intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án tiến sĩ Sử học: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện bình đẳng giới từ năm 2006 đến năm 2016

Chia sẻ: Phong Tỉ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:185

98
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án được nghiên cứu với mục tiêu nhằm làm sáng tỏ những quan điểm, chủ trương và quá trình chỉ đạo thực tiễn của Đảng Cộng sản Việt Nam về thực hiện bình đẳng giới. Từ đó, đ c kết một số kinh nghiệm qua thực tiễn lãnh đạo thực hiện bình đẳng giới những năm 2006 - 2016 của Đảng nhằm tiếp tục thực hiện tốt hơn bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án tiến sĩ Sử học: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện bình đẳng giới từ năm 2006 đến năm 2016

  1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THỊ CHIÊN ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG GIỚI TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2016 LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HÀ NỘI - 2019
  2. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THỊ CHIÊN ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG GIỚI TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2016 LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM Mã số: 62 22 03 15 NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC 1. PGS,TS. TRIỆU QUANG TIẾN 2. PGS,TS. TRẦN THỊ VUI HÀ NỘI - 2019
  3. i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả Trần Thị chiên
  4. ii MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 7 1.1. Những công trình khoa học liên quan đến đề tài luận án 7 1.2. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố liên quan đến đề tài luận án và những vấn đề luận án tập 27 trung nghiên cứu Chƣơng 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THỰC HIỆN 31 BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở VIỆT NAM 2.1. Một số vấn đề lý luận 31 2.2. Cơ sở thực tiễn về thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam 43 Chƣơng 3. CHỦ TRƢƠNG VÀ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ THỰC HIỆN BÌNH 63 ĐẲNG GIỚI TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2016 3.1. Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam 63 3.2. Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ đạo thực hiện bình đẳng giới 73 Chƣơng 4. NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM 109 4.1. Nhận xét về quá trình lãnh đạo của Đảng và kết quả thực hiện 109 bình đẳng giới từ năm 2006 đến năm 2016 4.2. Một số kinh nghiệm của Đảng về lãnh đạo thực hiện bình đẳng 137 giới từ năm 2006 đến năm 2016 KẾT LUẬN 148 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN 151 QUAN ĐẾN LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152 PHỤ LỤC
  5. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, sự tiến bộ của con người được xem là tiêu chuẩn cao nhất của sự phát triển xã hội. Sự phát triển xã hội đòi hỏi phải đem lại công bằng, bình đẳng cho mọi người (nam và nữ) trong cơ hội, điều kiện cống hiến cũng như hưởng thụ các thành quả của phát triển. Vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm đến việc phát triển nguồn lực con người; “đặt con người vào trung tâm của sự phát triển”. Đảng coi chiến lược phát triển nguồn lực con người là “chiến lược của các chiến lược”; coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển; coi việc phát triển nguồn lực con người là nhân tố quyết định đến thành công của công cuộc đổi mới và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay. Thực hiện bình đẳng giới sẽ góp phần quan trọng vào việc giải phóng lực lượng sản xuất, khai thác và phát huy một cách có hiệu quả lao động nữ, đảm bảo cho sự phát triển, tiến bộ của xã hội và tiến tới đạt mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ở Việt Nam hiện nay, phụ nữ ngày càng khẳng định được vị trí, vai trò của mình. Họ không chỉ tham gia công tác quản lý, tham gia tích cực vào mọi hoạt động xã hội, sản xuất có hiệu quả mà còn làm phần lớn công việc gia đình. Mặc dù có sự đóng góp lớn cho sự phát triển, nhưng trên thực tế, những cống hiến của phụ nữ chưa được thừa nhận đầy đủ. Phụ nữ còn chịu nhiều thiệt thòi trong phát triển cá nhân; là nạn nhân của nhiều vấn đề gây nhức nhối và bức xúc trong xã hội. Sự hạn chế về cơ hội phát triển ở phụ nữ không chỉ làm giảm sút phúc lợi gia đình và xã hội, cản trở việc phát huy nguồn lực con người mà còn tạo ra những bất ổn định trong xã hội và gián tiếp cản trở thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việc giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới, phát huy tiềm năng của phụ nữ là đòi hỏi khách quan và bức thiết của sự phát triển xã hội.
