HNUE JOURNAL OF SCIENCE<br />
Social Sciences, 2018, Volume 63, Issue 4, pp. 16-26<br />
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br />
<br />
DOI: 10.18173/2354-1067.2018-0023<br />
<br />
LIÊN VĂN BẢN TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ SÔNG CÔN MÙA LŨ<br />
CỦA NGUYỄN MỘNG GIÁC<br />
<br />
Nguyễn Thị Minh Phượng<br />
Trường Trung học phổ thông Cảm Nhân, Yên Bình, Yên Bái<br />
Tóm tắt. Nguyễn Mộng Giác đã đưa vào, lắp ghép vào tác phẩm Sông Côn mùa lũ nhiều thể<br />
loại của các tiền văn bản, tạo ra sự liên văn bản, làm tiểu thuyết lịch sử ôm chứa, hòa trộn<br />
nhiều thể loại, khám phá sâu rộng các tầng vỉa của hiện thực. Nhà văn đã xử lý tương đối<br />
thành công các tiền văn bản,du nhập và trích dẫn công khai vào trong thế giới nghệ thuật của<br />
Sông Côn mùa lũcác văn bản trước đónhiều thể loại như các thể loại thơ, tiểu thuyết, hịch, ca<br />
dao, tục ngữ, thành ngữ, biệt ngữ xã hội, thư từ, nhật kí…, giúp chúng ta nhận ra một cuộc đối<br />
thoại lớn giữa cácnền văn hóa. Đặc biệt là sự đối thoại văn hóa, tương tác lời giữa các nhân<br />
vật khá sống động, giàu sức thuyết phục, tạo tiếng cười mang nhiều sắc thái, ý nghĩa khác<br />
nhauđể ca ngợi, châm biếm, đả kích, phê phán. Các thể loại khác nhau được lắp ghép vào<br />
đóng vai trò quan trọng trong cái cấu trúc của chỉnh thể, quy định hình thức tác phẩm. Tiểu<br />
thuyết lịch sử Sông Côn mùa lũ đã ngốn vào trong nó nhiều thể loại kể trên như là những hình<br />
thức chiếm lĩnh hiện thực bằng ngôn từ đã từng được tạo ra từ các tiền văn bản, được các thể<br />
loại khác gia công sơ bộ hiện thực cho nó. Ngôn ngữ cổ kính trang trọng, kết hợp với ngôn<br />
ngữ sinh hoạt thông tục, làm các nhân vật lịch sử hiện lên gần gũi, giống với con người ngoài<br />
đời thực, giúp tác giả đã xoáy sâu vào các vấn đề thế sự và luận giải lịch sử, đối thoại với<br />
người đọc về các vấn đề nhân sinh trên tinh thần nhân đạo.<br />
Từ khóa: Liên văn bản, Nguyễn Mộng Giác, Sông Côn mùa lũ, tiểu thuyết lịch sử.<br />
<br />
1.<br />
<br />
Mở đầu<br />
<br />
Tiểu thuyết lịch sử - một thể loại được coi là thể loại khởi đầu của các loại tiểu thuyết, nó ôm<br />
trong mình nhiều các thể loại khác nhau do đặc tính liên văn bản. Sông Côn mùa lũ của Nguyễn<br />
Mộng Giác là một trong những tác phẩm như thế. Khi nghiên cứu bộ tiểu thuyết lịch sử này, tác<br />
giả Trần Vân Trang [7] có đề cập đến một mục nhỏ đó là “Phát huy công năng của nhiều thể loại”.<br />
Trong mục này, Vân Trang khẳng định tác giả tích hợp các thể loại như thư từ, nhật kí, thơ, hịch,<br />
chiếu, âm nhạc để biên sử, diễn tả cảm xúc cá nhân của tác giả, tạo ra âm hưởng vương triều,<br />
khám phá phẩm chất nho sĩ, luận giải lịch sử. Tuy nhiên Vân Trang chưa chỉ ra tính chất liên văn<br />
bản là một trong những thuộc tính góp phần làm nên đặc trưng bản chất của thể loại tiểu thuyết<br />
