính toán được bằng tiền, bao gồm các khoản:   Những hư  hỏng, mất mát về  tài sản, những chi phí bỏ  ra để  sửa chữa và   những thu nhập bị mất do bị thiệt hại.  Ghi nhận sự thiệt hại về vật chất (tài sản) BLDS 2005 đã quy định rõ   thiệt được bồi thường do tài sản bị xâm phạm. Theo lôgic thì thiệt được bồi  thường cũng chính là thiệt hại mà người bị thiệt hại phải gánh chịu, bao gồm:  1. Tài sản bị mất; 2. Tài sản bị huỷ hoại hoặc bị hư hỏng; 3. Lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản; 4. Chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại Và các thiệt hại trên muốn được bồi thường thì phải thoả  mãn một số  điều  kiện: sự thiệt hại phải chắc chắn, thực tế và chưa được bồi thường.  Thiệt hại phải chắc chắn nghĩa là người bị thiệt hại phải đưa ra được  những thiệt mà mình phải gánh chịu và những thiệt hại đó có thể  tính toán   được. Thiệt hại đó phải thực tế  tuy nhiên tính thực tế  của thiệt hại được  biểu hiện không nhất thiết phải là thiệt hại đã xảy ra bởi lẽ  một thiệt hại   trong tương lai (thiệt hại gián tiếp) cũng được coi là có tính thực tế nếu chắc  chắn rằng nó sẽ xảy ra và có thể ước lượng trước được. Do vậy mà hậu quả  tương lai của một thiệt hại thực tế cũng có thể được xem xét để định ra mức   8
  9. Kho¸ luËn tèt nghiÖp Lª ThÞ HuyÒn bồi thường. Đương nhiên một thiệt hại không chắc chắn và chỉ mang tính giả  định thì không thể được xem xét để bồi thường.  Qua những phân tích trên cho thấy khi tính toán đến thiệt hại nhà làm   luật không chỉ  tính đến những thiệt hại trực tiếp xảy ra mà còn tính đến cả  những thiệt hại gián tiếp. Nhưng khi tính đến những thiệt hại gián tiếp cần  phải xem xét thật kỹ mối quan hệ giữa thiệt hại gián tiếp với những thiệt hại  trực tiếp đã xảy ra. Liên quan đến việc xác định bồi thường thiệt hại thì việc thiệt hại đã  được đền bù chưa cũng là một vấn đề phức tạp để. Hiển nhiên nếu một thiệt   hại đã được bồi thường rồi thì người bị thiệt hại không thể khởi kiện để đòi  bồi thường một lần nữa. Song trên thực tế để xác định xem một thiệt hại đã   được bồi thường chưa không đơn giản chút nào. Vấn đề  được đặt ra trong   trường hợp bảo hiểm.  BLDS Việt Nam quy định về quan hệ bảo hiểm gồm có ba loại gồm có  bảo hiểm trách nhiệm dân sự, bảo hiểm tính mạng và bảo hiểm tài sản. Đối với quan hệ bảo hiểm trách nhiệm dân sự nếu nạn nhân ­ người bị  thiệt hại đã được công ty bảo hiểm bồi thường thì không thể kiện người gây  ra thiệt hại để đòi bồi thường thêm một lần nữa vì khi công ty bảo hiểm bồi   thường cho nạn nhân là họ đã đại diện cho người gây ra thiệt hại. Vấn đề sẽ  trở  nên phức tạp hơn trong trường hợp bảo hiểm tính mạng và bảo hiểm tài  sản. Khi có thiệt hại xảy ra người đựơc bảo hiểm đã được công ty bảo   hiềm bồi thường rồi thì có được tiếp tục yêu cầu người gây ra thiệt hại bồi   thường nữa không? Và số  tiền mà công ty bảo hiểm đã chi trả  cho người   được bảo hiểm có phải là một khoản bồi thường thiệt hại hay không?  Số tiền mà công ty đã chi ra cho người bị thiệt hại thì công ty có quyền  đòi người gây ra thiệt hại phải thanh toán cho mình số  tiền đó không? Điều   này đã được giải quyết theo Điều 577 của BLDS 2005 về  chuyển yêu cầu  9