  6. 2 C ng với việc tập trung lãnh đạo phát triển kinh tế, Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng nhận thức rõ hơn, đầy đủ hơn về vị trí, vai trò của việc thực hiện chính sách xã hội nhằm cải thiện đời sống nhân dân, trong đó có việc quan tâm đến việc hoạch định chủ trương, chính sách, pháp luật về bình đẳng giới nhằm tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia vào các vị trí lãnh đạo, quản lý, được bình đẳng trong cơ hội, cống hiến và hưởng thụ các thành quả của xã hội và được bình đẳng giới trong gia đình. Tuy nhiên, trong xã hội, những định kiến về giới vẫn còn tồn tại khá phổ biến không chỉ trong nam giới mà ngay trong chính bản thân phụ nữ. Định kiến giới mặc định nam giới là trụ cột trong gia đình và ngoài xã hội còn phụ nữ luôn gắn với công việc nhà, nội trợ, chăm sóc con cái và gia đình. Những định kiến đó tạo ra không ít những rào cản, mâu thuẫn, thách thức làm hạn chế vị thế, vai trò của nữ giới. Đó là những rào cản về mặt tâm lý xã hội trong nhìn nhận, đánh giá năng lực, vị thế... của phụ nữ; là mâu thuẫn giữa việc thực hiện các vai trò, chức năng làm vợ, làm mẹ trong gia đình với vai trò, trách nhiệm của người công dân, người lao động trong xã hội; mâu thuẫn giữa yêu cầu ngày càng cao, càng gay gắt của cơ chế thị trường trong xu thế toàn cầu hóa với những hạn chế về sức khỏe, kiến thức, kỹ năng, trình độ chuyên môn kỹ thuật, nắm bắt công nghệ cao của một bộ phận nữ giới. Tư tưởng đó đã tạo ra cách nhìn lệch lạc về vai trò của nam giới và nữ giới, dẫn đến thiếu sự chia sẻ của nam giới với phụ nữ trong công việc gia đình và các hoạt động xã hội, đồng thời hạn chế sự phát triển năng lực cá nhân của phụ nữ. Những hạn chế đó đã và đang gây cản trở việc thực hiện chính sách, pháp luật về bình đẳng giới, phát huy nguồn lực lao động nữ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và trở thành vấn đề cấp thiết, đòi hỏi Đảng và các cấp chính quyền phải giải quyết một cách có hệ thống trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Từ những lý do nêu trên, nghiên cứu sinh chọn đề tài “Đả sả t ạo thực hi bì ẳng giới từ ă 2006 ế ă 2016” làm luận án Tiến sĩ, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
  7. 3 2. Mục đ ch, nhiệ vụ nghi n cứu 2.1. Mụ Thông qua việc nghiên cứu đề tài “Đả sả t ạo thực hi bì ẳng giới từ ă 2006 ế ă 2016”, làm sáng tỏ những quan điểm, chủ trương và quá trình chỉ đạo thực tiễn của Đảng Cộng sản Việt Nam về thực hiện bình đẳng giới. Từ đó, đ c kết một số kinh nghiệm qua thực tiễn lãnh đạo thực hiện bình đẳng giới những năm 2006 - 2016 của Đảng nhằm tiếp tục thực hiện tốt hơn bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay. 22 vụ - Tổng quan các công trình nghiên cứu về giới, bình đẳng giới nói chung và bình đẳng giới trên các lĩnh vực chính trị; kinh tế, lao động, việc làm; gia đình nói riêng. - Hệ thống hóa những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam nữ và các yếu tố tác động đến quá trình Đảng lãnh đạo thực hiện bình đẳng giới từ năm 2006 đến năm 2016. - Phân tích, luận giải hệ thống những quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng và quá trình Đảng chỉ đạo thực hiện bình đẳng giới từ năm 2006 đến năm 2016. - Đưa ra những nhận xét, đánh giá khách quan, khoa học về những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của quá trình lãnh thực hiện bình đẳng giới từ năm 2006 đến năm 2016. - ước đầu đ c kết một số kinh nghiệm từ thực tiễn quá trình Đảng lãnh đạo thực hiện bình đẳng giới từ năm 2006 đến năm 2016. 3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 3 1 Đố tượng Luận án tập trung nghiên cứu chủ trương và sự chỉ đạo thực hiện bình đẳng giới của Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 2006 đến năm 2016.
