intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Thế giới nghệ thuật thơ Hàn Mặc Tử

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:201

300
lượt xem
60
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án Tiến sĩ Ngữ văn "Thế giới nghệ thuật thơ Hàn Mặc Tử" trình bày những nội dung về từ một quan niệm thơ lạ lùng đến một thế giới hình tượng ràng rịt và một loại hình thơ độc đáo. Mời các bạn tham khảo luận án để nắm bắt nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Ngữ văn: Thế giới nghệ thuật thơ Hàn Mặc Tử

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI CHU VĂN SƠN THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT THƠ HÀN MẶC TỬ Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số : 5.04.33 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Ngƣời hƣớng dẫn khoa học Giáo sƣ NGUYỄN ĐĂNG MẠNH Hà Nội 2001
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI CHU VĂN SƠN THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT THƠ HÀN MẶC TỬ Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số : 5.04.33 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Ngƣời hƣớng dẫn khoa học Giáo sƣ NGUYỄN ĐĂNG MẠNH Hà Nội 2001
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chƣa từng đƣợc ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác Tác giả luận án CHU VĂN SƠN
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1: TỪ MỘT QUAN NIỆM THƠ LẠ LÙNG… ........................................ 27 1.1. Quan niệm nghệ thuật của một nhà văn ................................................................ 27 1.2. Quan niệm thơ của Hàn Mặc tử ............................................................................ 29 1.2.2.1. Thơ Hoa trái của Đan Thƣơng ........................................................................ 32 1.2.2.2. Ngƣời thơ – Ngƣời khách lạ đi giữa nguồn trong trẻo ................................... 40 1.2.2.3. Việc làm thơ – Nàng đánh tôi đau quá, tôi bật ra tiếng khóc.......................... 46 CHƢƠNG 2: …ĐẾN MỘT THẾ GIỚI HÌNH TƢỢNG RÀNG RỊT… ..................... 53 2.1 TRỤC TƢ TƢỞNG XUYÊN SUỐT VÀ BAO TRÙM ........................................ 54 2.1.1 Tƣ tƣởng nghệ thuật của nhà văn ........................................................................ 54 2.1.2 Tƣ tƣởng xuyên suốt và bao trùm của Hàn Mạc Tử. .......................................... 57 2.2 Hình tƣợng cái tôi đau thƣơng: Mãnh liệt mà tuyệt vọng. ..................................... 70 2.2.1. Hình tƣợng cái Tôi trong thơ trữ tình. ............................................................... 70 2.2.2. Cái Tôi Đau thƣơng: Mãnh liệt mà Tuyệt vọng................................................. 72 2.3. Hình tƣợng Nàng Thơ Xuân tình mà Trinh khiết ................................................. 90 2.2.1. Hình tƣợng Nàng Thơ (hay Ngƣời tình của Hồn Thơ) trong thơ trữ tình. ........ 90 2.2.2 Nàng thơ Xuân Tình mà Trinh khiết. .................................................................. 94 2.4. HÌNH TƢỢNG THẾ GIỚI THÂN QUEN MÀ KÌ DỊ ...................................... 115 2.4.1. Hình tƣợng thế giới của một nhà thơ trữ tình. ................................................. 115 2.4.2. Hình tƣợng thế giới quen mà kì dị của Hàn Mặc Tử. ...................................... 116
