intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Kiến thức, thực hành nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ sung của bà mẹ đang nuôi con dưới 24 tháng tuổi

Chia sẻ: ViBandar2711 ViBandar2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

90
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu tiến hành nhằm mục tiêu đánh giá kiến thức, thực hành của bà mẹ về nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ sung để từ đó đưa ra các truyền thông hướng dẫn hợp lý để cải thiện sự cách nuôi dưỡng trẻ của các bà mẹ nhằm giúp cho trẻ có một chế độ dinh dưỡng tối ưu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Kiến thức, thực hành nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ sung của bà mẹ đang nuôi con dưới 24 tháng tuổi

  1. tạp chí nhi khoa 2019, 12, 1 KIẾN THỨC, THỰC HÀNH NUÔI CON BẰNG SỮA MẸ VÀ ĂN BỔ SUNG CỦA BÀ MẸ ĐANG NUÔI CON DƯỚI 24 THÁNG TUỔI Lưu Thị Mỹ Thục*, Nguyễn Thị Thúy Hồng, Nguyễn Thị Hằng * Bệnh viện Nhi Trung ương TÓM TẮT Nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ sung hợp lý đảm bảo cho trẻ phát triển toàn diện về thể chất, tâm thần, tăng cường miễn dịch giúp phòng ngừa suy dinh dưỡng, giảm khả năng mắc bệnh nhất là bệnh lý hô hấp - tiêu hóa. Nghiên cứu tiến hành nhằm mục tiêu đánh giá kiến thức, thực hành của bà mẹ về nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ sung để từ đó đưa ra các truyền thông hướng dẫn hợp lý để cải thiện sự cách nuôi dưỡng trẻ của các bà mẹ nhắm giúp cho trẻ có một chế độ dinh dưỡng tối ưu. Phương pháp nghiên cứu là mô tả cắt ngang qua phỏng vấn 250 bà mẹ đang nuôi con nhỏ từ 6-24 tháng tuổi tại phòng khám Dinh dưỡng Bệnh viện Nhi Trung ương. Kết quả nghiên cứu thu được 65,2% bà mẹ hiểu được phải cho con bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu nhưng chỉ có 24% bà mẹ cho con bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu. Có 72,4% bà mẹ biết được thời điểm bắt đầu cho ăn bổ sung nhưng chỉ có 31,2% thực hành đúng và có 68,4% vẫn cho ăn bổ sung sớm. Từ khóa: Breastfeeding knowledge, Eating supplements knowledge ABSTRACT knowledge, practicing about breast-feeding and supplementary feeding of mothers have children from 6 to 24 months Breastfeeding and proper complementary feeding will ensure that children develop well both physically and mentally and ruduce the occurrence of dangerous diseases such as malnutrition and other infections. The study was performed to assess mothers’ knowledge and practicing about breastfeeding and complementary feeding, thereby improving the understanding of mothers about how to nurture children to help children have a proper diet. Descriptive cross-sectional study. Interview 250 mothers with children 6-24 months go to examine at clinical nutrition department of national hospital of pediatric. The results study obtained 