lịch sử trong việc tái hiện lại bức tranh hiện thực và số phận con người một cách sâu rộng, sinh<br />
động và dụng ý nghệ thuật của tác giả khi kiến trúc lại các thể loại trong kho tàng văn học dân tộc<br />
trong tác phẩm của mình. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ ra đặc trưng bản chất của thể loại tiểu<br />
thuyết lịch sử là hòa trộn, ngốn nhiều thể loại khác nhau bên trong cấu trúc của nó, có cả các thể<br />
loại văn học dân gian như ca dao, dân ca, tục ngữ, thành ngữ, câu đối…, có cả các loại văn bản<br />
khác như văn bản thuyết minh, văn bản lịch sử… được ôm chứa trong kết cấu hình thức của nó,<br />
mục đích của tác giả khi đưa các thể loại cụ thể khác nhau vào trong sáng tác và liên văn bản tạo<br />
Ngày nhận bài: 9/1/2018. Ngày sửa bài: 19/3/2018. Ngày nhận đăng: 2/4/2018.<br />
Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Minh Phượng. Địa chỉ e-mail: ntminhhoa197671@gmail.com<br />
<br />
16<br />
<br />
Liên văn bản trong tiểu thuyết lịch sử Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác<br />
<br />
ra tiếng cười trào tiếu nhằm nhiều ý nghĩa khác nhau theo dụng ý nghệ thuật riêng của tác giả. Vì<br />
vậy ở bài viết này, chúng tôi vận dụng lí thuyết liên văn bản để chỉ ra các thể loại cụ thể được đưa<br />
vào tác phẩm, làm nên đặc trưng bản chất của thể loại tiểu thuyết lịch sử và những dụng ý nghệ<br />
thuật của tác giả khi trích dẫn các thể loại ấy, giúp người đọc có một cái nhìn khái quát về vấn đề<br />
liên văn bản trong Sông Côn mùa lũ.<br />
<br />
2. Nội dung nghiên cứu<br />
2.1. Giới thuyết chung về khái niệm liên văn bản<br />
Các nhà nghiên cứu lí luận văn học đã bàn rất nhiều về lí thuyết liên văn bản, M. Bakhtin cho<br />
rằng “ngoài cái thực tại tồn tại bên cạnh nhà nghệ sĩ, anh ta còn có quan hệ với văn học trước đó<br />
và văn học cùng thời với mình, văn học mà anh ta luôn cùng nó đối thoại, và cuộc đối thoại này<br />
được hiểu như cuộc đấu tranh của nhà văn với những hình thức văn học hiện tồn” [3; tr.441]. Tư<br />
tưởng đối thoại với những hình thức văn học hiện tồn giữa các văn bản, nghĩa là liên văn bản, “tất<br />
cả mọi thứ: văn học, văn hóa, xã hội, lịch sử, bản thân con người đều được khảo sát như văn bản”<br />
[3; tr.442]. Như vậy lịch sử và xã hội là những thứ có thể “đọc” được như văn bản, nên văn hóa<br />
nhân loại cũng là một “liên văn bản” đóng vai trò tiền văn bản của bất kỳ văn bản nào xuất hiện<br />
về sau. Từ sự đồng nhất ấy, tính chủ thể tự chủ của con người trong những “văn bản ý thức” sẽ<br />
hòa tan theo kiểu “liên văn bản” để tạo ra “liên văn bản lớn” truyền thống văn hóa trong “trò chơi<br />
liên văn bản”. Kristéva khẳng định: “Chúng ta gọi là LIÊN VĂN BẢN cái liên hành vi mang tính<br />
văn bản này, xảy ra bên trong mỗi văn bản riêng biệt. Đối với chủ thể nhận thức thì liên văn bản là<br />