  5. CHƢƠNG 3: ..... VÀ MỘT LOẠI HÌNH THƠ ĐỘC ĐÁO...................................... 145 3.1. Nguồn cảm xúc đặc thù của Thơ Điên: Đau Thƣơng ......................................... 148 3.2. Chủ thể của Thơ Điên: Một xác thân nhiều nhân cách ....................................... 151 3.3. Kênh hình ảnh tân kì của Thơ Điên: Những vẻ kì dị .......................................... 156 3.4. Mạch liên kết của Thơ Điên: Dòng tâm tƣ bất định ........................................... 164 3.5. Lớp ngôn từ nổi bật của Thơ Điên : Lớp từ cực tả ............................................. 173 KẾT LUẬN ................................................................................................................ 178 CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ.............................................................. 182 TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 183
  6. MỘT VÀI QUI ƢỚC 1. Về cái tên tác giả Hàn Mặc Tử, Hiện vẫn còn có sự bất đồng trong việc dung bút danh “Hàn Mặc Tử” hay “Hàn Mạc Tử”. Luận án dung “Hàn Mặc Tử” với lí do : đây là bút danh mà các bạn văn thân cận của ông nhƣ Chế Lan Viên, Quách Tân, Hoàng Diệp… khẳng định và Nguyễn Bá Tin, em trai của nhà thơ, cũng dung gọi anh mình một cách chính thức trong các công trình: “Thơ Hàn Mặc Tử”, “Đôi nét về Hàn Mặc Tử”, “Hàn Mặc Tử”, “Hàn Mặc Tử, anh tôi” và “Hàn Mặc Tử trong riêng tư”. 2. Về việc chọn văn bản thở khảo sát. Luận án chọn văn bản trong cuốn “Hàn Mặc Tử phê bình và tƣởng niệm” (Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1993) của nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ, với lí do đây là văn bản đầy đủ hơn cả, khắc phục đƣợc cả một số thiếu sót của những văn bản công bố trƣớc đó. Ngoài những phần trích khác có chú dẫn kèm theo, thì toàn bộ thơ Hàn Mặc Tử đƣợc dung khảo sát ở luận áo đền trong văn bản kể trên. 3. Về việc trình bày trích dẫn. Do đối tƣợng khảo sát là thơ, nếu toàn dẫn theo lối ngắt hàng thông thƣờng, thì số trang sẽ dôi lên quá nhiều. Cho nên ngoại một vài lần rất hạn chế trích theo lối ngắt dòng, ngƣời viết dẫn theo lối liền dòng, phân biệt các câu thơ bằng dấu gạch (/). Ví dụ : Sao anh không về chơi thôn Vĩ?/ Nhìn nằng hàng cau nắng mới lên…
  7. 1 MỞ ĐẦU I. MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA VÀ PHẠM VI CỦA ĐỀ TÀI : 1.1. Hàn Mặc tử (1912 – 1910) là một hiện tƣợng có sức ám ảnh vào bậc nhất của thơ ca Việt Nam hiện đại. Từ những ngƣời say mê đến cả những ngƣời không thể mê, ai đã từng một lần đọc, một lần biết về Hàn Mặc Tử, thì hầu nhƣ không thể quên nổi. Ám ảnh Hàn Mặc Tử là một phức hợp gồm nhiều mặt : một thân phận thơ đầy bất hạnh, một hồn thơ hết sức dị biệt và một nghiệp thơ vừa trong trẻo bí ẩn, vừa huyền diệu, ma quái … Bởi thế, trong phong trào Thơ Mới (1932 – 1945), nếu Xuân Diệu đƣợc xem là “mới nhất”, Nguyễn Bính là “quen nhất” ( “quê nhất” ? ), thì ngôi vị của Hàn Mặc Tử hẳn phải là “lạ nhất” và “phức tạp nhất”. Hàn Mặc Tử từng đƣợc ví nhƣ một vì sao chổi lạ xoẹt ngang bầu trời thơ ca Việt Nam, từng đƣợc mệnh danh là ngƣời “cai trị trƣờng thơ Loạn” của các nhà thơ Bình Định, một thi phái lẫy lừng của phong trào Thơ Mới, từng đƣợc tiên tri nhƣ một nhà cách tân duy nhất còn lại với thơ ca mai hậu – “Tôi xin hứa hẹn với các ngƣời rằng, những cái tầm thƣờng mực thƣớc sẽ biến tan đi, và còn ở lại cái thời kỳ này chút gì đáng kể đó là Hàn Mặc Tử” (Chế Lan Viên – Báo “Ngƣời mới”/23.11.1940 ). Không còn nghi ngờ gì mà Hàn Mặc Tử chính là một hiện tƣợng văn học sử có sức sống mãnh liệt, đang và sẽ luôn đòi hỏi đƣợc khám phá, chiếm lĩnh, nghiên cứu. 1.2. Việc ngƣời đời quan tâm đến thơ Hàn Mặc Tử cũng đáng xem là “lạ nhất”. Trƣớc hết, là một sức thu hút ghê gớm. Hiếm có nhà Thơ Mới nào lại khiến giới nghiên cứu tiêu tốn tâm sức và giấy mực nhiều đến thế. Tính riêng những chuyên luận, chuyên khảo bề thế, ở cả trong lẫn ngoài nƣớc, bằng cả tiếng Việt lẫn tiếng nƣớc ngoài, đã có tới gần hai chục công trình. Còn ở