65.2% of mothers understand that they have to bring up their baby by exclusively breastfeeding in the first 6 months but only 24% of mothers did that. 72.4% of mothers know when to start complementary feeding, but only 31.2% practice correctly and 68.4% still give supplementary feeding early. Nhận bài: 5-1-2019; Thẩm định: 15-1-2019; Chấp nhận: 25-1-2019 Người chịu trách nhiệm chính: Lưu Thị Mỹ Thục Địa chỉ: Bệnh viện Nhi Trung ương; Email: luuthuc@gmail.com 56
  2. phần NGHIÊN CỨU 1. ĐẶT VẤN ĐỀ hành với mục tiêu: Tìm hiểu kiến thức, thực hành nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ sung của các bà mẹ Dinh dưỡng sớm đặc biệt giai đoạn 1000 ngày có con từ 6 - 24 tháng tuổi. đầu đời (thời kỳ bào thai và 2 năm đầu tiên của cuộc đời) đóng vai trò quan trọng cho sự phát 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU triển toàn diện của trẻ cũng như phòng ngừa bệnh lý mạn tính ở giai đoạn trưởng thành. Trong 2.1. Đối tượng nghiên cứu: 250 bà mẹ đang hai năm đầu đời, tốc độ tăng trưởng nhanh và sự nuôi con nhỏ từ 6-24 tháng tuổi. thay đổi phát triển thay đổi qua nhiều giai đoạn, * Tiêu chuẩn chọn đối tượng: Bà mẹ của những vì vậy cần thay đổi chế độ dinh dưỡng phù hợp trẻ tuổi từ 6-24 tháng đến kiểm tra sức khỏe. với sự phát triển qua từng giai đoạn. Sữa mẹ là - Bà mẹ là người trực tiếp chăm sóc, nuôi một món quà tuyệt vời mà tạo hóa đã ban tặng dưỡng trẻ. cho người phụ nữ để nuôi nấng những đứa con thân yêu ngay từ khi chào đời [1]. Nếu coi nuôi con - Trẻ không mắc bệnh cấp, mạn hay dị tật bẩm bằng sữa mẹ (NCBSM) hoàn toàn trong 6 tháng sinh. đầu là giai đoạn đặt viên gạch đầu tiên, viên gạch - Là trẻ bé nhất nếu bà mẹ có 2 trẻ từ 6 - 24 nền tảng cho một sự khởi đầu tốt nhất trong cuộc tháng tuổi. đời của trẻ, thì đến giai đoạn ăn bổ sung (ĂBS) sẽ - Các bà mẹ đồng ý tham gia nghiên cứu. là giai đoạn đặt tiếp viên gạch nền tảng thứ hai * Tiêu chuẩn loại trừ: giúp cho trẻ có một sự phát triển toàn diện. Bà mẹ không hợp tác, hay không nhớ thông Ăn bổ sung hợp lý sẽ đảm bảo cho trẻ phát tin về trẻ. triển tốt cả về thể chất lẫn tinh thần, đồng thời hạn chế mắc những bệnh nguy hiểm như suy 2.2. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả, dinh dưỡng và các bệnh nhiễm khuẩn khác. Hơn tiến hành phỏng vấn trực tiếp 250 bà mẹ dựa theo nữa, trẻ dưới 2 tuổi, suy dinh dưỡng (SDD) có thể bộ câu hỏi về kiến thức và thực hành nuôi con đe dọa tính mạng trẻ do gây suy yếu hệ miễn dịch bằng sữa mẹ và cho ăn bổ sung đã chuẩn bị trước. và làm cho trẻ dễ bị tử vong vì các bệnh thông 2.3. Thời gian nghiên cứu thường như tiêu chảy, viêm phổi [2]. 