intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ CỦA NGƯỜI DÂN CÁC QUẬN PHỤ CẬN TRUNG TÂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VỀ BỆNH ĐỘNG KINH

Chia sẻ: Nguyen Uyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:23

120
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích: Chúng tôi tiến hành một khảo sát để đánh giá kiến thức, thái độ của người dân tại các quận phụ cận trung tâm thành phố Hồ Chí Minh về bệnh động kinh. Phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi tiến hành một cuộc điều tra bằng phương pháp phỏng vấn “mặt đối mặt” dựa vào bộ câu hỏi soạn sẵn tại 4 quận phụ cận trung tâm thành phố Hồ Chí Minh. Một ngàn năm trăm hai mươi người đã được chọn lựa ngẫu nhiên. Những người bị động kinh hoặc gia đình có người bị động...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ CỦA NGƯỜI DÂN CÁC QUẬN PHỤ CẬN TRUNG TÂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VỀ BỆNH ĐỘNG KINH

  1. KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ CỦA NGƯỜI DÂN CÁC QUẬN PHỤ CẬN TRUNG TÂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VỀ BỆNH ĐỘNG KINH TÓM TẮT Mục đích: Chúng tôi tiến hành một khảo sát để đánh giá kiến thức, thái độ của người dân tại các quận phụ cận trung tâm thành phố Hồ Chí Minh về bệnh động kinh. Phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi tiến hành một cuộc điều tra bằng phương pháp phỏng vấn “mặt đối mặt” dựa vào bộ câu hỏi soạn sẵn tại 4 quận phụ cận trung tâm thành phố Hồ Chí Minh. Một ngàn năm trăm hai mươi người đã được chọn lựa ngẫu nhiên. Những người bị động kinh hoặc gia đình có người bị động kinh đã được loại trừ. Kết quả: Chúng tôi đã phỏng vấn 1520 người; 85,79% đã từng nghe nói về bệnh động kinh trước đó. Trong số đó, 75,31% đã từng chứng kiến ít nhất một cơn co giật động kinh và 34,36% có quen biết với người bệnh động kinh. Chỉ có 36% cho rằng bệnh lý não thần kinh là nguyên nhân gây ra bệnh động kinh; 17,87% cho rằng do di truyền; 58,44% chèn vật cứng vào răng khi gặp người bệnh lên cơn co giật để phòng cắn lưỡi; 39% cho rằng bệnh động kinh không thể điều trị bằng thuốc; thuốc là cách duy nhất để điều trị bệnh động kinh chiếm 53,12%; 47,27% cấm con em trong gia đình kết hôn với người bệnh động kinh; 32,1% nghĩ rằng người bệnh động kinh không nên lập gia đình và sinh con; 11,42% phản đối con học cùng trường hoặc chơi chung với trẻ bị động kinh; 33,39% cho rằng người bệnh động kinh có thể làm việc
  2. như người bình thường; 41,94% cho nghỉ việc một người lên cơn động kinh vì không báo trước tình trạng bệnh động kinh của họ; 11,7% cho rằng động kinh là bệnh tâm thần; 73,25% không biết cơ sở khám chữa bệnh động kinh dành cho trẻ em và 68,79% không biết cơ sở khám chữa bệnh đối với bệnh nhân người lớn. Kết luận: nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng kiến thức về bệnh động kinh của người dân các quận phụ cận trung tâm thành phố vẫn còn nhiều hạn chế và thái độ không đúng vẫn còn rất nặng nề. Vì vậy, một chương trình giáo dục sức khỏe thích hợp là điều cần thiết để nâng cao nhận thức và thay đổi thái độ không đúng của cộng đồng về bệnh động kinh. ABSTRACT PUBLIC KNOWLEDGE AND ATTITUDES TOWARD EPILEPSY IN NEAR BY URBAN DISTRICTS IN HO CHI MINH CITY, IN 2008. Tran Ngoc Sau, Tran Diep Tuan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 1 - 2009: 180 - 187 Purpose: We conducted a survey to assess knowledge, attitudes toward epilepsy in a population-based study in four nearby urban districts of Ho Chi Minh City. Methods: We conducted a face-to-face questionnaire interview survey in four near by urban districts of Ho Chi Minh city. One thousand five hundred and twenty people were randomly selected for the interview. Subjects with epilepsy or relatives who had epilepsy were excluded.