  8. 2 những qui mô nhỏ hơn, nhƣ các tiểu luận trên sách báo và tạp chí, những ch giảng và bình giảng, chỉ tính số lƣợng trang in đã ngót nghìn trang. Thậm chí đã có cả một ngƣời tự nguyện hiến trọn cuộc đời mình cho mỗi một việc tìm kiếm, sƣu khảo những tƣ liệu xung quanh cuộc đời và thi nghiệp của Hàn Mặc Tử [ 158 ]. (Phải nhận rằng, đến nay, ngay cả Xuân Diệu – mới nhất trong các nhà Thơ Mới – cũng chƣa có đƣợc may mắn này ! ). Vụ kiện “Tùng lai chƣa từng có” đẩy một nhà thơ tên tuổi và một cây bút phê bình tiếng tăm phải tới điều trần trƣớc cửa quan, cũng chỉ xoay quanh việc trích thơ của Hàn Mặc Tử. Thứ đến, một sự phân hóa trái ngƣợc đã tới độ kỳ quái trong việc đánh giá. Ngƣời khen thì đề cao là thơ siêu Việt ( kể ra biết bao kiệt tác, tuyệt tác, tuyệt bút ) và tán phong Hàn Mặc Tử là thiên tài vô tiền khoáng hậu, kẻ chê lại mạt sát đến mức coi đó không phải là thơ, mà chỉ là những lời nhảm nhí, điên khùng của một kẻ lạc vào thế giới đồng bóng. Nhƣng “lạ nhất” vẫn là : đến nay công cuộc nghiên cứu Hàn Mặc Tử đã ngót nửa thế kỷ rồi (chỉ tính mốc từ công trình “Hàn Mặc Tử - thân thế và thi văn”, 1942, của Trần Thanh Mại) vậy mà ngƣời trong cuộc vẫn chƣa dám tự tin rằng đã hiểu thật sự. Dƣờng nhƣ ai cũng có cảm giác bị đối tƣợng chối từ. Chính xác hơn là : chƣa bƣớc qua lời mời mọc đã gặp sự cự tuyệt. Đối tƣợng cứ bƣớng bỉnh chuồi ra ngoài tầm tay. Đến nỗi, Chế Lan Viên, một bạn thân của Hàn Mặc Tử, một nhà thơ, một cây bút nghiên cứu bình luận về văn chƣơng cự phách, đƣơng thời đã quả quyết tiên tri về sự trƣờng tồn với thời gian của Hàn Mặc Tử, thế mà đến cuối đời vẫn không thôi ngơ ngác, phân vân với câu hỏi nổi tiếng : “Hàn Mặc Tử, anh là ai?”. Và nhà nghiên cứu Nguyễn Hoành Khung, ngƣời đã có nhiều dịp đề cập đến Hàn Mặc Tử, cho đến tận năm 1994, khi viết lời giới thiệu “Một mùa thơ nở rộ” cho Hợp tuyển thơ Việt Nam (1930 – 1915), bằng cách nối mềm mại những vần thơ khẳng định :”Thơ Hàn Mặc Tử hình nhƣ cho đến nay vẫn còn là một ẩn số” [12, 11].
  9. 3 Với một tình hình nghiên cứu nhƣ thế, thơ Hàn Mặc Tử chúng ta phải tiếp tục khám phá để ngày càng làm sáng tỏ hiện tƣợng rất đỗi phức tạp này. Việc đi sâu khám phá chẳng những góp phần tháo gỡ, khai thông những khúc mắc còn tồn đọng trên con đƣờng tiếp cận đối tƣợng, mà còn giúp vào việc làm chủ một di sản thi ca quý giá, cũng nhƣ góp phần khẳng định vị trí văn học sử xứng đáng của thi sỹ này. 1.3. Đúng là thế giới thơ của Hàn Mặc Tử dựng lên, bày ra trƣớc ngƣời ta nhƣ một “Cánh rừng nguyên sinh” (Chữ dùng của nhà nghiên cứu Nguyễn Thăng Long) vừa hết sức hấp dẫn, vừa sẵn sàng làm nản lòng ngƣời đến. Ngƣời ta đã tiến hành công cuộc chinh phục, khai phá từ nhiều phía, nhiều mảng, nhiều lối. Từ tổng thể vĩ mô là cả sự nghiệp thơ đến bộ phận, tiểu tiết vi mô với đơn vị bài, đơn vị câu, thậm chí đơn vị chữ [152]. Đối tƣợng mà luận án này tự giới hạn cho mình là : Thế giới nghệ thuật thơ Hàn Mặc Tử. Thế giới nghệ thuật là một cụm từ càng gần đây càng đƣợc sử dụng nhiều, cả trong đời sống cả trong học thuật. Nó đƣợc dùng khi con ngƣời có nhu cầu diễn đạt ý niệm về một cái chỉnh thể bên trong của sáng tác nghệ thuật (một tác phẩm, một loại hình tác phẩm, toàn bộ sáng tác của một tác giả, sáng tác trên một vệt thể loại xuyên suốt của một tác giả, một trào lƣu...). Có nhiều cách quan niệm về Thế giới nghệ thuật là một thế giới đƣợc tạo ra trong nghệ thuật. “Nó hoàn toàn khác thế giới thực tại vật chất hay thế giới tâm lí của con ngƣời dù nó phản ánh thế giới ấy”... Nói cách khác, “một thế giới nghệ thuật nhƣ một mô hình nghệ thuật trong việc phản ánh thế giới, ứng với một cách quan niệm về thế giới, một cách cắt nghĩa về thế giới” [99, 251]. Một thế giới nghệ thuật nhƣ thế bao gồm một Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời, một Không gian nghệ thuật riêng, một Thời gian nghệ thuật riêng, và một
  10. 4 Hình thức ngôn ngữ tƣơng ứng. Có ngƣời quan niệm thế giới nghệ thuật là một chỉnh thể bao gồm một quan niệm
