138 ÑAËNG ANH ÑAØO tuyeån choïn vaø giôùi thieäu<br />
<br />
CHUÙC MÖØNG ANH CAÛ<br />
VÖÔÏT TRAÊM XUAÂN!*<br />
<br />
HOÀNG MINH PHƯƠNG<br />
Phó ban thường trực Ban liên lạc Chiến sĩ Điện Biên Phủ<br />
tại TP.HCM.<br />
Nguyên trợ lý Tổng Tư lệnh VÕ NGUYÊN GIÁP<br />
Phó Tư lệnh – Tham mưu trưởng Quân đoàn 4<br />
<br />
N<br />
<br />
gày 25 tháng 8 năm nay, Đại tướng Võ Nguyên<br />
Giáp – nguyên Chủ tịch Quân ủy hội, Bí thư<br />
Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng - Tổng<br />
Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam - Chủ tịch danh<br />
dự Hội Cựu chiến binh Việt Nam - tròn 100 tuổi tính<br />
theo Dương lịch. Đây là một kỷ lục chưa từng có về tuổi<br />
thọ của danh nhân danh tướng ở nước ta cũng như trên<br />
thế giới từ thời xưa cho đến ngày nay! Đây không chỉ là<br />
niềm hạnh phúc lớn của Đại tướng và gia đình, mà còn là<br />
* Bài nói tại cuộc họp mặt ngày 20/8/2011 của Chiến sĩ Điện Biên<br />
Phủ tại TP.Hồ Chí Minh mừng Đại tướng VÕ NGUYÊN GIÁP tròn<br />
100 tuổi.<br />
<br />
VOÕ NGUYEÂN GIAÙP qua lôøi keå cuûa nhöõng ngöôøi thaân 139<br />
<br />
niềm vui lớn của cựu chiến binh chúng ta, những người<br />
từng chiến đấu và chiến thắng dưới sự lãnh đạo đúng đắn<br />
của Đảng và Hồ Chủ tịch, dưới sự chỉ huy tài năng của<br />
Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp!<br />
Đối với chiến sĩ Điện Biên Phủ, ân tình với Đại<br />
tướng lại càng sâu nặng! Vì nếu không có quyết định cực<br />
kỳ sáng suốt, quả đoán, dũng cảm, đầy tinh thần trách<br />
nhiệm của Tổng Tư lệnh kiêm Chỉ huy trưởng chiến dịch<br />
năm xưa, kịp thời hoãn cuộc tiến công chiều 26 tháng<br />
1 năm 1954, từ chủ trương “Đánh nhanh thắng nhanh”<br />
chuyển sang “Đánh chắc tiến chắc”, thì đã không có một<br />
chiến thắng “chấn động địa cầu”, mà là một thảm bại,<br />
dẫn đến những hậu quả khôn lường cho cuộc kháng<br />
chiến chống Pháp! Phần lớn chúng ta ngồi đây đã bị<br />
thương vong lớn trong lòng chảo Điện Biên, không còn<br />
sống để tiếp tục cùng toàn Đảng toàn dân đưa sự nghiệp<br />
giải phóng dân tộc đến ngày toàn thắng!<br />
Chính vì lẽ đó mà trong cuộc họp kỷ niệm 57 năm<br />
Chiến thắng Điện Biên Phủ vừa qua, mọi người đã nhất<br />
trí đến tháng Tám năm nay, trong không khí chào mừng<br />
kỷ niệm 66 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc Khánh<br />
2/9, chúng ta tổ chức họp mặt để chúc thọ, bày tỏ lòng<br />
biết ơn và học tập tấm gương sáng ngời của Đại tướng.<br />
Về thân thế và sự nghiệp của Đại tướng, chúng ta<br />