  3. Results: We interviewed 1,520 subjects; 85.79% had heard about epilepsy before. Of these, 75.31% had witnessed one or more epileptic seizure and 34.36% knew one or more persons with eppilepsy. Only 36% thought that epilepsy was caused by a brain disease; 17.87% believed that epilepsy is inheritable; 5.44% would put an object into a patient’s mouth during an epilepsy seizure to prevent injury of the tongue; thirty- nine percent of respondents believed that epilepsy is not cures by medicine; 53.12% believed that drug treatment is the only treament modality available for epilepsy; 47.27% would not allow their children to marry persons with epilepsy; thirty-two percent of respondents thought that persons with epilepsy can not be married and have their own children; 11.42% objected to their children playing with those who have epilepsy; 33.39% thought that people with epilepsy should be employed in the same jobs held by people without epilepsy; 41.49% would terminate the employment contract after an epilepsy seizure in an employee with unreported epilepsy; 11.7% believed that epilepsy was a kind of mental disorder; 73.25% subjects didn’t know epilepsy-medical centers for children patients and 68.79% didn’t know epilepsy- medical centers for adult patients. Conclusion: Our study showed that awareness of epilepsy in near by urban districts community is still limited and still remains negative attitudes toward epilepsy. Public health education either through media or school health education is urgently needed to improve knowledge about, and change the attitudes of general public toward epilepsy.
  4. ĐẶT VẤN ĐỀ Động kinh là bệnh thần kinh mãn tính, thường gặp trên thế giới(Error! Reference source not found., Error! Reference source not found.) . Theo WHO, hiện có khoảng trên 50 triệu người mắc bệnh(Error! Reference source not found.). Bệnh phải điều trị kéo dài và cần có sự quan tâm chia sẻ của gia đình và xã hội. Các nghiên cứu trên thế giới cho thấy rằng sự thiếu hụt về kiến thức và thái độ không đúng đối với bệnh động kinh còn chiếm một tỷ lệ khá cao. Người bệnh động kinh đang bị sự kỳ thị và phân biệt đối xử của cộng đồng. Chính thái độ đối xử này làm cho người bệnh khổ sở nhiều hơn do bệnh tật gây ra(Error! Reference source not found., Error! Reference source not found., Error! Reference source not found., Error! Reference source not found., Error! Reference source not found.) . Nghiên cứu về kiến thức, thái độ là bước đầu tiên để loại bỏ sự kỳ thị đó. Tại Việt Nam, mới chỉ có hai công trình nghiên cứu về kiến thức, thái độ của cộng đồng đối với bệnh động kinh tại Nhân Chính(Error! Reference source not found.) (Hà Nội) và Ba Vì(Error! Reference source not found.) (Hà Tây). Tuy hai địa phương khá gần nhau (cách 60km) nhưng kiến thức và thái độ lại khác nhau đáng kể. Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố lớn, với dân số trên 6 triệu người, nhưng chưa có nghiên cứu nào về kiến thức, thái độ của cộng đồng về bệnh động kinh. Với kết quả thu được qua nghiên cứu, chúng tôi hy vọng sẽ góp phần xây dựng một chương trình GDSK cộng đồng về bệnh động kinh phù hợp với từng đối tượng, nhằm từng bước loại bỏ sự kỳ thị, đưa người bệnh hòa nhập với xã hội. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