  8. 4 3.2. Phạm vi - Về thời gian: Giới hạn nghiên cứu của luận án từ năm 2006 đến năm 2016. Năm 2006 là năm Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 10 thông qua Luật Bình đẳng giới ở Việt Nam. Đây là mốc đánh dấu lần đầu tiên Nhà nước Việt Nam ban hành bộ luật riêng về vấn đề bình đẳng giới. Năm 2016 là mốc tròn 10 năm Luật Bình đẳng giới được ban hành. Tuy nhiên, lịch sử là một quá trình liên tục nên luận án đã đề cập đến tình hình thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam trước năm 2006. - Về không gian: Luận án nghiên cứu quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện bình đẳng giới trên phạm vi cả nước. - Về nội dung: + ình đẳng giới thực chất không chỉ là việc giữa hai giới nam và nữ mà nó còn bao gồm cả trẻ em, nhóm người khuyết tật, cộng đồng những người LGBT (LGBT là tên viết tắt của cộng đồng những người đồng tính luyến ái nữ (Lesbian), đồng tính luyến ái nam (Gay), song tính luyến ái (Bisexual) và hoán tính hay còn gọi là người chuyển giới (Transgender)... Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của luận án, nghiên cứu sinh chỉ tập trung làm rõ bình đẳng giới giữa hai giới nam và nữ. + Đây là đề tài lớn, với nhiều nội dung phong ph . Trong khuôn khổ luận án và điều kiện nghiên cứu, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về bình đẳng giới, quá trình Đảng chỉ đạo xây dựng khung pháp lý về bình đẳng giới; lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong chiến lược, chương trình, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế xã hội; xây dựng, kiện toàn bộ máy cơ quan quản lý Nhà nước và nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ hoạt động làm công tác bình đẳng giới; công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bình đẳng giới; xây dựng và duy trì các mô hình cung cấp dịch vụ, hỗ trợ bình đẳng giới; hoạt động hợp tác quốc tế về bình đẳng giới; công tác thống kê, công bố thông tin, số liệu về bình đẳng giới và
  9. 5 công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới cũng như kết quả thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam từ năm 2006 đến năm 2016 trên 3 lĩnh vực: chính trị; kinh tế, lao động, việc làm; gia đình và kết quả của quá trình đó. 4. Cơ sở u n, hƣơng h nghi n cứu 41 s u Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng về giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam nữ và bình đẳng giới. 42 P ư p áp ê ứu Phương pháp mà nghiên cứu sinh sử dụng chủ yếu trong luận án là phương pháp lịch sử và lôgic. Ngoài ra, một số phương pháp khác cũng được nghiên cứu sinh sử dụng trong quá trình nghiên cứu như: + Phương pháp tổng hợp và phân tích, được nghiên cứu sinh sử dụng trong quá trình thu thập và đánh giá các nguồn tài liệu: các văn kiện của Đảng và Nhà nước; các công trình nghiên cứu về bình đẳng giới đã được công bố trong và ngoài nước;... + Phương pháp thống kê được dùng trong quá trình xử lý các số liệu trong các báo cáo thường niên của Chính phủ và các tổ chức chính trị - xã hội... 5. Đ ng g ới về h a học v ngh a thực tiễn của u n n - Góp phần hệ thống hóa sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng về bình đẳng giới từ năm 2006 đến năm 2016. - Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam, luận án rút ra nhận xét về ưu điểm, hạn chế trên ba lĩnh vực: nhận thức, chỉ đạo thực tiễn, kết quả thực hiện và bước đầu đ c kết một số kinh nghiệm qua thực tiễn quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện bình đẳng giới từ năm 2006 đến năm 2016
  10. 6 - Cung cấp thêm cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và chương trình hành động thực hiện chiến lược bình đẳng giới của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 6. Bố cục của u n n Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục các công trình đã công bố của tác giả liên quan đến luận án, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, Nội dung của luận án gồm 4 chương, 9 tiết.