khái niệm sẽ trở thành dấu hiệu của cách thức mà văn bản dùng để đọc câu chuyện và hòa hợp<br />
với nó” [3; tr.443]. Dựa trên cơ sở này, L. Perrone Moisès đã nhấn mạnh rằng trong quá trình đọc<br />
thì tác giả, văn bản và độc giả đều trở thành “một trường thống nhất, vô tận cho trò chơi của sự<br />
viết” [3; tr.443], còn J. Derrida thì tách kí hiệu khỏi tín hiệu mô tả nó, phi trung tâm hóa chủ thể,<br />
xóa bỏ khái niệm văn bản, quy toàn bộ sự giao tiếp vào “một trò chơi tự do của những cái biểu<br />
đạt” [3, 444]. Hầu hết các nhà khoa học đều thừa nhận rằng bất cứ văn bản nào cũng là sự “phản<br />
ứng”, “đối thoại” với các văn bản có trước nó. Liên văn bản được hiểu rằng “Mỗi văn bản là một<br />
liên văn bản, những văn bản khác có mặt trong nó ở các cấp độ khác nhau dưới những hình thái ít<br />
nhiều nhận thấy được: những văn bản của văn hóa trước đó và những văn bản của văn hóa thực<br />
tại xung quanh. Mỗi văn bản như một tấm vải mới được dệt bằng những trích dẫn cũ. Những đoạn<br />
của các mã văn hóa, những mảng vụn biệt ngữ xã hội… tất cả đều bị văn bản ngốn nuốt và đều bị<br />
hòa trộn trong văn bản, bởi vì trước văn bản và xung quanh nó bao giờ cũng tồn tại ngôn ngữ.<br />
Với tư cách là điều kiện cần thiết ban đầu cho mọi loại văn bản, tính liên văn bản còn thể hiện ở<br />
những trích dẫn vô thức hoặc máy móc, được đưa ra không có ngoặc kép” [3; tr.445]. “Liên văn<br />
bản” thể hiện kiểu tư duy trích dẫn của nhà văn, làm cho thế giới hiện lên như một văn bản khổng<br />
lồ, trong đó những điều đã được nói đến sẽ pha trộn những yếu tố nhất định để tạo ra những tổ<br />
hợp mới để “ghi tiếng vọng” văn hóa của lịch sử theo kiểu “vô thức tập thể” trong những giới hạn<br />
cụ thể, quy định hoạt động thẩm mỹ của nghệ sĩ. Liên văn bản còn được hiểu là “một quần thể<br />
những giả địnhcác văn bản khác” [3; tr.445], nên văn bản không thể tách khỏi tính liên văn bản<br />
mà còn dựa vào nó, các văn bản văn học trước và sau đó sẽ quy định lẫn nhau. Nó là “một bộ<br />
phận hợp thành của văn hóa nói chung và là dấu hiệu không tách rời của hoạt động văn học nói<br />
riêng: bất cứ sự trích dẫn nào, cho dù nó mang tính chất gì đi nữa, nhất định phải đưa nhà văn<br />
vào phạm vi cái văn cảnh văn hóa” [3; tr.445], ràng buộc nhà văn, không ai có khả năng thoát<br />
khỏi “những văn bản của văn hóa trước đó và những văn bản của văn hóa thực tại xung quanh”.<br />
Liên văn bản còn được hiểu là sự tương tác giữa lời của mình và lời của người khác, là “sự tương<br />
tác giữa những dạng khác nhau của những diễn ngôn bên trong văn bản diễn ngôn của người trần<br />
thuật về diễn ngôn của các nhân vật; diễn ngôn của một nhân vật này về diễn ngôn của nhân vật<br />
khác” [3; tr.447]. Đồng quan điểm với các nhà nghiên cứu nói trên, G. Genette đã chỉ ra các loại<br />
17<br />
<br />
Nguyễn Thị Minh Phượng<br />
<br />