  5. Mục tiêu nghiên cứu của chúng tôi là: (a). Xác định tỷ lệ các kiến thức và thái độ đúng của người dân tại các quận phụ cận trung tâm thành phố Hồ Chí Minh về bệnh động kinh; (b) Xác định mối liên quan giữa kiến thức, thái độ với một số đặc điểm dân số xã hội (Như tuổi, giới, trình độ học vấn, nghề nghiệp, tình trạng hộn nhân); và (c) Tìm hiểu các nguồn thông tin về bệnh động kinh mà người dân mong muốn được tiếp cận. Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 6 đến tháng 8 năm 2008. Chúng tôi dùng phương pháp phỏng vấn trực tiếp “mặt đối mặt” tại nhà dựa vào bộ câu hỏi soạn sẵn. Cấu trúc bộ câu hỏi gồm 27 câu với các câu hỏi có/không và được bổ sung bằng các câu hỏi mở. Bộ câu hỏi đã được WHO khuyến cáo sử dụng và được áp dụng thành công trong một số nghiên cứu(Error! Reference source not found., Error! Reference source not found., Error! Reference source not found.) , được dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt và ngược lại để đảm bảo tính chính xác trong chuyển ngữ. Nhóm phỏng vấn gồm tác giả và 20 cộng tác viên, là các sinh viên năm 3 và 4 khoa Xã Hội Học, Trường Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn Tp. Hồ Chí Minh. Các thành viên trong nhóm đã được huấn luyện kỹ lưỡng để phục vụ cho nghiên cứu này. Những người bị động kinh hoặc gia đình có người bị động kinh được loại trừ. 1520 người đã được phỏng vấn. Cuộc phỏng vấn sẽ được dừng ngay lập tức nếu như họ không có ý kiến hoặc chưa bao giờ nghe nói về động kinh (hay phong xù, kinh phong) trước đó. Có 1304 người hoàn thành bảng câu hỏi tại 4 quận phụ cận trung tâm là quận 2, quận 6, quận 8 và quận Bình Tân. Đối với mỗi quận được chọn, chúng tôi chọn ngẫu nhiên một người trên 18 tuổi, cư trú tại Tp. Hồ Chí Minh từ 1 năm trở lên dựa vào phương pháp chọn mẫu cụm. Họ sẽ đại diện cho
  6. cộng đồng của 19 quận phụ cận trung tâm thành phố. Số liệu dân số xã hội được thu thập gồm tuổi, giới, trình độ học vấn, nghề nghiệp và tình trạng hôn nhân. Phân tích thống kê được thực hiện với phần mềm Stata 10.0. Kiểm định X2 được sử dụng để xác định mối liên quan giữa các câu trả lời với các đặc điểm dân số xã hội trong phân tích đơn biến. Với các các câu trả lời chung chung như “không biết”, “không rõ” đã được loại khỏi phần phân tích đối với câu đó. Nếu có nhiều yếu tố liên quan, kiểm định hồi quy logistic cũng được thực hiện để xác định yếu tố liên quan độc lập trong phân tích đa biến. Tuổi được chia thành 3 nhóm: từ 18 đến 44; 45 đến 64 và trên 64. Học vấn được chia thành 3 cấp độ: (a) tiểu học hoặc thấp hơn; (b) trung học và (c) trên trung học. Nghề nghiệp được chia thành 3 loại: (a) lao động tay chân; (b) lao động trí óc và (c) không làm gì. Hôn nhân được chia thành (a) độc thân; (b) đã kết hôn. Ngưỡng α được xác lập ở mức có ý nghĩa thống kê là 0,05. KẾT QUẢ Kết quả trả lời các câu hỏi phỏng vấn được tóm tắt từ Bảng 1 đến Bảng 5. Các câu hỏi này được chia thành 5 lĩnh vực: (a) biết về người/bệnh động kinh, (b) hiểu biết về nguyên nhân và triệu chứng bệnh động kinh; (c) hiểu biết về điều trị và quản lý bệnh động kinh; (d) thái độ đối với người bệnh động kinh; (e) niềm tin sai lạc về bệnh động kinh và (g) nguồn thông tin về bệnh động kinh mà người dân mong muốn được tiếp cận. Đặc điểm dân số xã hội trong mẫu nghiên cứu:
  7. Những người trả lời phỏng vấn trong nghiên cứu của chúng tôi, nam chiếm 45% và nữ 55%. Tuổi được phân bố là 60,66%, 33,29%, 6,05% tương ứng với các nhóm tuổi 18 đến 44, 45 đến 64 và trên 64. Tỷ lệ học vấn tiểu học hoặc thấp hơn, trung học và trên trung học tương ứng là 24,08%, 64,21% và 11,71%. Lao động tay chân chiếm đa số với 66,05%, lao động trí óc 18,62% và không làm gì 15,33%. Những người đã kết hôn chiếm 84,14% và độc thân 15,86%. Bảng câu hỏi được phân bố: 10,53% (Quận 2); 21,05% (Quận 6); 31,58% (Quận 8) và 36,84% (Quận Bình Tân). Tỷ lệ này phù hợp với dân số của mỗi quận. Biết về bệnh/ người bệnh động kinh Có ba câu hỏi liên quan đến việc biết về bệnh động kinh là đã từng nghe nói hoặc đọc về bệnh động kinh chưa?; từng chứng kiến một cơn co giật động kinh chưa? và có quen biết ai bị động kinh không? Tám mươi sáu phần trăm số người cho rằng họ đã từng nghe nói hoặc đọc được về bệnh động kinh. Những người từ 45 đến 64, học vấn trên trung học, lao động trí óc có tỷ lệ nghe nói về bệnh động kinh nhiều nhất. Sự khác biệt giữa các nhóm tuổi, giữa trình độ học vấn và giữa các loại nghề nghiệp có ý nghĩa thống kê (X2 test, với p lần lượt là 0,032, 0,001 và 0,003 tương ứng). Trong đó, trình độ học vấn là yếu tố liên quan độc lập (Logistic regression, p=0,001). Trong 86% số người đã từng nghe nói về bệnh động kinh, 75,3% đã chứng kiến ít nhất một cơn co giật động kinh và 34,4% quen biết với người bệnh động kinh. Hiểu biết về bệnh động kinh
  8. Kiến thức về bệnh động kinh được chia thành kiến thức về nguyên nhân và triệu chứng, về điều trị và quản lý bệnh động kinh. Bảng 1: Tóm tắt kết quả các câu hỏi liên quan đến biết người/ bệnh động kinh Câu 1 Câu 2 Câu 3 Có (%) Có (%) Có (%) 85,79 75,31 34,36 Tổng số Tuổi (năm) 18-44 85,68 73,67 33,16 45-64 87,55 78,78 36,34 >64 77,17 71,83 35,21 Giới Nam 86,55 77,03 33,95 Nữ 85,17 73,88 34,69 Học vấn Tiểu học 77,60 76,06 32,75 Trung học 87,19 74,74 35,61
  9. Trên trung học 94,94 76,92 30,77 Nghề nghiệp LĐ tay chân 85,30 75,38 35,23 LĐ trí óc 91,87 74,62 32,31 Không làm gì 82,95 75,63 34,26 hôn nhân Độc thân 86,72 64,59 25,36 Đã kết hôn 85,61 77,35 36,07 Câu 1. Đã từng nghe nói về bệnh động kinh chưa? Câu 2. Đã từng chứng kiến cơn co giật động kinh chưa? Câu 3. Có quen biết người bệnh động kinh không Kiến thức về nguyên nhân và triệu chứng 36% biết nguyên nhân của bệnh là do bệnh lý não thần kinh. Học vấn càng cao và tuổi càng trẻ thì tỷ lệ kiến thức này càng tăng (X2 test, p=0,035 và 0,001 tương ứng), trong đó học vấn là yếu tố liên quan độc lập (logistic regression, p=0,001). Có 17,87% số người trả lời tin rằng động kinh là một bệnh di truyền, 2% cho rằng động kinh là bệnh truyền nhiễm và 91,18% cho rằng biểu hiện chính của mọi cơn động kinh là co giật và sùi bọt mép.