  10. Kho¸ luËn tèt nghiÖp Lª ThÞ HuyÒn hoàn trả:  “Trường hợp người thứ  ba có lỗi mà gây thiệt hại cho bên được   bảo hiểm và bên bảo hiểm đã trả  tiền bảo hiểm thì bên bảo hiểm có quyền   yêu cầu người thứ  ba hoàn trả  khoản tiền mình đã trả”.  Cũng theo quy định  của điều luật này thì người được bảo hiểm có quyền yêu cầu bồi thường   thêm khoản chênh lệch mà người bảo hiểm hoặc người gây thiệt hại bồi   thường. ­ Thứ hai là thiệt hại về tinh thần Không có một khái niệm nào đựơc đưa ra giải thích thế  nào là “thiệt hại  về tinh thần” chúng ta chỉ có thể hiểu một cách khái quát thiệt hại tinh thần là  sự  xâm phạm vào các giá trị  tinh thần, tình cảm như  là sự  mất danh dự, tạo   nên những đau thương…Pháp luật dân sự  không có một quy định nào cụ  thể  về  vấn đề  này, khoản 3 Điều 307 quy định một cách khái quát: “Người gây   thiệt hại tính thần cho người khác do xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ,   danh dự, nhân phẩm, uy tín của người đó thì ngoài việc phải chấm dứt hành   vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai còn phải bồi thường một khoản tiền   để bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị hại”.  Bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị  xâm phạm là vấn  đề nhạy cảm và phức tạp, bởi vì những thiệt hại về tinh thần là những thiệt   hại phi vật chất không thể cân, đo, đong, đếm được, cũng không có một công  thức chung để  quy ra tiền áp dụng cho các trường hợp. Suy cho đến cùng  những bù đắp về  tình thần chỉ mang tính chất an ủi, động viên đến người bị  thiệt hại mà thôi. Có thể nói đây là một vấn đề  khó, cho đến nay về  cơ  bản  các nhà làm luật vẫn chưa ban hành được văn bản hướng dẫn cụ thể về vấn   đề này. Nói về thiệt hại tính thần có hai quan điểm khác nhau về vấn đề bồi   thường: quan điểm thứ nhất cho rằng thiệt hại về tinh thần là thiệt hại không  thể bù đắp được vì thiệt hại về tinh thần như mất đi người thân, tình cảm bị  xúc phạm… những tổn thất này đều vô giá không thể  quy đổi ra thành tiền   được, quan điểm thứ  hai lại cho rằng thiệt hại dù là vật chất hay tinh thần   10
  11. Kho¸ luËn tèt nghiÖp Lª ThÞ HuyÒn đều phải bồi thường vì những thiệt hại tính cho đến cùng thì cũng chỉ  mang  tính tương đối mà thôi. Ngay cả  thiệt hại về  vật chất nói là có thể  tính ra  thành tiền được nhưng mọi sự  đền bù cũng chỉ  mang tính khắc phục, sửa   chữa làm sao có thể  để  nó trở  lại nguyên gốc của trạng thái ban đầu như  trước khi chưa bị thiệt hại. Mỗi một quan điểm đều có cách luận giải riêng   của mình nhưng giả sử ta cho rằng quan điểm thứ nhất là hợp lý thì chẳng lẽ  người bị  gây hại phải đương nhiên gánh chịu những tổn thất do người khác  gây ra cho mình hay sao? Như  vậy phải chăng là quá thiệt thòi cho người bị  gây hại, mà người có lỗi thì lại không phải gánh vác một trách nhiệm gì cả.  Theo  quan điểm hai sẽ hợp lý hơn, dù rằng những thiệt hại về tinh thần tuy   là khó có thể tính toán được nhưng xét trên một phương diện nào đó thì việc  được đền bù phần nào sẽ an ủi người bị hại và cũng là cơ hội cho người gây  ra thiệt hại chuộc lỗi. Mặt khác nếu xem xét một cách khoa học thì bên cạnh  sự  biểu hiện vô hình của những thiệt hại về tinh thần làm cho mọi tính toán  thiệt hại trở  nên khó khăn vẫn còn một số  căn cứ  có thể  tính toán được để  buộc người gây ra thiệt hại phải bồi thường cho người bị hại. Đây là những   thiệt hại phát sinh từ những tổn thất về tinh thần (ví dụ như thu nhập bị mất   vì phải nghỉ  việc, chi phí để  thay đổi môi trường sống và sinh hoạt). BLDS   2005 cũng đã quy định việc bồi thường thiệt hại tinh thần tại các điều: Điều  609, Điều 610, Điều 611 nhằm đảm bảo quyền lợi chính đáng của công dân.  