  11. 7 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ình đẳng giới là một trong những vấn đề thu h t sự quan tâm của các nhà lãnh đạo, quản lý, của các tổ chức Chính phủ và phi chính phủ, của các nhà khoa học trong và ngoài nước. Ngay từ khi thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức được vị trí, vai trò của phụ nữ và công tác bình đẳng giới. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về phụ nữ, về giới chỉ được đặt ra và giải quyết như một môn khoa học khi Trung tâm nghiên cứu phụ nữ ra đời năm 1987. Dưới những góc độ nghiên cứu khác nhau, cho đến nay, nhiều công trình khoa học, bài viết đã đề cập tương đối toàn diện về vấn đề này. Liên quan trực tiếp đến luận án có thể khái quát thành mấy nhóm cơ bản sau: 1.1.1. Nhóm các công trình nghi n cứu chủ ngh a M c - L nin, tƣ tƣởng Hồ Ch Minh, đƣờng ối của Đảng, ch nh s ch của Nh nƣớc về vấn đề giới v bình đẳng giới Cuốn sách Thành tựu bảo vệ và phát triển quyền con người ở Việt Nam, ộ ngoại giao Việt Nam [21], được coi là “sách trắng về vấn đề nhân quyền” ở Việt Nam vì lần đầu tiên những thành tựu về nhân quyền ở Việt Nam được công bố. Cuốn sách gồm 4 chương, trong đó dành phần lớn dung lượng để nêu lên các quan điểm, chính sách của Việt Nam về quyền con người và những thành tựu quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người về dân sự và chính trị; về kinh tế, văn hóa và xã hội; về phụ nữ, chăm sóc và bảo vệ trẻ em, gia đình, người già, người tàn tật. Trong những thành tựu mà cuốn sách đề cập đến, có thành tựu bảo đảm quyền của phụ nữ, xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ. Cuốn sách Những vấn đề giới - từ lịch sử đến hiện đại, Phan Thanh Khôi - Đỗ Thị Thạch (Đồng chủ biên) [94], là công trình của tập thể các nhà khoa học
  12. 8 của Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Cuốn sách đã phân tích vấn đề giới nói chung và bình đẳng giới nói riêng trong lịch sử nhân loại và Việt Nam. Cùng với việc đề cập đến vấn đề giới trong truyền thông và Internet, vấn đề giới trong sách giáo khoa giáo dục phổ thông, cuốn sách đã phân tích vấn đề giới trong những tác phẩm kinh điển của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh; đồng thời, dành một dung lượng đáng kể nghiên cứu vấn đề giới trong đường lối, chính sách pháp luật của của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Cuốn sách Phụ nữ Việt Nam trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và công cuộc đổi mới đất nước, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam [79], làm rõ vị trí, vai trò và sức mạnh to lớn của phụ nữ Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1930 đến năm 2007; đồng thời, cuốn sách cũng nêu bật những quan điểm của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với phụ nữ và phong trào phụ nữ. Trên cơ sở nghiên cứu những đóng góp to lớn của phụ nữ, cuốn sách không chỉ làm rõ những đóng góp to lớn của các tầng lớp phụ nữ, phong trào phụ nữ Việt Nam, mà còn khẳng định sự đ ng đắn trong chủ trương và quá trình lãnh đạo của Đảng đối với công tác phụ nữ, góp phần giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam. Chương trình hợp tác chung giữa Chính phủ Việt Nam và Liên Hợp Quốc về bình đẳng giới, Hệ thống các văn bản quy định hiện hành về bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực gia đình [42], đã hệ thống các văn bản chỉ đạo của Đảng; các văn bản quy định hiện hành về bình đẳng giới của Quốc hội, Chính phủ, của các bộ, ngành; các văn bản hiện hành về phòng, chống bạo lực gia đình, của Quốc hội, Chính phủ, của các bộ, ngành; các văn bản quy định hiện hành về tổ chức bộ máy bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ và phòng, chống bạo lực gia đình của Quốc hội, Chính phủ, của các bộ, ngành; và một số trích đoạn của các văn kiện quốc tế có liên quan. Cuốn sách Quan điểm của Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh về phụ nữ và công tác phụ nữ [132], đã tập hợp toàn văn hoặc trích dẫn các