  10. Bảng 2: Tóm tắt các câu hỏi liên quan thái độ Khôngphụ nữ Có thì (%) (%) không(%) Câu 11. Người bệnh động kinh có được5,2 71,3 phép điều khiển các phương tiện giao thông? Chỉ được phép trong23,5 điều kiện hạn chế Câu 12. Phản đối con hoặc người thân trong47,2752,73 gia đình kết hôn với người động kinh? Câu 13. Người bệnh66,8 32,1 1,1 động kinh có nên lập gia đình Câu 14. Người bệnh66,0232,12 1,86
  11. Khôngphụ nữ Có thì (%) (%) không(%) động kinh có nên có con Câu 15. Đồng ý cho con học cùng trường71,4511,42 hoặc chơi chung với trẻ động kinh? Có, khi có người giám17,13 sát Câu 16. Người bệnh33,3921,49 động kinh có nên làm việc? Câu 17. Cho nghỉ việc41,9458,06 vì người bệnh lên cơn động kinh? Câu 18. Nếu trong gia 13,76 đình có người động
  12. Khôngphụ nữ Có thì (%) (%) không(%) kinh, có nên thông báo? Vì cảm thấy xấu hổ 19,88 Vì sợ bị phân biệt đối34,5 xử Bảng 3: Tóm tắt kết quả các câu hỏi liên quan đến hiểu biết về bệnh động kinh Câu Câu Câu 6 Câu Câu Câu Câu 4 5 7 8 9 10 Có Có Có(%) Có Có Có Có (%) (%) (%) (%) (%) (%) Tổng 36,04 17,87 2,05 91,18 61 53,12 58,44 số Tuổi (năm) 18-44 37,72 17,34 2,27 91,90 63,05 47,13 59,87
  13. 45-64 35,21 17,38 1,46 90,74 59,24 46,53 57,56 >64 22,54 26,76 1,12 85,92 49,09 46,38 47,89 Giới Nam 38,68 19,43 2,53 91,72 61,31 48,77 58,61 Nữ 33,85 16,57 1,64 90,73 60,75 45,29 58,29 Học vấn Tiểu 27,82 16,55 1,92 87,32 62,93 47,97 49,65 học Trung 36,31 17,63 2,01 92,24 60,45 45,10 61,46 học Trên 48,52 21,30 2,44 92,31 60,71 53,99 58,44 trung học Nghề nghiệp LĐ 32,31 16,00 1,66 91,23 58,85 45,38 57,38
  14. tay chân LĐ trí 48,85 21,92 1,98 93,85 67,31 53,39 65,77 óc Không33,76 18,27 2,72 89,34 60,13 45,03 55,33 làm gì hôn nhân Độc 41,63 18,18 2,51 89,47 66,87 49,75 61,24 thân Đã kết 34,98 17,81 1,96 91,51 59,86 46,33 57,90 hôn Câu 4. Nguyên nhân bệnh động kinh là do “Bệnh não thần kinh” Câu 5. Nguyên nhân bệnh động kinh là do “ di truyền”. Câu 6. động kinh là bệnh truyền nhiễm. Câu 7. Biểu hiện chính của bệnh động kinh là “Co giật và sùi bọt mép”. Câu 8. Bệnh động kinh có thể điều trị khỏi bằng thuốc? Câu 9. Thuốc có phải là cách duy nhất để điều trị bệnh động kinh? Kiến thức về quản lý và điều trị
  15. Ba chín phần trăm số người cho rằng động kinh không thể điều trị khỏi bằng thuốc và 53,12% cho rằng thuốc là cách duy nhất hiện có để điều trị bệnh động kinh; 58% tin rằng chèn vật cứng vào răng để phòng người bệnh cắn lưỡi trong cơn động kinh (cơn co cứng co giật) là cách giúp đỡ thích hợp. Niềm tin này có liên quan với trình độ học vấn thấp (X2 test, p=0,002). Một điều đáng quan tâm là 14% số người học được điều này từ sách, báo, truyền hình và nhân viên y tế; có tới 71% cho rằng người bệnh động kinh hoàn toàn không được phép điều khiển các loại phương tiện giao thông. Thái độ đối với người bệnh động kinh Bốn bảy phần trăm có thái độ phản đối con hoặc người thân trong gia đình họ kết hôn với người bệnh động kinh. Tuổi lớn (trên 64) và