Đó là những thiệt hại phần nào còn tính toán được còn những thiệt hại thuần   tuý về tính thần không thể tính toán được thì sự bù đắp chỉ là tượng trưng, vì  vậy cơ quan có thẩm quyền khi giải quyết vụ việc cần phải thận trọng để có  thể  đưa ra một quyết định thật sự  thoả  đáng. Một điểm cần lưu ý về  thiệt  hại tinh thần, đây là những thiệt hại gắn liền nhân thân của người bị  hại và  không thể  chuyển giao quyền yêu cầu bồi thường  thiệt hại do  đó chỉ  có   người bị thiệt hại mới có quyền hưởng bồi thường. Tuy nhiên đối với người   gây ra thiệt hại thì khác, nếu người gây ra thiệt hại chết mà không thực hiện  11
  12. Kho¸ luËn tèt nghiÖp Lª ThÞ HuyÒn được nghĩa vụ  về  tài sản của mình thì theo quy định của khoản 1 Điều 173   “Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ  về  tài sản   trong phạm vi di sản do người chết để  lại, trừ  trường hợp có thỏa thuận   khác”. *Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật Quyền được bảo vệ  tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, tài sản là  quyền tuyệt đối của mọi công dân, tổ  chức. Mọi người đều phải tôn trọng  những quyền đó của chủ thể khác và không được thực hiện bất cứ một hành  vi nào xâm phạm đến các quyền đó. Theo đó Điều 604 của BLDS 2005 có thể  được hiểu là: hành vi trái pháp luật là hành vi xâm phạm đến  tính mạng, sức  khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín , tài sản của cá nhân, pháp nhân hoặc các  chủ thể khác. Việc xâm phạm và gây thiệt hại có thể là hành vi trái pháp luật   hình sự, hành chính, dân sự, kể  cả  đường lối chính sách của Đảng,   Nhà  nước, các quy tắc sinh hoạt trong từng cộng đồng dân cư. Có nghĩa là để  coi  là hành vi trái pháp luật thì bắt buộc là hành vi đó phải vi phạm một quy định   pháp luật cụ  thể. Đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng   thì hành vi vi phạm bất cứ  quy  định của luật nào mà xâm phạm đến các   quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức thì hành vi đó là trái pháp luật. Hành vi trái pháp luật có thể  là hành vi xâm phạm đến các quyền tài  sản hoặc các quyền nhân thân. Khi xâm phạm đến các quyền về  tài sản có   nghĩa là xâm phạm đến các quyền về sở hữu, các quyền khác về vật còn xâm   phạm đến các quyền nhân thân có nhiều biểu hiện khác nhau như xâm phạm   đến đời tư, gây thiệt hại về  tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy   tín… Là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt   hại ngoài hợp đồng, hành vi gây thiệt hại phải trái pháp luật, như  vậy nếu  hành vi có gây ra thiệt hại nhưng không trái pháp luật thì trách nhiệm bồi  thường sẽ  không đặt ra. Trên thực tế có nhiều trường hợp chủ thể đã gây ra  thiệt hại nhưng hành vi gây ra thiệt hại không phải là vi phạm pháp luật mà là   12