10/2017- 10-/2018 Nguyên nhân gây SDD rất phức tạp bao gồm 2.4. Địa điểm nghiên cứu: Phòng khám Dinh các vấn đề như ô nhiễm môi trường, bệnh tật và dưỡng- Bệnh viện Nhi trung ương. sự hạn chế về nhận thức, thực hành nuôi con của các bà mẹ. Trong đó việc ĂBS chưa hợp lý là một 2.5. Cỡ mẫu nghiên cứu trong những nguyên nhân trực tiếp, nhưng có Áp dụng công thức sau: thể can thiệp được thông qua các truyền thông giáo dục dinh dưỡng cho bà mẹ [3], [4]. Những p×q n = Z (21−α / 2 ) nghiên cứu về dinh dưỡng gần đây cho thấy tỷ d2 lệ trẻ được bú mẹ tới 18 - 24 tháng tuổi và được ĂBS hợp lý còn rất thấp. Nghiên cứu của Mai Thị Trong đó: Tâm (2010) cho thấy tỷ lệ trẻ được bú mẹ tới 18 - n: là cỡ mẫu nghiên cứu.. Z ( 1-α /2 ) : hệ số tin cậy 24 tháng tuổi thấp (34,9%) và có tới 62% trẻ ĂBS với độ tin cậy 95% ( =1,96) sớm trước 6 tháng tuổi [5]. Báo cáo của Viện Dinh dưỡng (2013), tỷ lệ trẻ tiếp tục được cho bú tới 24 p: tỷ lệ % bà mẹ cho trẻ bú mẹ trong vòng 6 tháng tuổi là 22,6%, bên cạnh đó tỷ lệ ăn bổ sung tháng đầu là 19,6% (theo báo cáo của Viện Dinh chưa hợp lý cũng còn khá cao với tỷ lệ 33,6% [6]. dưỡng năm 2010) => p = 0,196 => q = 1 - p = 0,804. Với mong muốn sẽ góp một phần nào đó thúc d: sai số cho phép ( = 5%). Thay vào công thức đẩy chương trình NCBSM và thực hành cho trẻ trên ta có n = 242≈ 250. Như vậy cỡ mẫu nghiên ĂBS được tốt hơn, đề tài nghiên cứu được tiến cứu là 250. 57
  3. tạp chí nhi khoa 2019, 12, 1 2.6. Công cụ thu thập thông tin và xử lý số liệu cứu. Sau khi thu thập thông tin, các số liệu sẽ Bộ câu hỏi được thiết kế sẵn để phỏng vấn được kiểm tra, nhập và xử lý trên phần mềm SPSS trực tiếp các bà mẹ có con từ 6 - 24 tháng tuổi. Bộ 20.0. Sử dụng các phương pháp thống kê thông câu hỏi này đã được thử nghiệm tại phòng khám thường: tính tỷ lệ phần trăm. Dinh dưỡng Bệnh viện Nhi Trung ương và chỉnh sửa hoàn chỉnh cho phù hợp với mục tiêu nghiên 3. Kết quả nghiên cứu Bảng 1. Thông tin chung về các bà mẹ tham gia nghiên cứu. Thông tin Các chỉ số n % < 18 tuổi 0 0 Tuổi 18 – 35 tuổi 226 90,4 > 35 tuổi 24 9,6 Mù chữ 0 0 Trình độ cấp I 7 2,8 Trình độ học vấn Trình độ cấp II 67 26,8 Trình độ cấp III 61 24,4 Trung cấp / Đại học 115 46 Làm ruộng, nội trợ 180 72 Nghề nghiệp Công chức, viên chức 70 28 Kinh 244 97,6 Dân tộc Khác 6 2,4 1 – 2 con 225 90 Số con trong gia đình >2 25 10 Nhận xét: Các bà mẹ tham gia nghiên cứu chủ yếu ở độ tuổi từ 18-35 tuổi (90,4%). Trình độ văn hoá của bà mẹ chủ yếu là từ phổ thông trung học trở lên (70,4%), không có bà mẹ nào mù chữ. Nghề nghiệp chính của các bà mẹ là làm ruộng và nội trợ (72%). Hầu hết các bà mẹ tham gia nghiên cứu là dân tộc kinh (97,6%) và chỉ sinh 1 đến 2 con (90%). Bảng 2. Kiến thức của bà mẹ về lợi ích của NCBSM Lợi ích NCBSM n % Dễ tiêu hóa, dễ hấp thu 93 37,3 Lợi ích cho con Phòng chống bệnh tật 200 80 Giúp trẻ phát triển trí não tối ưu 170 68 Gắn bó tình cảm mẹ con 200 80 Giảm nguy cơ mắc bệnh cho mẹ 93 37,2 Lợi ích cho mẹ Là phương pháp giúp KHHGĐ 164 65,6 Lấy lại vóc dáng sau sinh 65 26 Lợi ích cho GĐ, XH Tiết kiệm, giảm chi phí y tế 116 46,4 Không biết 20 8 KHHGĐ: Kế hoạch hóa gia đình; GĐ: Gia đình; XH: Xã hội Nhận xét: Hầu hết các bà mẹ hiểu rằng nuôi con bằng sữa mẹ giúp trẻ phòng chống được bệnh tật. Chỉ có 8% các bà mẹ là không biết về các lợi ích đó. 58