  11. 5 ngôi sao chổi kì lạ. Ngôi sao đã yên nghỉ, nhƣng ánh sáng bí ẩn của nó không tắt, trái lại càng ngày càng rực chói hơn. Nghiệp thơ ấy, ánh sáng ấy khiến ngƣời đời không thể yên. Bởi thế, Hàn Mặc Tử luôn luôn là một câu đó, một mật mã, vừa cuốn hút vừa thách thức giới nghiên cứu phê bình suốt mấy chục năm qua là một điều dễ hiểu. Nhƣng, cái diện mạo bề bộn của việc nghiên cứu Hàn Mặc Tử lại không dễ hiểu chút nào. Bản thân đối tƣợng đã hết sức chông gai. Công việc tiếp cận đối tƣợng không phải lúc nào cũng thuận chèo mát mái. Mãi đến năm 1987, khi Nhà xuất bản Văn học ấn hành “Tuyển tập Hàn Mặc Tử”, nhà thơ Chế Lan Viên mới viết lời giới thiệu có cái nhan đề nổi tiếng “Hàn Mặc Tử, anh là ai?”. Tuy nhiên, có thể thấy rằng đó chính là câu hỏi then chốt nhất, bao trùm nhất, lúc nào cũng day dứt, cũng làm trăn trở giới nghiên cứu Hàn Mặc Tử suốt mấy chục năm qua. 2.1 VỀ THỜI GIAN. Nhìn theo thời gian, việc trả lời câu hỏi “Hàn Mặc Tử, anh là ai?” đã tập hợp thành cà một đội ngũ những nhà “Hàn học”. Nhìn chung đội ngủ này ngày một đông đảo. Nhƣng trên từng thời điểm, “Hàn học giới” khi ồn ào, khi thƣa vắng ; về khu vực, ở chỗ này đông đúc, chỗ khác lại lơ thơ. Điều này ít nhiều phản ánh số phận thăng trầm của di sản Hàn Mặc Tử nói riêng và thơ mới nói chung. Dƣới đây sẽ là những bao quát về mặt thời gian của việc nghiên cứu Hàn Mặc Tử nói chung, chƣa hẳn đã trực tiếp đến việc nghiên cứu “Thế giới nghệ thuật thơ Hàn Mặc Tử”. Đơn giản vì, dùng trực tiếp đến khái niệm Thế giới nghệ thuật này sẽ đƣợc xem xét trực tiếp hơn. Trên đại thể, lịch sử nghiên cứu Hàn Mặc Tử tự nó đã hình thành ba giai đoạn lớn với những mốc thời gian tƣơng đối xác định : Một là, trƣớc 1945, hai là từ 1945 – 1987, ba là từ 1987 đến nay.
  12. 6 2.1.1. Trƣớc 1945. Sáng tác Hàn Mặc Tử đƣợc quan tâm nhiều, đặc biệt rộ lên khi Hàn Mặc Tử qua đời (1940). Ý kiến đây đó có phân hóa, nhƣng đánh giá của giới nghiên cứu có phần nghiêng về khẳng định. Ngoài những bài báo in lẻ tẻ, có thể thấy các công trình phê bình nghiên cứu bề thế nhất đã đề cao Hàn Mặc Tử với các mức độ khác nhau, nhƣ “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh – Hoài Châu, “Nhà văn hiện đại” của Vũ Ngọc Phan, nhất là công trình “Hàn Mặc Tử, nhân thế và thi văn” của Trần Thanh Mại. (Đƣơng thời chƣa có một thi sĩ nào của Phong trào Thơ Mới đƣợc viết riêng thành một chuyên khảo lớn đến thế !). Báo “Ngƣời mới” cũng đã dành hẳn một số đặc biệt cho Hàn Mặc Tử với những lời đánh giá đầy tâm huyết và ngƣỡng mộ của bạn bè Hàn, mà phần đông đều là những thi sĩ lẫy lừng tên tuổi nhƣ Chế Lan Viên, Quách Tấn, Bích Khê, Hoàng Diệp, Yến Lan, Trọng Miên, Trần Thanh Dịch… 2.1.2. Từ 1945 đến 1987. Việc nghiên cứu Hàn Mặc Tử hình thành hai khu vực. Phía Bắc, do hoàn cảnh chiến tranh và quan điểm còn đƣơng ở giai đoạn trƣớc đổi mới, nên đội ngũ có phần vắng vẻ, việc đánh giá còn chật hẹp và khẳng định còn dè dặt. Những chuyên khảo lớn vắng bóng. Hàn Mặc Tử chỉ đƣợc nói đến nhƣ nhiều nhà Thơ Mới khác. Nếu có điều gì đặc biệt hơn thì đó là Hàn Mặc Tử là trƣờng hợp khá tiêu biểu cho bƣớc đƣờng sa sút suy đổi của Thơ Mới ở giai đoạn cuối. Có thể kể ra đây một số công trình thuộc khuynh hƣớng này : “Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại”, “Phỏng vấn Thơ Mới 1932 – 1945”, “Từ điển văn học”, “Giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam” v.v... Trong khi đó, ở phía Nam lại có phần rầm rộ đề cao Hàn Mặc Tử đã đến mức tột đỉnh. Hàn Mặc Tử đƣợc nhắc đến trong hàng loạt những công trình nghiên cứu quan trọng nhất của giới học thuật bấy giờ. Ở đâu, cái tên Hàn Mặc Tử cũng đƣợc choàng một vòng nguyệt quế. Thuộc vào số này là công trình nghiên cứu, biên khảo của Võ Long Tê, Thái