  13. Kho¸ luËn tèt nghiÖp Lª ThÞ HuyÒn hành vi hợp pháp nếu hành vi đó được thực hiện theo nghĩa vụ  mà pháp luật  quy định hoặc nghề nghiệp buộc họ phải làm như vậy. Trong các trường hợp  này, trách nhiệm bồi thường không được đặt ra đối với người gây thiệt hại.   Ngoài ra, người gây thiệt hại không phải bồi thường trong trường hợp phòng  vệ  chính đáng, tình thế  cấp thiết hoặc theo yêu cầu của người bị  hại. Tuy   nhiên, nếu vượt quá giới hạn nêu trên thì người gây ra thiệt hại vẫn phải bồi   thường. * Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh khi thiệt  hại xảy ra là do chính kết quả  trực tiếp, tất yếu của hành vi trái pháp luật.  Đây chính là mối quan hệ của sự vận động nội tại, trực tiếp và về nguyên tắc  nguyên nhân phải xảy ra trước kết quả trong khoảng thời gian xác định. Theo   Điều 604 của BLDS thì có thể  thấy hành vi “xâm phạm” đến tính mạng, tài  sản, sức khoẻ…là nguyên nhân và “thiệt hại” là hậu quả của hành vi đó.   Hành vi trái pháp luật là nguyên nhân làm phát sinh thiệt hại cho nên  hành vi đó bao giờ cũng xuất hiện trước thiệt hại. Mối quan hệ nhân quả  là  một vấn đề  phức tạp bởi lẽ  một thiệt hại xảy ra có thể  là do tác động của  một hoặc của nhiều hành vi trái pháp luật và một hành vi trái pháp luật cũng  có thể gây ra nhiều thiệt hại. Trong trường hợp thiệt hại do nhiều nguyên nhân gây ra thì xác định  đâu là nguyên nhân chính hay tất cả đều là nguyên nhân dẫn đến thiệt hại quả  thật là phức tạp.  Ở  đây phải xác định xem hành vi nào là nguyên nhân trực   tiếp dẫn đến thiệt hại. Cũng có nhiều trường hợp thiệt hại xảy ra lại là do  một hành vi trái pháp luật khác xen vào chứ  không phải do hành vi có chứa   đựng khả năng thực tế làm phát sinh gây thiệt hại. (Ví dụ A dùng dao đâm B   bị thương, trên đường đi cấp cứu B lại bị xe của C đâm phải gây trấn thương   sọ  não dẫn đến tử  vong. Kết quả  giám định pháp y cho thấy B chết không  phải là do A đâm vì vết thương  của A đâm vẫn có thể cứu chữa được nếu B  13
  14. Kho¸ luËn tèt nghiÖp Lª ThÞ HuyÒn được cấp cứu kịp thời ( không bị xe của C đâm) ). Như vậy, tuy hành vi của A  có chứa đựng khả  năng gây thiệt hại đến tính mạng của B nhưng khả  năng   này chưa kịp phát huy thì hành vi trái pháp luật của C lại xen vào phá vỡ  đi  khả  năng đó và tạo ra một quan hệ mới và trong quan hệ  này thì hành vi trái  pháp luật của C trực tiếp gây ra thiệt hại về tính mạng cho B. Trường hợp một nguyên nhân có thể gây ra nhiều thiệt hại thì cần phải   xác định rõ xem kết qủa nào là hậu quả  trực tiếp do nguyên nhân là hành vi   trái pháp luật gây ra. Trong trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng chúng ta  biết rằng trái hộ  chỉ  phải bồi thường về  những khoản được coi là hậu quả  trực tiếp của sự  vi phạm. Nguyên tắc này cũng được áp dụng trong trách  nhiệm dân sự ngoài hợp đồng, tuy nhiên, thiệt hại trực tiếp ở đây không nhất   thiết phải là hậu quả ngay lập tức của nguyên nhân gây thiệt hại mà chỉ cần   là  hậu quả tất nhiên của hành vi gây thiệt hại. Tóm lại việc xác định mối quan hệ  giữa nguyên nhân và kết qủa giữa   hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra trong nhiều trường hợp rất phức tạp   và dễ  dẫn đến những sai lầm vì vậy khi xem xét mối quan hệ  này cần hết  sức thận trọng, phải thu thập đầy đủ  các tài liệu và chứng cứ, đánh giá một   cách toàn diện đối với vấn đề đang giải quyết để có thể đưa ra một kết luận  chính xác, xác định đúng