những người đã kết hôn có liên quan với thái độ tiêu cực này (X2 test, p=0,046 và 0,009 tương ứng), trong đó, đã kết hôn là yếu tố liên quan độc lập (logistic regression, p=0,036). Ba hai phần trăm phản đối người bệnh động kinh lập gia đình, 32,12% cho rằng người bệnh động kinh không nên có con. Mười một phần trăm cấm con em họ học cùng trường hoặc chơi chung với trẻ bị động kinh, 17,13% tỏ ra lưỡng lự khi cho rằng “có, nhưng phải có người giám sát”. Không tìm thấy mối liên quan nào giữa thái độ này với tuổi, giới, học vấn, nghề nghiệp và tình trạng hôn nhân. Về việc làm, có 21,49% cho rằng người bệnh động kinh không nên làm việc, 33,39% cho rằng có thể làm việc đơn giản. Tuổi lớn (trên 64), học vấn thấp và không đi làm có liên quan với thái độ tiêu cực về việc làm của người bệnh động kinh (X2 test, p=0,026, p=0,001 và p=0,001 tương ứng). Bốn hai
  16. phần trăm ý kiến cho rằng họ sẽ chấm dứt hợp đồng ngay lập tức với người lên cơn động kinh trong lúc làm việc vì không khai báo trước tình trạng bệnh của họ. Mười bốn phần trăm có chiều hướng giấu giếm chẩn đoán bệnh động kinh của các thành viên trong gia đình họ vì “cảm thấy xấu hổ” (19,88%) và “sợ bị phân biệt đối xử” (34,5%). Khi gặp người thân quen bị động kinh, chỉ có 45,82% khuyên nên đi khám bác sĩ và uống thuốc. Bảng 4:Niềm tin sai lạc vể bệnh động kinh Có % 1. Nguyên nhân động kinh: Do bị thư 0,46 Do bị thần thánh trừng phạt 1,23 2. Động kinh có phải là bệnh tâm11,65 thần? 3. Trí tuệ người bệnh động kinh thấp43,72 hơn bình thường 4. Trẻ bệnh động kinh có cần thiết phải học ở trường đặc biệt 39,31
  17. 5. Người bệnh động kinh có thể gây nguy hiểm cho người khác 11,95 Niềm tin sai lạc Có đến 12% cho rằng động kinh là bệnh tâm thần; 44% tin rằng trí tuệ người bệnh động kinh thấp hơn bình thường. Niềm tin này có liên quan đến những người có học vấn thấp (X2 test, p=0,026); 39% cho rằng trẻ bệnh động kinh cần thiết phải học ở trường đặc biệt và 11,95% tin rằng người bệnh động kinh có thể gây nguy hiểm cho người khác. Tìm hiểu thông tin về bệnh động kinh Nếu muốn tìm hiểu thông tin về bệnh động kinh, có 33,28% chọn cách hỏi trực tiếp nhân viên y tế; 33,67% tìm đọc trên sách báo; 8,74% đặt câu hỏi trực tiếp cho các phương tiện thông tin đại chúng; 7,13% tìm trên internet và đặt biệt, có 13,27% không biết phải tìm hiểu ở đâu. Có đến 73,25% số người vẫn không biết cơ sở khám chữa bệnh động kinh đối với bệnh nhân trẻ em và 68,79% đối với bệnh nhân người lớn. Bảng 5:So sánh với một số nghiên cứu về biết bệnh/ người bệnh động kinh C1 C2 C3 Địa điểm Năm nghiên Có Có Có cứu (%) (%) (%)
  18. Hồng 2002 58 55 18,7 kông(Error! Reference source not found.) Seoul(Error! 2004 92 Reference source not found.) Hà Nội(Error!2006 54 49,2 54,5 Reference source not found.) Hà Tây(Error!2007 67 49 52 Reference source not found.) Jordan(Error! 2007 88 52,4 Reference source not found.) Turkey(Error! 2007 81 53 47 Reference source not found.)