  13. 7 Văn Kiểm, Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Mộng Giác, Quáng Tấn, Đặng Tiến, Thanh Lãng, Nguyễn Tấn Long, Nguyễn Hữu Trọng, Nguyễn Văn Trung v.v... đặc biệt là Hoàng Diệp, một bạn thơ, thành viên của Trƣờng thơ Loạn ngày nào, với công trình phê bình “Hàn Mặc Tử” (1971) đƣợc giải thƣởng hội văn bút Việt Nam. Hai tờ tạp chí nghiên cứu văn chƣơng phát hành ở Sài Gòn cũng dàng hai số đặc biệt kỷ niệm Hàn Mặc Tử là “Tạp chí Văn học” (20.12.1964) và “Tạp chí Văn” (7.1.1967). Ở những công trình này, các vấn đề về cuộc đời, thân thế, thi pháp, hành trình sáng tạo của Hàn Mặc Tử đã đƣợc đặt ra, và nghiên cứu khá công phu, đã có không ít những khám phá quan trọng. Có thể nói, nhờ những công trình ấy mà câu hỏi “Hàn Mặc Tử, anh là ai?” đã đƣợc làm sáng tỏ khá nhiều điều. 2.1.3. Từ 1987 đến nay. Năm 1987 đối với Hàn Mặc Tử và giới nghiên cứu Hàn Mặc Tử thật sự là một cái mốc quan trọng. Không khí đổi mới đã giải phóng tƣ duy ở mức đáng kể. Thái độ đánh giá di sản cũ, nhất là Thơ văn lãng mạn đã cởi mở hơn rất nhiều. Nhiều nhà Thơ Mới đã đƣợc nhìn nhận theo một tinh thần mới. Lần đầu tiên “Tuyển tập Hàn Mặc Tử” đƣợc ấn hành trên toàn quốc. Nhà thơ Chế Lan Viên còn kịp viết một trong những lời giới thiệu cuối cùng và tâm huyết nhất cho ngƣời bạn thơ xấu số (Trong thƣ gửi toàn Ban thƣ kí Hội nhà văn, ngày 17.7.1988, Chế Lan Viên khẳng định rằng: “Tựa Hàn Mặc Tử cũng là đổi mới đầu tiên về vấn đề đánh giá siêu thực, về vai trò của đau thƣơng”). Từ đây, việc nghiên cứu Hàn Mặc Tử lại trở nên hƣng thịnh hơn bao giờ. Hàn Mặc Tử đƣợc đƣa vào giảng dạy ở nhà trƣờng phổ thông nhƣ một trong những gƣơng mặt sáng giá nhất của Phong trào Thơ Mới. đƣợc đƣa vào giảng dạy ở đại học nhƣ một tác gia của Văn học Việt Nam hiện đại. Thơ văn Hàn Mặc Tử đƣợc tái bản nhiều lần, với nhiều dạng thật phong phú. Những công trình sƣu tầm, hồi ký, chuyên khảo, chuyên luận, bình giảng đua nhau ra đời. Chƣa bao giờ Hàn Mặc Tử đƣợc đề cao đến nhƣ bây giờ.
  14. 8 Cùng với những lời ngợi ca, sùng bái là những cố gắng nhận diện Hàn Mặc Tử ở những chiều sâu mới. Hồi ký có “Hàn Mặc Tử, anh tôi” và “Hàn Mặc Tử trong riêng tƣ” của Nguyễn Bá Tin ngƣời em trai của thi sĩ. Rồi những mẩu hồi ức của Trần Thanh Dịch, Nguyễn Minh Vĩ, Phạm Hổ, Võ Đình Cƣờng... những bạn cũ của nhà thơ, hoặc nhân thân của những ngƣời từng “liên quan” đến Hàn thi sĩ. Sƣu tầm có “Hàn Mặc Tử, Hƣơng thơm và Mật đắng” của Trần Thị Huyền Trang, “Đi tìm chân dung Hàn Mặc Tử” của Phạm Xuân Tuyển, “Hàn Mặc Tử, thơ văn và giai thoại” của Hà Vinh – Mã Giang Lân. Truyện luận – phê bình có các công trình của Vƣơng Trí Nhân, Lại Nguyên Ân, Hoàng Nguyễnọc Hiến, Phan Cự Đệ, Đỗ Lai húy, Nguyễn Quân, Nguyễn Tri Nguyên, Phạm Xuân Nguyê, Phan Quỳnh Nga, Hồ Thế Hà v.v...Giảng bình tác phẩm có hàng loạt công trình của Nguyễn Đăng Mạnh, Lê Trí Viên, Hoàng Trinh, Văn Tâm, Vũ Quần Phƣơng, Phạm Hổ, Cao Xuân Thử, Văn Giá, Ngô Văn Phú, Trinh Đƣờng, La Khắc Hòa, Lê Bá Hán, Mã Giang Lan, Trần Đẵnguuyền, Mai Văn Hoan, Nguyễn Nhật Huy, Lê Quang Hƣng, Lê Bảo, Tuệ Quang v.v... 2.2. VỀ CÁC KIỂU TIẾP CẬN. Để trà lời câu hỏi “Hàn Mặc Tử, anh là ai?” ngƣời ta đã huy động hầu khắp các lối tiếp cận mà khoa nghiên cứu văn học vẫn vận dụng để khám phá văn chƣơng. Nội điều này đủ thấy nỗ lực lớn lao của giới “Hàn học” trong việc chiếm lĩnh đối tƣợng. Trên thực tế, ít có công trình nào chỉ dùng riêng một phƣơng pháp, một phép đọc. Phối hợp liên phƣơng pháp có lẽ là ý muốn của cả những ngƣời nghiên cứu lẫn đối tƣợng tiếp cận. Tuy nhiên, vẫn có thể thấy rằng trong khi phối hợp nhiều kiểu tiếp cận, thì từng công trình vẫn dành ƣu thế cho một kiểu chủ đạo, nổi trội nào đó. Ở đây, luận án chỉ đề cập những kiểu tiêu biểu. Không thể nói là đã thâu tóm đƣợc tất cả.