người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. * Người gây thiệt hại có lỗi Lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường   thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng và trách nhiệm dân sự  nói chung. Xét về  bản chất lỗi được các ngành luật xác định nhau. Đó là chính là quan hệ  giữa  chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật với xã hội mà nội dung của nó là sự  phủ định những yêu cầu của xã hội đã được thể hiện thông qua các quy định  của pháp luật. Khi một người có đủ nhận thức và điều kiện để lựa chọn cách  xử  sự sao cho xử sự đó phù hợp với pháp luật, tránh được thiệt hại cho chủ  thể khác nhưng vẫn thực hiện hành vi gây thiệt hại thì người đó bị  coi là có  14
  15. Kho¸ luËn tèt nghiÖp Lª ThÞ HuyÒn lỗi. Như vậy, lỗi là trạng thái tâm lý của người có hành vi gây thiệt hại, phản  ánh nhận thức của người đó đối với hành vi và hậu quả của hành vi mà họ đã   thực hiện. Việc áp dụng lỗi làm căn cứ để xác định trách nhiệm được BLDS 2005  quy định tại Điều 308 trong đó nhấn mạnh lỗi là căn cứ phát sinh trách nhiệm  dân sự, trừ trường hợp có thoả  thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.  Điều 308 khoản 2 cũng chia lỗi thành hai loại là lỗi cố ý và lỗi vô ý được quy  định như sau: “Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành  vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn   hoặc tuy không mong muốn nhưng để  mặc cho thiệt hại xảy ra”. Về  mặt   khách quan, quy định này đã dự  liệu trường hợp người gây thiệt hại nhận  thức rõ hành vi của mình sẽ  gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện   cho dù người thực hiện hành vi có thái độ  mong muốn hoặc không mong  muốn nhưng đã có thái độ  để  mặc cho thiệt hại xảy ra. Do vậy, người đó  phải chịu trách nhiệm trước hành vi có lỗi cố  ý của mình. Xét về  mặt chủ  quan, người gây thiệt hại khi thực hiện hành vi luôn nhằm mục đích có thiệt  hại xảy ra cho người khác và được thể hiện dưới hai mức độ  là mong muốn   có thiệt hại xảy ra, hai là không mong muốn thiệt hại xảy ra nhưng lại để  mặc cho thiệt hại xảy ra. Mức độ thể hiện ý chí ­ hành vi của người cố ý gây   thiệt hại trong trường hợp người đó nhận  thức rõ hành vi của mình sẽ  gây  thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện thì phải chịu trách nhiệm bồi   thường. Tại khoản 2, Điều 308 quy định về  khái niệm lỗi vô ý: “Vô ý gây  thiệt hại là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả  năng gây thiệt hại mặc dù phải biết hoặc có thể thấy trước thiệt hại sẽ xảy   ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại nhưng lại cho   rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được”. Người gây thiệt   hại đã không mong muốn, không để  mặc cho thiệt hại xảy ra nhưng đã họ  không kiểm soát được diễn biến của sự kiện do hành vi vô ý của mình tạo ra   15