đều rõ; nhưng có thể nhiều đồng chí ít được biết về thời<br />
trẻ của ông. Điều may mắn là cách đây hơn 20 năm, tôi đã<br />
được Đại tướng kể cho nghe về thời niên thiếu của mình.<br />
Đại tướng nói:<br />
<br />
140 ÑAËNG ANH ÑAØO tuyeån choïn vaø giôùi thieäu<br />
“Tôi sinh ngày 25 tháng 8 năm 1911 trong một gia<br />
đình trung nông lớp dưới ở xã An Xá, huyện Lệ Thủy,<br />
tỉnh Quảng Bình , nay gọi là thôn An Xá, xã Lộc Thủy,<br />
huyện Lệ Thủy. Cha là Võ Quang Nghiêm, vừa dạy học<br />
vừa làm ruộng, cấy cày trên 2,5 mẫu công điền, cứ 3 năm<br />
xã chia lại một lần. Là một nhà Nho yêu nước, đêm đêm,<br />
dưới ánh sáng của ngọn đèn dầu, cha thường đọc bài vè<br />
“Thất thủ kinh đô”, tỏ lòng cảm phục Tôn Thất Thuyết,<br />
căm ghét Nguyễn Văn Tường. Mẹ tôi là Nguyễn Thị Kiên,<br />
cháu của một Lãnh binh Cần vương yêu nước. Bà thường<br />
kể cho tôi nghe cảnh chạy loạn vào sâu trong dãy Ngàn<br />
Sơn mỗi khi có giặc Tây ruồng bố.<br />
Lời của mẹ cha đã gieo rắc trong tôi lòng yêu nước<br />
và ghét Tây từ nhỏ. Lên bốn, năm tuổi, cha đã cho học<br />
cuốn “Ấu học tân thư” xuất bản thời vua Duy Tân, học<br />
“Vè Bà phó” trong có đoạn “Trấn thủ lưu đồn”. Đến nay<br />
tôi vẫn còn nhớ mấy đoạn như sau:<br />
Nghĩa là:<br />
“ Ngô Tổ Hồng Bàng thị<br />
<br />
Tổ ta là Hồng Bàng,<br />
<br />
Triệu Thủy Kinh<br />
<br />
Triệu Thủy Kinh<br />
<br />
Dương Vương…<br />
<br />
Dương Vương…<br />
<br />
Tích Kinh Bắc thuộc thì<br />
<br />
Sự tích thời Bắc thuộc<br />
<br />
Cựu sĩ dĩ nan vong…<br />
<br />
Mối nhục cũ khó quên…<br />
<br />
...<br />
<br />
...<br />
<br />
Chi Lăng tẩu Tống binh<br />
<br />
Chi Lăng đuổi quân Tống,<br />
<br />
Bạch đằng phá<br />
Nguyên sư…<br />
<br />
Bạch Đằng phá<br />
quân Nguyên…<br />
<br />
VOÕ NGUYEÂN GIAÙP qua lôøi keå cuûa nhöõng ngöôøi thaân 141<br />
<br />
Cha tôi là người khí tiết, đòi hỏi con cái phải nghiêm<br />
giữ gia phong. Cụ đặt tên tôi là Võ Nguyên Giáp, em trai<br />
là Võ Thuần Nho. Khi vào Huế học, tôi bỏ chữ Nguyên<br />
cho gọn, chỉ ghi tên là Võ Giáp. Khi tôi bị bắt vào tù, mật<br />
thám Pháp cũng ghi tên phạm nhân là Võ Giáp. Sau này<br />
cha biết được, bèn gọi về la mắng, yêu cầu tôi phải giữ<br />
chữ lót là Nguyên. Mãi đến năm 1935 tôi mới được ghi<br />
lại trong hồ sơ học bạ: Võ Giáp tức Võ Nguyên Giáp. Và<br />
tôi giữ tên này cho đến bây giờ.<br />
Thuở nhỏ tôi học trường Tổng (bao gồm nhiều xã)<br />
từ lớp Đồng ấu, Dự bị, đến lớp Yếu lược, tương đương<br />
lớp 1, 2, 3 cấp I ngày nay. Những ngày không học, thường<br />
theo cha đi thăm ruộng, kết hợp mò cua bắt cá. Sau lên<br />