tương tác của văn bản như: sự cùng hiện diện trong một văn bản của hai hay nhiều văn bản qua<br />
hình thức trích dẫn, điển tích, vay mượn đề tài, cốt truyện, trích dẫn công khai, bắt chước,…; siêu<br />
văn bản như sự chú giải hoặc viện dẫn văn bản trước đó một cách có phê phán; ngoa dụ văn bản<br />
như sự cười cợt hay giễu nhại của văn bản này đối với văn bản khác; kiến trúc văn bản được hiểu<br />
như mối quan hệ thể loại giữa các văn bản…Nhìn chung, nội hàm của khái niệm “liên văn bản”rất<br />
rộng, nó vừa được dùng như một phương tiện để phân tích cắt nghĩa văn bản văn học hoặc miêu tả<br />
đặc trưng sự tồn tại của văn học, vừa dùng để xác định cảm quan về thế giới và bản thân con<br />
người đương đại, đó là cảm quan hậu hiện đại vì các văn bản văn học trước đó được sử dụng lại,<br />
kiến trúc lại trong sinh mệnh nghệ thuật mới của các văn bản văn học ra đời sau đó.Nó có ý<br />
nghĩa trong việc phản ánh tiến trình văn hóa trong dòng chảy lịch sử, tích hợp tinh thần thời đại,<br />
văn minh nhân loại của các giai đoạn lịch sử khác nhau, làm văn học có tính đại chúng, tác động<br />
mạnh đến thực tiễn nghệ thuật và sự tự ý thức của nghệ sĩ.Liên văn bản thể hiện rõ lập trường tư<br />
tưởng, văn hóa của thời đại, vì bất kỳ văn bản nào cũng đều có mối quan hệ với các “tiền văn<br />
bản”. Liên văn bản dựa trên những sự kết nối với “các tiền văn bản” bằng những hình thức khác<br />
nhau, được tác giả tạo lập bằng ý thức hoặc vô thức, được người đọc tri nhận trong thực tiễn giao<br />
tiếp nghệ thuật và chúng tương tác với tri thức và trải nghiệm văn bản của người đọc, gây ra hứng<br />
thú trong quá trình tiếp nhận, cảm thụ văn bản. Qua đó, các giá trị văn hóa không ngừng được sản<br />
sinh và tiếp nhận. Tính liên văn bản là thuật ngữ được dùng để miêu tả các quan hệ nói trên, nơi<br />
mà mỗi văn bản đều chứa đựng sự đối thoại với các văn bản khác để sản sinh ra các tầng nghĩa<br />
mới.<br />
<br />
2.2. Biểu hiện của yếu tố liên văn bản trong Sông Côn mùa lũ<br />
Thật vậy, khi đọc Sông Côn mùa lũ, ta thấy có sự liên văn bản, nghĩa là sự đồng hiện diện<br />
của nhiều văn bản ở nhiều thể loại khác nhau để đơn giản hóa “sự hiện diện thực sự” của nhiều<br />
văn bản “trong một văn bản khác” là tác phẩm này [4; tr.317]. Nhìn từ góc độ liên văn bản,<br />
Nguyễn Mộng Giác đã kiến trúc lại, sử dụng lại một cách linh hoạt, sáng tạo các “tiền văn bản”,<br />
đó là “những văn bản của văn hóa trước đó và những văn bản của văn hóa thực tại xung quanh”<br />
để tạo ra một tác phẩm mới theo nhiều hình thức khác nhau như trích dẫn trực tiếp các hình thức<br />
văn học hiện tồn của nhiều loại văn bản khác nhau, thuộc nhiều thể loại khác nhau như thơ, kịch,<br />
tuồng, chiếu, biểu, hịch, phú, ca dao, tục ngữ, thành ngữ, biệt ngữ xã hội, nhật kí, thư, tiểu<br />
thuyết,…các văn bản thuyết minh về lịch sử, địa lí, quân sự, chính trị, cảm quan hậu hiện đại, tư<br />