  15. 9 2.2.1. Kiểu tiếp cận ấn tƣợng chủ quan. Không phải thuyết minh, cũng có thể thấy đó là lối tiếp cận của Hoài Thanh và Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam (1932 – 1941). Dựa vào ấn tƣợng chủ quan của cá nhân mình, “Lấy hồn tôi để hiểu hồn ngƣời”, các tác giả này đã sắp xếp các tập thơ của Hàn Mặc Tử theo trật tự thời gian và ghi lại ấn tƣợng của mình trƣớc từng tập kế tiếp ấy. “Bây giờ đã ra khỏi cái thế giới kỳ dị ấy và đã trở về với cuộc đời tầm thƣờng mà ý nhị, tôi thử sắp xếp lại những cảm tƣởng hỗn độn của tôi”. Vì lấy thƣớc đo bằng kinh nghiệm cá nhân để đối chiếu với kinh nghiệm của thi sĩ, rồi lại qui tụ ấn tƣợng vào những câu đặc sắc nhất, nên lối tiếp cận này đã giúp hai nhà phê bình lấy ra đƣợc những câu thơ hay “đọc lên nhƣ rƣới vào hồn những nguồn sáng láng”, bởi ở đó chứa đựng “những cảm giác mà ta có thể có”. Còn thì “Ta rùng mình, ngơ ngác”. Nhƣ vậy, thế giới nghệ thuật Hàn Mặc Tử, trong quan niệm của tác giả “Thi nhân Việt Nam” chỉ là một tập hợp những cảnh sắc đƣợc xếp kế tiếp bởi các tập thơ mà chƣa hình dung về mọi liên hệ nội tại cũng nhƣ cấu trúc toàn vẹn của nó. Nói cho đúng, khi tìm kiếm những ảnh hƣởng của các trƣờng phái thơ ca Phƣơng Tây vào Thơ Mới, Hoài Thanh và Hoài Chân có đề cập đến hành trình qua các tập thơ của Hàn Mặc Tử về phƣơng diện xu hƣớng :”(...) Chế Lan Viên đã đi từ Bandeclaire, Edgar Poe đến Thơ Đƣờng và đi thêm một đoạn nữa cho gặp Thánh Kinh của đạo Thiên chúa”. Đó cũng là một sự biến chuyển trong hành trình thơ ca Hàn Mặc Tử nhìn tổng thể. Dù sao đó cũng chƣa hẳn là vận động nội tại của thế giới nghệ thuật. Cố gắng khách quan hơn, có đƣa ra những tiêu chí mang tính khoa học hơn, nhƣng về căn bản lối tiếp cận của Vũ Ngọc Phan trong phần viết về Hàn Mặc Tử ở cuốn “Nhà văn hiện đại” cũng là trực cảm, cũng là những ấn tƣợng chủ quan. Tác giả ghi lại những cảm nhận của mình về “những thi hứng”, “Lời
  16. 10 thơ ông, ý thơ ông”, “những cảnh chết chóc rùng rợn”, “những nhạc điệu”, v.v... Nghĩa là thế giới nghệ thuật Hàn Mặc Tử đƣợc nhìn nhận theo lối phân lập ra từng yếu tố riêng lẻ, cục bộ, chứ không đƣợc nhìn nhận nhƣ một chỉnh thể chặt chẽ. Bởi thế, nhà nghiên cứu có đƣợc những đánh giá rất đáng chú ý nhƣ “Hàn Mặc Tử có những thi hứng rất dồi dào, nhƣng thơ ông phần nhiều khúc mắc, nhạc điệu trong thơ ông hình nhƣ không phải là phần quan hệ, lời thơ ông nhiều khi rất thô” hay “bên cạnh những bài tầm thƣờng, ngƣời ta thấy dƣới ngòi bút ông những bài tuyệt tác” [ 115, 209 ]. Tuy nhiên, đó cũng là những đánh giá về các thành tố rời, những bình diện lẻ, chứ không phải là sự tiếp cận vào thế giới nghệ thuật nhƣ một kiến trúc toàn vẹn. Về phƣơng diện chỉnh thể, tuy “Nhà văn hiện đại” đƣợc viết sau, nhƣng lại chƣa có đƣợc một ý niệm về thế giới thơ, dù chỉ lờ mờ tự phát nhƣ trong “Thi nhân Việt Nam”. 