  4. phần NGHIÊN CỨU Bảng 3. Kiến thức và thực hành về thời điểm cho trẻ bú trong ngày Kiến thức Thực hành Thời điểm n % n % Theo nhu cầu của trẻ 181 72,4 176 70,4 (Bất cứ lúc nào trẻ muốn) Theo nhu cầu của trẻ 68 27,2 16 6,4 (Theo số bữa bú/nhóm tuổi) Không biết/Không nhớ 1 0,4 58 23,2 Tổng 250 100 250 100 Nhận xét: Kiến thức của bà mẹ hiểu đúng về thời điểm và số lần cho trẻ bú trong ngày còn thấp (27,2%). Chỉ có 6,4% các bà mẹ thực hành đúng về thời điểm cho con bú. Có sự khác biệt rõ rệt giữa kiến thức và thực hành của các bà mẹ về thời điểm cho con bú trong ngày (với p
  5. tạp chí nhi khoa 2019, 12, 1 Biểu đồ 2. Kiến thức và thực hành của bà mẹ về thời điểm bắt đầu cho trẻ ăn bổ sung Nhận xét: Phần lớn các bà mẹ hiểu đúng trẻ cần được ĂBS khi được 6 tháng tuổi (72,4%), có 21,2% bà mẹ cho rằng nên cho trẻ ăn sớm trước 6 tháng tuổi. Tuy nhiên, chỉ có 31,2% các bà mẹ thực hành đúng về thời điểm bắt đầu cho trẻ ĂBS, 68,4% bà mẹ cho con ăn bổ sung sớm. Bảng 4. Lý do các bà mẹ cho trẻ ăn bổ sung sớm trước 6 tháng Lý do n % Mẹ thiếu sữa 128 51,2 Mẹ phải đi làm 68 27,2 Trẻ đủ no, cứng cáp 60 24 Ăn cho đủ chất 85 34 Nhận xét: Lý do trẻ ĂBS sớm chủ yếu là do mẹ thiếu sữa (51,2%) hoặc lo trẻ bú mẹ không đủ chất (34%), mẹ phải đi làm (27,2%). 4. Bàn luận hiểu nên cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê p
  6. phần NGHIÊN CỨU lệ trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu trên toàn 6 tháng đầu nhưng chỉ có 24% bà mẹ cho con bú quốc là 19,6% [7]. Trong nghiên cứu này, tỷ lệ các mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu. Có 72,4% bà bà mẹ hiểu đúng về khái niệm bú mẹ hoàn toàn và mẹ biết được thời điểm bắt đầu cho ăn bổ sung về thời gian bú mẹ hoàn toàn là tương đối cao. Tuy nhưng chỉ có 31,2% thực hành đúng và có 68,4% nhiên, vẫn còn gần 30% các bà mẹ chưa biết hoặc vẫn cho ăn bổ sung sớm. Như vậy việc thực hiện hiểu sai về khái niệm này và gần 35% quan niệm đúng chế độ ăn của các bà mẹ có con từ 6- 24 sai về thời gian bú mẹ hoàn toàn, đây là những con tháng còn rất hạn chế vì vậy cần phải nâng cao số không hề nhỏ. hơn nữa về kiến thức cũng như thực hành dinh Về kiến thức (biểu đồ 2), đa số các bà mẹ dưỡng của các bà mẹ có con trong độ tuổi này. cho rằng nên cho trẻ ĂBS lúc 6 tháng tuổi, chỉ TÀI LIỆU THAM KHẢO có 21,2% bà mẹ cho rằng nên cho trẻ ăn trước 6 tháng. Nhưng về thực hành, thấy tỷ lệ ĂBS khá 1. Phạm Thị Tâm Khê (2009), Khảo sát kiến sớm, có tới 68,4% bà mẹ cho trẻ ĂBS trước 6 thức, thái độ thực hành về nuôi con bằng sữa mẹ tháng tuổi và chỉ có 31,2% số trẻ được ĂBS đúng của các bà mẹ sau khi sinh tại khoa Sản Bệnh viện thời