  16. Kho¸ luËn tèt nghiÖp Lª ThÞ HuyÒn do đó dù là vô ý thì họ cũng phải chịu trách nhiệm trước hậu quả xảy ra. Việc   phân chia thành lỗi vô ý và lỗi cố ý có ý nghĩa như thế nào trong trách nhiệm   dân sự  nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói  riêng? Để  hiểu rõ vấn đề  này ta sẽ  đi vào so sánh lỗi trong trách nhiệm bồi  thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong tương quan với lỗi trong trách nhiệm   hình sự. Trong trách nhiệm hình sự lỗi và mức độ lỗi có một ý nghĩa rất quan  trọng trong việc xác định tội danh và định khung hình phạt nên bắt buộc phải   có sự phân biệt chi tiết các mức độ khác nhau của hình thức lỗi. Nhưng trong  trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì không như  vậy, ngay  Điều 604 của BLDS cũng đã quy định rằng: “Người nào do lỗi cố ý hoặc vô ý   xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản,   quyền và lợi ích khác của cá nhân, xâm phạm đến danh dự, uy tín, tài sản của   pháp nhân hoặc của chủ  thể  khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường” .  Theo điều luật này thì dù là lỗi cố  ý hay lỗi vô ý mà để  thiệt hại xảy ra thì  đều phải bồi thường và mức bồi thường cũng không phụ thuộc vào hình thức   lỗi. Như vậy, dù có sự phân chia thành lỗi cố ý và lỗi vô ý nhưng ý nghĩa của  sự phân chia này thì dường như không tồn tại. Điều này thể hiện rõ trong các  quy  định của BLDS  2005 về  phần bồi thường  thiệt hại ngoài hợp   đồng,  ngoại trừ khoản 2 Điều 615 có nhắc đến lỗi cố ý của người dùng rượu hoặc  chất kích thích khác làm cho người khác lâm vào tình trạng mất khả  năng  nhận thức và làm chủ  được hành vi của họ  mà gây ra thiệt hại thì phải bồi   thường cho người bị thiệt hại. Và khoản 2 Điều 605 quy định về việc người  gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt  hại thì việc phân chia lỗi không được thể  hiện trong các quy định khác của   mục này. Tóm lại vấn đề hình thức lỗi, mức độ lỗi trong trách nhiệm bồi thường  thiệt hại ngoài hợp đồng ảnh hưởng rất ít đến việc xác định trách nhiệm bồi  16
  17. Kho¸ luËn tèt nghiÖp Lª ThÞ HuyÒn thường, thậm chí chủ thể còn phải bồi thường cả trong trường hợp không có  lỗi (khoản 3 Điều 623). Khi đi nghiên cứu “lỗi” trong mối quan hệ là một trong bốn điều kiện  của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì một vấn đề  quan  trọng được đặt ra là việc xác định đúng mức độ lỗi của các bên trong quan hệ  này để đưa ra một quyết định bồi thường chính xác và thỏa đáng. Bởi lẽ trong   rất nhiều trường hợp việc xác định lỗi là rất phức tạp và gây không ít khó  khăn như trong các trường hợp lỗi hỗn hợp hoặc lỗi lại là của người bị thiệt  hại. Thứ  nhất là trường hợp lỗi hỗn hợp nghĩa là cả  người gây thiệt hại và   người bị thiệt hại đều có lỗi trong việc để thiệt hại xảy ra. Điều 617 có quy  định về trường hợp bồi thường thiệt hại trong trường hợp người b ị thiệt h ại   có lỗi: “Khi người bị thiệt hại cũng có lỗi trong việc gây thiệt hại thì người   gây thiệt hại chỉ  phải bồi thường phần thiệt hại tương  ứng với mức độ  lỗi   của mình”, trong điều luật này có nhắc đến “mức độ” lỗi do vậy việc xác  định trách nhiệm bồi thường trong trường cả hai bên đều có lỗi thì mỗi bên  phải chịu trách nhiệm tương  ứng với mức độ  lỗi của mình. Tuy nhiên, trong  BLDS 2005 của nước ta lại không có quy định về mức độ lỗi, vậy đâu là căn   cứ  để  xác định mức độ  lỗi cho từng bên? Việc xác định mức độ  lỗi cũng  được đặt ra trong trường hợp bồi thường thiệt hại do nhiều người cùng gây  ra, nhưng trong trường hợp này có phần đơn giản hơn vì theo quy định của   luật nếu không xác định được mức độ  lỗi thì bồi thường thiệt hại theo phần   bằng nhau. Thứ  hai là trường hợp lỗi hoàn toàn thuộc về  người bị thiệt hại.   Điều 617 của BLDS quy định rất rõ ràng: “Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do   lỗi của người bị  thiệt hại thì người gây thiệt hại không phải bồi thường” .  Nhưng hiểu thế nào về trường hợp người bị thiệt hại hoàn toàn có lỗi, và lỗi   ở đây là lỗi vô ý hay lỗi cố ý và việc phân chia ra hai hình thức lỗi có ý nghĩa  gì không? Có thể  nêu ra một số  vấn đề  sau khi đi xác định lỗi của người bị  thiệt hại: 17