2.2.2. Tiếp cận theo phƣơng pháp tiểu sử và phân tâm học. Nghiên cứu văn học từ góc độ Phân tâm học không còn là một hƣớng đi mới mẻ. Hƣớng tiếp cận này xem hoạt động sáng tạo nhƣ sự thăng hoa của những xung lực tâm lí có tính khởi thủy và của những ham muốn bị dồn nén bởi không đƣợc thỏa mãn trong thực tại, phải tìm cách giải thoát và thỏa mãn ở lĩnh vực huyễn tƣởng. Nhiều khi sáng tạo đƣợc xem nhƣ là biểu hiện những xung đột bi kịch của những ham muốn vô thức với những thế lực cấm đoán về mặt xã hội hoặc đạo đức [8, 257]. Xem xét những biểu tƣợng trở đi trở lại với mật độ dày trong sáng tác Hàn Mặc Tử nhƣ là những “phóng chiểu” nhƣng “giải thoát” của một số ẩn ức bên trong của thi sĩ, coi thơ Hàn là “sự chế ngự tài tình nhƣng dồn ép để rồi phát tiết ra những bài thơ cao đẹp”, đó là lối tiếp cận và những thao tác phổ biến trong các công trình của Nguyễn Mộng Giác (Hàn Mặc Tử và sự sáng tạo cuồng nộ). Đào Trƣờng Phúc (Hàn Mặc Tử, trăng và thơ), Bùi Xuân
  17. 11 Bảo (Thi ảnh khẩu cảm trong thơ Hàn Mặc Tử), Nguyễn Kim Chƣơng ( Hàn Mặc Tử đau thƣơng và sáng tạo). Lê Huy Oanh ( Đọc lại “Chơi
  18. 12 giữa mùa trăng” của Hàn Mặc Tử ). Thậm chí cả Nguyễn Bá Tín khi viết hồi kí, lúc nhận diện thơ của anh trai mình cũng tiếp cận theo lối này (Hàn Mặc Tử, anh tôi và Hàn Mặc Tử trong riêng tƣ) v.v.. Song, ngƣời đầu tiên vận dụng lối tiếp cận này phải kể đến là Trần Thanh Mại. Trong công trình “Hàn Mặc Tử, thân thể và thi văn”, nhà nghiên cứu đã tái dựng tiểu sử Hàn Mặc Tử với những chặng đời chính, rồi sắp đặt các tập thơ tƣơng ứng với những quãng đời ấy. Mặc nhiên coi các thi phẩm kia là sản phẩm trực tiếp của mỗi bƣớc đƣờng đời thi sĩ và các biểu tƣợng thi ca cũng ra đời từ những ẩn ức sâu kín của hồn thơ này, bởi tác động khủng khiếp của bệnh phong. Nhờ đó mà có lẽ Trần Thanh Mại là ngƣời đầu tiên phát hiện ra ảnh hƣởng của chiêm bao trong thơ Hàn Mặc Tử: “Một phần nửa trong thi ca Hàn Mặc Tử là chịu đựng ảnh hƣởng của chiêm bao” [81, 61], có lẽ cũng là ngƣời đầu tiên khám phá ra Trăng. Hồn nhƣ là những biểu tƣợng có sức ám ảnh lớn đối với thi ca Hàn Mặc Tử. Hoàn toàn có thể khẳng định rằng : trƣớc 1945, “Hàn Mặc Tử, Thân thế và thi văn” là công trình có tầm cỡ nhất trong công cuộc nghiên cứu di sản Hàn Mặc Tử, không phải là công phu hay khối lƣợng trang in, mà ở những cơ chế bên trong của sáng tạo thơ ca Hàn Mặc Tử. Ở hai tác giả trên kia, việc tiếp cận nghiêng về chia cắt, tách rời. Các tập thơ đƣợc nhìn nhận khá biệt lập với nhau. Thì Trần Thanh Mại có chú ý ít nhiều đến mối liên hệ bên trong giữa các tập thơ, khi nhìn nhận cái cây sẽ mọc ở các tập sau đã thấy gieo mầm dây đó ở tập trƣớc “Cái mùi hƣơng ở ĐAU THƢƠNG và XUÂN NHƢ Ý đã phảng phất ở đấy rồi. Và đọc một bài nhƣ “Bẽn lẽn” của GÁI QUÊ rồi, thì về sau ta cũng không lạ gì mà có đƣợc viên ngọc vô ngần quý giá nhƣ ở “Đà Lạt trăng mờ”, “Huyền ảo” hay “Đây thôn Vỹ Dạ” [84, 44]/ Tiếc rằng, Nhà nghiên cứu đã không xem mối liên hệ bên trong một cách toàn diện và không quán triệt điều này nhƣ một yếu tố then chốt tạo nên tính chỉnh thể cho một hành
  19. 13 trình nghệ thuật. Bởi vậy, thế giới nghệ thuật về căn bản vẫn chƣa thực sự hiện diện trong quan niệm của nhà nghiên cứu này. Thừa hƣởng khá nhiều thành quả của những ngƣời đi trƣớc, nhất là của Trần Thanh Mại, Huỳnh Phan Anh một ngƣời gắn kết thơ hết sức chặt chẽ với tiểu sử ở bình diện thời gian, còn một ngƣời gắn thơ với kinh nghiệm tồn vong, cũng là một thứ tiểu sử trên bình diện tâm thức chung nhất, Nguyễn Tân Long, trong “Việt Nam thi nhân tiền chiến” (quyển hạ), về thực chất là phối hợp hai thiên hƣớng tiếp cận đó. Ông khẳng định :”Cuộc đời của thi nhân có liên hệ đến cuộc đời của thi phẩm nhƣ hình với bóng, không thể tách rồi hoặc cắt ra từng khúc