điểm. So với các nghiên cứu của Phạm Thị Trường Đại học Y Dược Huế, Khóa luận tốt nghiệp Thanh Thủy (2014) cho thấy tỷ lệ trẻ ĂBS trước Cử nhân Phụ Sản, Trường Đại học Y Dược Huế. 6 tháng là 60,6% và 32,3% bà mẹ đã cho trẻ ăn 2. Shroeder D, and Brown KH, (1994), Nutritional theo đúng khuyến cáo [8]. Nghiên cứu của Trần status as a predictor of child survival: summarizing Thị Tuyết Mai (2011) cho thấy tỷ lệ trẻ được ĂBS the association and quantifying its global- impact đúng thời điểm và ăn trước 6 tháng lần lượt là Bull WHO, 569-579. 35,2% và 64,8% [9]. Việc cho trẻ ĂBS sớm trong 3. Keyou. Ge. (1995). Dietary intake and những tháng đầu sẽ làm trẻ bỏ dần bú mẹ. Do đó physical development in China based on the lguồn sữa mẹ, vốn là thức ăn tốt nhất, đầy đủ chất 1992 Nutritional Nutrition survey. Asia Pacific dinh dưỡng nhất đối với trẻ < 1 tuổi bị giảm đi. journal of clinical nutrition supp, No 1, 19-23. Hơn nữa, lúc này bộ máy tiêu hóa của trẻ chưa 4. PAHO- WHO (2002), Guiding principles for hoàn chỉnh về các chức năng tiêu hóa, hấp thu, complementary feeding of the breastfed child, khả năng miễn dịch của trẻ còn hạn chế nên việc Washington DC, PAN American Health Organnization - cho trẻ ĂBS sớm, không đúng cách sẽ ảnh hưởng World Health Organnization. đến sự phát triển của trẻ. Lý do cho trẻ ăn bổ sung 5. Mai Thị Tâm (2010), Thực trạng nuôi con trước 6 tháng trong kết quả ở bảng 4 chủ yếu là bằng sữa mẹ và ăn bổ sung của các bà mẹ có con mẹ thiếu sữa là 51,2% và cho trẻ ăn để trẻ đủ chất dưới 2 tuổi, Luận văn thạc sĩ Y học, Hà Nội. (34%). Nguyên nhân của việc bà mẹ cho trẻ ĂBS 6. Viện Dinh dưỡng, UNICEF (2013), Giám sát sớm một số là do: đối với các bà mẹ làm ruộng/ điều tra dinh dưỡng 2013, Viện Dinh dưỡng, Hà Nội. nội trợ trở lại làm việc sau khi sinh sớm vì “tham 7. Viện Dinh Dưỡng và UNICEF (2011), Tình công tiếc việc”, đối với các bà mẹ công nhân viên hình dinh dưỡng Việt Nam 2009 - 2010, Nhà xuất chức dù thời gian được nghỉ sau sinh đến 6 tháng bản Y học. chiếm tới 88.8% nhưng vì trong suy nghĩ của họ 8. Phạm Thị Thanh Thủy (2014), Thực trạng vẫn còn những quan niệm sai lầm và lạc hậu như nuôi con bằng sữa mẹ ở các bà mẹ có con dưới cho trẻ ăn sớm để trẻ cứng cáp hơn hoặc để trẻ 2 tuổi tại khoa Nhi Bệnh viện Saint Paul, Hà Nội, có thể làm quen với thức ăn sớm trước khi mẹ đi Khóa luận tốt nghiệp bác sĩ đa khoa, Trường Đại làm,… Vì thế, mà cho con ăn dặm khi chưa đủ 6 học Y Hà Nội. tháng tuổi là giải pháp lựa chọn của nhiều bà mẹ. 9. Trần Thị Tuyết Mai (2013), Xây dựng và 5. Kết luận đánh giá hiệu quả mô hình truyền thông đa dạng tại tuyến y tế cơ sở trong phòng chống suy dinh Kết quả nghiên cứu thu được 65,2% bà mẹ dưỡng trẻ em tỉnh Khánh Hòa, Luận văn Tiến sĩ y hiểu được phải cho con bú mẹ hoàn toàn trong tế công cộng. 61
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2