  18. Kho¸ luËn tèt nghiÖp Lª ThÞ HuyÒn Nếu người bị thiệt hại có lỗi hoàn toàn trong việc để thiệt hại xảy thì   dù đó là lỗi cố ý hay là lỗi vô ý mà người gây thiệt hại không có lỗi thì người   gây thiệt hại không phải bồi thường. Người gây thiệt hại có lỗi vô ý và người bị thiệt hại có lỗi cố  ý trong   việc để thiệt hại xảy ra thì người gây thiệt hại cũng không phải bồi thường. Như  vậy, vấn đề  hình thức lỗi và mức độ  lỗi không có ý nghĩa trong  việc xác định trách nhiệm bồi thường nếu lỗi đó là hoàn toàn thuộc về người   bị thiệt hại và đương nhiên người gây thiệt hại không phải bồi thường. Việc pháp luật quy định vấn đề lỗi thuộc về người bị thiệt hại đã loại   trừ  trách nhiệm của người gây thiệt hại. Do đó, người gây thiệt hại muốn   giải thoát trách nhiệm thì phải chứng minh mình không có lỗi hoặc thiệt hại  xảy ra hoàn toàn là do lỗi của người bị thiệt hại (Điều 606 BLDS 2005). Bàn về  vấn đề  lỗi ta thấy việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt  hại không chỉ đặt ra với chủ thể có lỗi trực tiếp gây ra thiệt hại mà còn đặt ra  việc xác định trách nhiệm của người không trực tiếp gây ra thiệt hại để  quy  trách nhiệm bồi thường cho chính họ. Đó là trường hợp lỗi của người giám  hộ, người đỡ đầu, người quản lý và lỗi của pháp nhân trước hành vi trái pháp  luật do người của pháp nhân gây ra. 1.1.3. Phân biệt trách nhiệm dân sự  ngoài hợp đồng và trách nhiệm dân   sự theo hợp đồng Theo quy định của pháp luật dân sự  thì trách nhiệm dân sự  được chia   thành hai loại là trách nhiệm dân sự  ngoài hợp đồng và trách nhiệm dân sự  theo hợp đồng. Trách nhiệm dân sự theo hợp đồng là trách nhiệm phát sinh do   một bên đã không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ  nghĩa vụ  mà các bên đã cam kết trong hợp đồng. Điều cơ  bản nhất để  hình thành nên   loại trách nhiệm này là giữa các bên phải có quan hệ hợp đồng, hợp đồng đó   18
  19. Kho¸ luËn tèt nghiÖp Lª ThÞ HuyÒn phải có hiệu lực và thiệt hại xảy ra phải là do hành vi không thực hiện, thực   hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ của hợp đồng. Tuy có những điểm giống nhau nhất định vì cùng là trách nhiệm dân sự  nhưng giữa hai loại trách nhiệm này cũng có những điểm khác nhau căn bản:   Về cơ sở phát sinh: trách nhiệm dân sự theo hợp đồng chỉ phát sinh khi  có sự hiện diện của một hợp đồng, loại trách nhiệm này phát sinh do hành vi  không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ  nghĩa vụ  của hợp  đồng. Trong khi đó, trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng phát sinh từ một hành  vi cố ý hoặc vô ý gây thiệt hại cho người khác và hành vi đó không liên quan   đến bất kỳ một hợp đồng nào có thể có giữa người gây thiệt hại và người bị  thiệt hại. Khi thực hiện trách nhiệm dân sự  ngoài hợp đồng người gây