duy hiện sinh, dã sử, văn hóa nông nghiệp, tư tưởng Nho giáo, Phật giáo, tín ngưỡng dân gian,<br />
diễn ngôn các ngành khoa học..., đều bị ngốn nuốt và đều bị hòa trộn trong văn bản tác phẩm<br />
Sông Côn mùa lũ, tác giả còn dẫn theo lối biên niên sử có kèm theo những lời bình luận ngoại đề.<br />
Tất cả những hình thức liên văn bản được thể hiện trong Sông Côn mùa lũ đã góp phần làm nổi<br />
bật đặc trưng của tiểu thuyết lịch sử về “tính chân thật của lịch sử” và nghệ thuật “hư cấu”, đặc<br />
biệt là nhiều trích dẫn đã làm tăng tính “chân thật của lịch sử”, tạo sức lôi cuốn, hấp dẫn, thuyết<br />
phục người đọc và giúp nhà văn xoáy sâu vào cảm hứng thế sự, trên cơ sở đó phát huy đặc trưng<br />
“hư cấu” nghệ thuật qua các đối thoại trong diễn ngôn lịch sử của người trần thuật và diễn ngôn<br />
của các nhân vật để thỏa mãn “tầm đón” và lấp đầy những “điểm trắng” của lịch sử và phản ánh<br />
số phận con người thuộc mọi tầng lớp khác nhau trong giai đoạn lịch sử đầy biến động dữ dội vào<br />
thế kỉ XVIII.<br />
<br />
2.2.1. Thơ, chiếu, hịch<br />
Nguyễn Mộng Giác đã sử dụng văn học trước đó để tạo ra sự tương tác liên văn bản qua cuộc<br />
đối thoại văn hóa xuyên quốc gia giữa các nhân vật khá độc đáo, thú vị, làm nổi bật vẻ đẹp tâm<br />
hồn bay bổng, lãng mạn, tinh tế, nhạy cảm, xúc động mạnh mẽ trước vẻ đẹp của thiên nhiên và<br />
diễn tả sâu sắc nỗi buồn thời thế của trí thức thời loạn qua đối thoại giữa nhân vật ông giáo Hiến<br />
với Biện Nhạc. Người đọc nhận ra văn cảnh văn hóa trong sự đối thoại của tác giả với hình thức<br />
văn học của văn hóa trước đólà thể loại thơ để tạo ra sự liên văn bản, liên tâm hồn, sự đồng cảm,<br />
18<br />
<br />
Liên văn bản trong tiểu thuyết lịch sử Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác<br />
<br />
đồng điệu của người trí thức phương Bắc và người trí thức Việt Nam thời Tây Sơn lúc loạn lạc<br />
qua việc nhân vật ông giáo đã trích dẫn hai câu thơ của Đỗ Phủ gặp Lí Qui Niên ở Giang Nam:<br />
“Chính thị Giang nam hảo phong cảnh/ Lạc hoa thời tiết hựu phùng quân” (Chính lúc phong cảnh<br />
Giang nam đang đẹp/ Giữa mùa hoa rụng, lại gặp anh!) [1; tr.118]. Ta thấy sự tương tác giữa<br />
những dạng khác nhau của những diễn ngôn bên trong văn bản, đó là diễn ngôn của một nhân vật<br />
này về diễn ngôn của nhân vật khác. Ông giáo dùng diễn ngôn của nhân vật trữ tình là “quân”<br />
mà bản dịch là “anh” để tâm sự với Nhạc về nỗi lòng của người dạy học giữa “mùa hoa rụng” để<br />
nhấn mạnh nỗi buồn về “sự hết thời” của mình trong những biến động lịch sử, có ý tôn trọng đề<br />
cao bạn mình là bậc hiền nhân quân tử qua ngôn ngữ của nhân vật trữ tình sử dụng giàu ý tại ngôn<br />
ngoại, trang nhã, mang tính ước lệ tượng trưng. Nhạc đã phản ứng lại bằng sự cảm thông, ngưỡng<br />