học tiếp ở trường Huyện 3 năm (lớp nhì đệ nhất niên, lớp<br />
nhì đệ nhị niên và lớp nhất). Ở trường Tổng cũng như<br />
trường Huyện đều đứng đầu lớp. Năm 13 tuổi (1924) thi<br />
đỗ Thủ khoa trường Huyện.<br />
Quê tôi thời ấy đến ngày mùa thường có thuê<br />
phường gặt, ngày gặt ngoài đồng, tối về giã gạo, luôn<br />
miệng hát: “Khoan khoan hò khoan”. Do vậy mà tôi rất<br />
thuộc Hò giã gạo. Những năm mất mùa đói kém, nhà tôi<br />
phải đi vay thóc về giã mới có ăn. Sau mùa gặt hái, tôi<br />
cùng mẹ đi trả nợ, bị địa chủ Bá Hai ở Mỹ Lộc buộc phải<br />
đem thóc ra quạt mạnh cho bay hết hạt lép, cuối cùng chỉ<br />
còn lại hai phần ba. Mẹ tôi đành chịu, nhà nghèo lại càng<br />
nghèo, khiến lòng tôi vô cùng căm uất.<br />
Đỗ xong tiểu học, nhờ có hai chị ruột buôn thúng<br />
bán bưng, tôi có tiền đi Huế thi vào trường Quốc học,<br />
<br />
142 ÑAËNG ANH ÑAØO tuyeån choïn vaø giôùi thieäu<br />
nhưng thi hỏng phải về. Năm sau vào Huế tạm học trường<br />
tư, ở cùng nhà với anh Nguyễn Chí Diểu, người bạn thân<br />
nhất rồi trở thành người đồng chí chí cốt của tôi. Lên năm<br />
thứ ba, tôi được vào trường Quốc học, được ăn ở trong<br />
trường. Tôi bí mật đem sách báo vào đọc trộm. Nội trú<br />
thời ấy có tên giám thị rất độc ác, luôn rình mò học sinh<br />
như cú vọ. Tôi viết bài đả kích bằng tiếng Pháp: “À bas le<br />
tyran du Lycée” (Đả đảo tên độc tài trường Quốc học!).<br />
Trong những năm học ở Huế, tôi luôn đứng đầu<br />
lớp, cùng hai anh Nguyễn Chí Diểu và Nguyễn Khoa Văn<br />
(sau này lấy bút danh là Hải Triều) tham gia phong trào<br />
đấu tranh bảo vệ cụ Phan Bội Châu bị giặc Pháp đem về<br />
quản thúc tại đây. Thứ năm nào, ba người cũng lên thăm<br />
cụ Phan. Trên tường nhà, cụ treo cả ảnh Lênin, Tôn Dật<br />
Tiên, Thích Ca Mâu Ni. Cụ Phan rất thương chúng tôi,<br />
có lần cụ nói: “Sau này tủ sách của cụ sẽ để lại cho cậu<br />
Giáp”. Qua tủ sách cụ Phan, nhóm “Bến Ngự” chúng tôi<br />
được đọc báo “Người cùng khổ” và “Việt Nam hồn”. Có<br />
cuốn tập nào đẹp, chúng tôi đều dành để chép những bài<br />
ca yêu nước.<br />
Năm 1926, chúng tôi tham gia biểu tình đòi để tang<br />
cụ Phan Châu Trinh, tham gia bãi khóa chống việc đuổi<br />
học anh Nguyễn Chí Diểu. Bãi khóa xong, đến nhà thầy<br />
Võ Liêm Sơn; vào Sơn Trà, Mỹ Sơn quê đồng chí Phan<br />
Thanh. Thầy Võ Liêm Sơn là người đầu tiên dạy chúng<br />
tôi học chủ nghĩa Mác theo cuốn ABC du Marxisme do<br />
Nhà xuất bản Quốc tế ấn hành, dạy tại nhà riêng. Thầy<br />
Sơn khuyên tôi đi làm cách mạng.<br />
<br />