đƣợc”. Và “Thi phẩm cũng chỉ là một cuộc đời của tình cảm núp sau cuộc sống hiện hữu”. Từ đó, tác giả đi đến một quan niệm đáng lƣu ý, nhìn từ phía luận án này : ông cho rằng cuộc đời thơ của Hàn Mặc Tử là “cuộc đời tình cảm”, nó nhƣ một chỉnh thể. Và ông chia cái chỉnh thể ấy thành ba thời kì liên hệ móc xích vừa hữu cơ vừa phân liệt:”Chúng tôi chia cuộc đời tình cảm của thi nhân làm ba thời kì : Thời kì bình thản, Thời kì dao động và thời kì xoa dịu” [81, 313]. Cái nhìn chỉnh thể của Nguyễn Tấn Long, về thực chất là đồng dạng với Hoài Thanh và Hoài Chân và Trần Thanh Mại. Nghĩa là chỉnh thể chủ yếu trên bình diện thời gian. Nếu các tác giả “Thi nhân Việt Nam” có phần nghiêng về hành trình của loại hình thi ca, tác giả “Hàn Mặc Tử, thân thế và thi văn” nghiêng về hành trình thân phận, thì ngƣời viết quyển hạ, bộ “Việt Nam thi nhân tiền chiến” lại nghiêng về hành trình tình cảm. Vận động trong thời gian một bình diện không thể không tính đến của một thế giới nghệ thuật hoàn chỉnh. Ngƣời viết luận án chẳng những cần xem đây là một bƣớc khám phá nội dung cần kế thừa mà còn coi đó là một tham khảo gần gũi về phƣơng pháp. Nhƣng dầu sao lịch đại cũng chỉ là một bình diện phƣơng pháp, nó còn đƣợc bổ sung bằng những bình diện khác nữa.
  20. 14 2.2.3. Kiểu tiếp cận xã hội học Mác xít. Có thể xem đây là lối tiếp cận chủ đạo của các công trình nghiên cứu phía Bắc khoảng từ 1945 đến 1987. Tiêu biểu là các Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, các từ điển văn học và các Công trình nghiên cứu về thơ Hiện đại và Thơ Mới. Đáng kể nhất là những chuyên luận của tác giả Phan Cự Đệ. Trong cuốn “Phong trào Thơ Mới 1932 – 1945”. Tác giả này không nghiên cứu riêng Hàn Mặc Tử mà xem xét Hàn Mặc Tử trong trào lƣu Thơ Mới nói chung. Tuy nhiên những đánh giá về Hàn Mặc Tử lại là phần hết sức nổi trội và tiêu biểu cho lối tiếp cận này. Kiểu tiếp cận xã hội học Mác xít quan niệm một hiện tƣợng văn học trƣớc hết là một hiện tƣợng thuộc ý thức xã hội. phát ngôn văn học đƣợc xem nhƣ một phát ngôn gián tiếp và trực tiếp của ý thức xã hội chính trị của ngƣời viết. Bởi thế, xem xét Hàn Mặc Tử, nhà nghiên cứu cũng muốn tìm kiếm một trục tƣ tƣởng xuyên suốt sự nghiệp thơ ca của thi sỹ. Tiếc rằng những quan niệm nghệ thuật trƣờng bị đánh đồng với quan điểm xã hội chính trị nên Hàn Mặc Tử bị xem nhƣ một hiện tƣợng suy đồi tiêu biểu của Thơ Mới. “Cuối thời kì thứ nhất đã thấy những dấu hiệu suy đồi của thời kỳ thứ hai: “Đau thƣơng” (Hàn Mặc Tử) Xác thu (Hoàng Diệp); 1939 Tinh huyết (Bích Khê) Xuân nhƣ ý của Hàn Mặc Tử”, “Hàn Mặc Tử là dấu nối giữa thời kỳ thứ nhất và thời kỳ suy đồi. – CVS) thứ hai [34, 51]/ Điều đáng là bƣớc sang thời kỳ đổi mới, tác già này cũng đã có một thay đổi hoàn toàn và kịp thời trong cách đánh giá về hiện tƣợng Hàn Mặc Tử. Trong công trình “Thơ văn Hàn Mặc Tử ( phê bình và tƣởng niệm)” đƣợc biên soạn công phu, nghiêm túc, với nhiều tƣ liệu quí hiếm mà nhiều công trình khác cũng chƣa sƣu tầm đƣợc. Giáo sƣ Phan Cự Đệ cũng có một bài tiểu luận dày dặn riêng về Hàn Mặc Tử, với nhan đề “Hàn Mặc Tử sống mãi với thời gian”. Vẫn trung thành với lối tiếp cận xã hội học Mác xít, nhƣng với các nhìn cởi mở hơn rất nhiều, với tấm lòng rộng rãi hào phóng, có thể nói công
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2