mộ, quý trọng “người tài” và “kính trọng người có chữ”. Vì thế Nhạc đã nhờ ông giáo dạy chữ<br />
cho hai em của mình là Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ. Trong lời đối thoại của Bùi Đắc Tuyên với<br />
Nguyễn Huệ, ông đã trích dẫn lại lời của Kiên lấy nguyên văn từ ca dao, câu hát ru là những thể<br />
loại vốn dùng để diễn tả tâm tư, tình cảm, đời sống tâm hồn của nhân dân một cách mộc mạc, bình<br />
dị để nhằm mục đích mới “thêm thắt để biến Kiên thành kẻ chủ mưu quỉ quyệt” và chế giễu mối<br />
tình của Huệ và công chúa Ngọc Hân qua lời than tiếc nuối của nhân vật trữ tình trong lời ca dao,<br />
làm cho Nguyễn Huệ “giận” để hại Kiên: “Tiếc thay cây quế giữa rừng/ Để cho thằng mán, thằng<br />
mường nó leo” và trích dẫn ca dao trong kho tàng văn học dân gian của dân tộc để oán trách<br />
chiến tranh phi nghĩa làm vợ chồng xa nhau, hạnh phúc dang dở: “Trời ơi sinh giặc làm chi/ Cho<br />
chồng tôi phải ra đi chiến trường” [1; tr.1944] để gán cho Kiên cái tội “cố ý xúi người ta đừng đi<br />
lính” và ý của câu ca dao trước là nhằm chế giễu, miệt thị công chúa Huyền Trân bị gả cho vua<br />
Chiêm Thành là Chế Mân để đổi lấy hai châu Ô, Lý (từ đèo Hải Vân, Thừa Thiên đến phía bắc<br />
Quảng Trị ngày nay) để công kích mối tình giữa Huệ và công chúa Ngọc Hân. Nhưng Huệ không<br />
hề “giận” mà tỏ ra hiểu biết “Câu này thì tôi đã nghe từ lâu… tôi cũng tự xưng là mán mọi” với<br />
thái độ khá lịch thiệp, khiêm nhường.Tiếp đó, lượt lời của Huệ có sự tác động, “phản ứng” trở lại,<br />
làm Bùi Đắc Tuyên “thất vọng” “ [1; tr.1944]. Huệ đã “cười lớn” và trích dẫn tám câu thơ song<br />
thất lục bát trong bài Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn để bình thường hóa mọi vấn đề về<br />
Kiên, nhấn mạnh tâm trạng thường thấy của những người đàn bà thời loạn thật tội nghiệp, họ sầu<br />
đau, tuyệt vọng, buồn bã khi phải tiễn chồng đi chinh chiến nơi xa, phải sống trong cảnh cô đơn,<br />
lẻ loi, xa chồng. Huệ là vị tướng xua quân đánh nhau trăm trận mà cũng bị vợ bắt học thuộc<br />
những câu thơ như thế, nên rất thấu hiểu, cảm thông, chia sẻ với tâm trạng, nỗi lòng của những<br />
người phụ nữ trong cảnh chiến tranh loạn lạc được nói đến trong thơ. Cuộc đối thoại văn hóa giữa<br />
các nhân vật cho thấy cách đối nhân xử thế khá khéo léo, tế nhị của Huệ để duy trì hòa bình, ông<br />
vừa gạt đi được ý đồ của Nhật, vừa bảo vệ được Kiên. Đây cũng là bài học sâu sắc cho hôm nay<br />
về việc xử lí các tình huống thực tiễn.<br />
Đối thoại, tương tác lời giữa các nhân vật qua các “tiền văn bản” tạo tính chất liên văn bản<br />
được thể hiện qua việc lấy ý, trích dẫn thể loại thơ trữ tình với các bài thơ, đoạn thơ (Sơn phòng<br />
xuân sự của Sầm Tham, Phong trúc tập của Ngô Thế Lân, Cái pháo của Nguyễn Hữu Chỉnh, Lâm<br />
trì phú của Ngô Thì Nhậm…), với tần số gia tăng, mức độ nhiều, để tái hiện lại không khí lịch sử,<br />