thiệt hại  phải bồi thường toàn bộ thiệt hại cả thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp   (nếu có), còn trong trách nhiệm theo hợp đồng thì người gây thiệt hại chỉ phải  bồi thường những thiệt hại trực tiếp và những thiệt hại có thể tiên liệu trước  khi ký kết hợp đồng. Việc thực hiện nghĩa vụ  bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng sẽ  làm  chấm dứt nghĩa vụ  giữa các bên, trong khi đó việc thực hiện nghĩa vụ  bồi  thường thiệt hại theo hợp đồng thì nghĩa vụ  của người gây thiệt hại chưa   chắc đã chấm dứt. Trong trách nhiệm dân sự  theo hợp đồng trách nhiệm chỉ  phát sinh do  lỗi cố  ý hoặc vô ý của người không thực hiện, thực hiện không đúng hợp   đồng trừ  trường hợp pháp luật có quy định khác hoặc giữa các bên có thỏa  thuận khác, còn trong trách nhiệm dân sự  ngoài hợp đồng thì ngay cả  trong  trường hợp không có lỗi thì vần phải bồi thường theo quy định của pháp luật   (Khoản 2 Điều 604 BLDS 2005). Một điểm khác nữa giữa hai loại trách nhiệm này là những người gây  thiệt hại ngoài hợp đồng đa phần phải chịu trách nhiệm liên đới nếu có đủ  19
  20. Kho¸ luËn tèt nghiÖp Lª ThÞ HuyÒn các điều kiện mà luật định, còn trong trách nhiệm theo hợp đồng trách nhiệm  liên đới chỉ đặt ra nếu có thỏa thuận trước. Khi ta đi so sánh hai loại trách nhiệm này có điểm cần phải lưu ý là  không phải giữa hai bên có quan hệ hợp đồng thì mọi thiệt hại gây ra đều đưa  đến trách nhiệm theo hợp đồng và ngược lại trách nhiệm ngoài hợp đồng chỉ  phát sinh khi giữa hai bên hoàn toàn không có quan hệ hợp đồng, đặc biệt cần   phải  phân biệt  rõ về  thời   điểm phát sinh trách nhiệm giữa  hai loại trách  nhiệm này để  xác định rõ đâu là trường hợp bồi thường thiệt hại theo hợp   đồng và đâu là bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng: trong bồi thường thiệt   hại theo hợp đồng thì trách nhiệm phát sinh kể từ thời điểm hợp đồng có hiệu  lực và có bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, còn trong quan hệ bồi thường thiệt  hại ngoài hợp đồng trách nhiệm phát sinh kể từ thời điểm xảy ra hành vi gây  thiệt hại. Mặt khác, phân định hai loại trách nhiệm này còn có ý nghĩa để xác   định chủ  thể  phải bồi thường. Thông thường trách nhiệm dân sự  theo hợp   đồng thì người tham gia hợp đồng phải chịu trách nhiệm còn trách nhiệm dân  sự ngoài hợp đồng có thể do người đại diện, giám hộ chịu trách nhiệm. 1.2. Cá thể hóa trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. 1.2.1. Khái niệm cá thể hóa trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng Khi có thiệt hại xảy ra thì bên cạnh việc xác định mức độ  thiệt hại,  cùng các điều kiện cấu thành trách nhiệm của người gây thiệt hại thì việc xác  định rõ ai là người phải đứng ra gánh vác trách nhiệm và thực hiện việc bồi  thường để đảm bảo quyền lợi cho người bị hại là một vấn đề rất quan trọng.  Cơ  quan tòa án có thẩm quyền khi nhận  được đơn kiện yêu cầu đòi bồi   thường thiệt hại cũng phải hết sức thận trọng trong vấn đề này.  Theo cách hiểu một cách chung và khái quát nhất thì ai là người gây ra  thiệt hại thì người đó phải bồi thường. Tuy nhiên điều kiện để trở thành một  chủ thể tham gia vào một quan hệ pháp luật thì người đó phải có đầy đủ năng  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2