  19. BÀN LUẬN Biết về bệnh/người bệnh động kinh trong nghiên cứu của chúng tôi khác biệt so với một số nghiên cứu trong và ngoài nước. Tỷ lệ nghe nói về bệnh động kinh và chứng kiến cơn co giật động kinh cao hơn các nghiên cứu tại Nhân Chính(Error! Reference source not found.) (Hà Nội) và Ba Vì(Error! Reference source not found.) (Hà Tây). Điều này có lẽ do học vấn trong mẫu nghiên cứu của chúng tôi khá cao với 64,21% có học vấn trung học. Tại Tp. Hồ Chí Minh có đông người đến lập nghiệp, người dân có điều kiện tiếp xúc với nhiều người nên tỷ lệ chứng kiến cơn động kinh cũng cao. Tuy nhiên, tỷ lệ quen biết với người bệnh động kinh lại không cao tương ứng. Có lẽ do cuộc sống tất bật, hối hả hiện nay đã hạn chế các mối giao tiếp cá nhân, cũng có thể do thái độ trả lời tiêu cực vì tâm lý e ngại, không muốn liên quan gì đến người bệnh. Mặc khác, người bệnh động kinh thường có xu hướng hạn chế các mối quan hệ xã hội cũng là một yếu tố góp phần. Về nguyên nhân gây bệnh, chỉ có 36% cho rằng do “bệnh lý não thần kinh”. Tỷ lệ này thấp hơn so với nghiên cứu của Lê Quang Cường(Error! Reference source not found.)và Nguyễn (Error! Reference source not found.) Anh Tuấn (77,8% và 50,4% tương ứng). Việc quá nhấn mạnh đến vai trò của yếu tố di truyền cũng chiếm tỷ lệ khá cao (17,87%). Điều này có thể ảnh hưởng đến thái độ không đúng đối với vấn đề kết hôn và sinh con của người bệnh. Về điều trị và quản lý
  20. Số người cho rằng bệnh động kinh không thể điều trị khỏi bằng thuốc chiếm khá cao (39%). Tỷ lệ này theo nghiên cứu của C.Kwon(Error! Reference source not found.) là 25% và Fong(Error! Reference source not found.) là 48%. Có thể do động kinh là bệnh mãn tính, thời gian điều trị kéo dài, bệnh lại hay tái phát (Error! Reference source not found., Error! Reference source not found., Error! Reference source not found.) . Mặc khác, trong thực tế, có nhiều trường hợp bệnh động kinh không được điều trị hoặc điều trị không thể thích hợp, dẫn đến không thể kiểm soát được bệnh. Do vậy dễ dẫn tới ngộ nhận cho rằng bệnh không chữa khỏi bằng thuốc. Hơn phân nửa số người cho rằng thuốc là cách duy nhất để điều trị bệnh động kinh. Mặc dù hiện nay còn có các phương pháp điều trị khác, đặt biệt là phẫu thuật đã mang lại một số thành công đối với một số thể loại động kinh(Error! Reference source not found.) . Điều này cho thấy còn một lỗ hổng khá lớn kiến thức về điều trị bệnh động kinh trong cộng đồng. Vẫn còn quá nhiều người (58%) nghĩ rằng cách giúp đỡ thích hợp khi gặp người bệnh lên cơn co giật động kinh là chèn vật cứng vào răng. Kiến thức không đúng này chủ yếu được phổ biến bằng cách truyền miệng. Điều này cho thấy các chương trình truyền thông, giáo dục sức khỏe về bệnh động kinh trong cộng đồng chưa được quan tâm đúng mức. Đặt biệt có tới 14% các phương tiện thông tin đại chúng và nhân viên y tế phổ biến cách giúp đỡ không phù hợp này. Thái độ Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng thái độ không đúng của cộng đồng về bệnh động kinh vẫn còn rất phổ biến, đặt biệt là vấn đề kết hôn và sinh con, việc làm của
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2