đời sống văn hóa, tâm tư tình cảm của tầng lớp vua quan, quần chúng nhân dân và nhấn mạnh<br />
những phẩm chất đạo đức, tài năng của con người thuở xưa. Chẳng hạn như đối thoại liên văn bản<br />
về thể loại thơ trữ tình giữa Lãng và Huệ tạo ra những tiếng cười nhẹ nhàng, làm vơi bớt những<br />
mệt mỏi, lo toan trong cuộc sống qua việc Huệ đã biên tái, thay hai từ “Lương viên” trong nguyên<br />
tác thành hai từ “Phú yên” ở câu thơ đầu. Huệ đã đọc bài thơ Sơn phòng xuân sự của Sầm Tham,<br />
mượn diễn ngôn của nhân vật trữ tình trong văn bản văn học trước đó để nói về một hiện thực<br />
hoang vắng, xơ xác, tiêu điều trong cảnh loạn lạc [1; tr.480]. Những đoạn của các mã văn hóa<br />
trong diễn ngôn của nhân vật trữ tình trong bài thơ đã làm nổi bật truyền thống hiếu học, khí<br />
phách hiên ngang của con người trọng nghĩa khinh lợi, hào hiệp, không cúi đầu trước cường<br />
19<br />
<br />
Nguyễn Thị Minh Phượng<br />
<br />
quyền, giàu lòng yêu nước thương dân. Bên cạnh đó, tác giả sử dụng rất nhiều hình thức liên văn<br />
bản như lấy ý, dẫn trực tiếp, trích dẫn công khai văn học trước đó qua các bài thơ của nhiều tác<br />
giả, tạo nên các cuộc đối thoại khá sinh động, hấp dẫn người đọc, làm tiểu thuyết lịch sử không<br />
khô khan, cứng nhắc như các công trình nghiên cứu lịch sử. Chẳng hạn như dẫn 3 đoạn thơ trong<br />
Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm ở các trang 1235, 1241, 1251, 1289, 1319; dẫn ý bài Long thành<br />
cầm giả ca của Nguyễn Du tr. 1029;... làm bức tranh hiện thực trong tiểu thuyết lịch sử hiện lên<br />
sâu rộng, mở ra nhiều đề tài, diễn tả tâm trạng phong phú, đủ mọi cảm xúc của các nhân vật qua<br />
những lời đối thoại trong những tình huống cụ thể, làm tính cách của các nhân vật hiện lên rất đa<br />
dạng, nhiều vẻ, tạo sự thu hút, thuyết phục người đọc, tác động sâu sắc đến cảm xúc thẩm mỹ của<br />
người đọc. Việc trích dẫn thơ trữ tình tạo nên nhịp điệu, làm cho lời nói của các nhân vật trở nên<br />
có vần, ngọt ngào, sâu lắng, có khi là nỗi nhớ da diết, có lúc lại là nỗi buồn man mác trước nhân<br />
tình thế thái. Tác giả còn trích dẫn văn bản văn học trước đó là thơ Trung Quốc, nhắc đến thơ<br />
của Tào Mạnh Đức, Hi Doãn, dùng các điển tích, điển cố ngắn gọn, cô đọng, hàm súc, tạo ra tiếng<br />
cười trong cuộc đối thoại thơ văn giữa những người trí thức khá sâu sắc về diễn ngôn của nhân<br />
vật trữ tình trong thơ, làm nổi bật thú tiêu dao của con người trong không gian cao rộng, thoáng<br />
mát và tâm trạng vui tươi, thanh thản của con người khi đứng trước thiên nhiên ao nước trong<br />
sạch, sống “vô vi” thuận theo tự nhiên, từ bỏ chốn lầu son gác tía cao sang [1; tr.1253]. Bên cạnh<br />
đó, tác giả trích dẫn thơ văn, sách vở của Trung Quốc như sách Luận ngữ: “Đường lệ chi hoa,<br />
thiên kì phản nhi” [1; tr.415], các câu nói của Khổng Tử ở trang 937, 972; trích dẫn Kinh thi ở<br />
trang 1143, dùng điển tích ở trang 1150… tạo ra các cuộc đối thoại văn hóa khu vực qua sự tương<br />
tác lời của các nhân vật. Sự trích dẫn công khai lặp đi lặp lại nhiều lần thể loại thơ trữ tình đã tạo<br />
ra tiết tấu, giai điệu, nhạc tính, tạo nên điểm nhấn trong nghệ thuật kể chuyện của tiểu thuyết lịch<br />
sử Sông Côn mùa lũ.<br />
Liên văn bản còn thể hiện ngay trong tờ “hịch” mà ông giáo Hiến viết giúp ông biện Nhạc để<br />
kêu gọi nhân dân “khởi nghĩa” được trích dẫn nguyên văn trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế<br />
kỉ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX: “Giận quốc phó ra lòng bội thượng, nên Tây sơn xướng nghĩa cần<br />
vương. Trước là ngăn cột đá giữa dòng, kẻo đảng nghịch đặt mưu ngấp nghé. Sau là tưới mưa<br />
dầm khi hạn, kẻo cùng dân sa chốn lầm than. Ví lòng trời còn nếp Phú xuân, ắt dấu cũ lại cơ đồ<br />
Hữu Hạ” [1; tr.227]. Trong bài Chiếu lên ngôi của vua Quang Trung do Ngô Thì Nhậm soạn, tác<br />
giả có lấy nhiều ý từ Kinh thư để đặt vào miệng vua những lời lẽ thấu lí đạt tình thể hiện sự động<br />
viên, khích lệ, tôn trọng dân, những từ ngữ cảm thán đã diễn tả sâu sắc những tình cảm chân thành<br />
của vua đối với nhân dân và đất nước: “Vừa đây, tướng sĩ văn võ, thần liêu trong ngoài đều muốn<br />
trẫm sớm định vị hiệu, để thu phục lòng người, dâng biểu khuyên mời đến hai, ba lần. Các tờ biểu<br />
vàng suy tôn, không hẹn mà cùng một lời. Trẫm nghĩ: nghiệp lớn rất trọng, ngôi trời khó khăn,<br />
trẫm thật lòng lo không đương nổi. Nhưng ức triệu người trong bốn bể trông cậy vào một mình<br />
trẫm. Đó là ý trời, há phải việc người? Trẫm ứng mệnh trời, thuận lòng người, không thể cố chấp<br />
nhún nhường mãi, lấy ngày 22 tháng 11 năm nay lên ngôi thiên tử, đặt niên hiệu là Quang Trung<br />
nguyên niên. Hỡi trăm họ muôn dân các ngươi! Lời nói lớn lao của ngôi hoàng cực là lời giáo<br />
huấn phải thi hành. Nhân, nghĩa, trung, chính là đầu mối lớn lao của đạo làm người. Nay trẫm<br />
cùng dân đổi mới, theo mưu mô sáng suốt của tiền thánh để trị và dạy thiên hạ! Than ôi! Trời vì<br />
hạ dân, đặt ra vua, đặt ra thầy, là để giúp trời vỗ yên bốn phương.Trẫm có cả thiên hạ, sẽ cùng dắt<br />
díu dân lên con đường lớn, đặt vào đài xuân. Hỡi thần dân các ngươi! Ai nấy hãy yên chức nghiệp,<br />
chớ làm những điều không phải đạo thường. Người làm quan hãy giữ phong độ hoà mục, người<br />
làm dân yên trong lệ tục vui hoà, trị giáo mở mang hưng khởi đến chỗ rất thuận, để vãn hồi thời<br />
thịnh trị của Ngũ đế, Tam vương, khiến cho tông miếu xã tắc được phúc không cùng, há chẳng<br />
đẹp đẽ sao?” [1; tr.1318]. Thông qua việc trích dẫn các thể loại văn học trung đại, đời sống quá<br />
khứ và số phận con người thuộc nhiều tầng lớp khác nhau trong lịch sử hiện lên rất chân thực. Ta<br />
20<br />
<br />