  13. 9 bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng, Nhà nước về phụ nữ và công tác phụ nữ. Nội dung của cuốn sách cung cấp cho người đọc cái nhìn toàn diện và chính xác về các quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng và Nhà nước Việt Nam về phụ nữ, công tác phụ nữ và về bình đẳng giới. Luận án tiến sĩ Hồ Chí Minh học của tác giả Trần Thị Huyền, Tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ và vận dụng vào thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay [86]. Dưới góc độ chuyên ngành Hồ Chí Minh học, tác giả đã làm rõ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ, thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ vào thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó, tác giả chỉ ra những vấn đề đặt ra, những nhân tố mới tác động, đồng thời nêu ra quan điểm, giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ vào thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Đề tài cấp Nhà nước, Điều tra cơ bản về thực trạng bình đẳng giới và đánh giá tác động của chính sách đối với phụ nữ và nam giới nhằm phục vụ công tác hoạch định chính sách ở Việt Nam do Đỗ Hoài Nam làm Chủ nhiệm [117]. Trên cơ sở tiến hành điều tra cơ bản về thực trạng bình đẳng giới ở Việt Nam, chỉ ra những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế, tác giả đã đánh giá sự tác động của những chính sách đối với phụ nữ, nam giới trên các v ng miền và trên các lĩnh vực khác nhau. Đồng thời, tác giả cũng đề xuất một số phương hướng và giải pháp cơ bản, nhằm phục vụ công tác hoạch định chính sách ở Việt Nam, góp phần thực hiện bình đẳng giới và nâng cao hiệu quả của chính sách đối với cả phụ nữ và nam giới. Tác giả Lê Lục trong công trình Công tác tuyên truyền của Đảng nahừm nâng cao vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế tri thức [106], khẳng định vai trò quan trọng của phụ nữ trong phát triển kinh tế tri thức. Nhằm phát huy vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế tri thức, bài viết đưa ra một số giải pháp, trong đó nhấn mạnh giải pháp nâng cao nhận thức
  14. 10 cũng như vai trò của các cấp ủy Đảng, chính quyền trong thực hiện mục tiêu bình đẳng giới trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam. Viết về quan điểm của Hồ Chí Minh, về vai trò của phụ nữ, tác giả Thái Sơn có bài viết “Hồ Chí Minh với vấn đề giải phóng phụ nữ” [146]. Bài viết phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của phụ nữ trong cách mạng Việt Nam. Từ đó, tác giả khẳng định: công cuộc giải phóng phụ nữ gắn với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Trong bài viết, tác giả cũng chỉ ra, để phát huy vai trò của phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới phải có chủ trương, chính sách, pháp luật cụ thể của Đảng và Nhà nước, để đưa họ tham gia vào các hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, sự nghiệp giải phóng phụ nữ phụ thuộc vào chính sự cố gắng, phấn đấu vươn lên của bản thân phụ nữ. Nguyễn Thị Mỹ Trang, Nguyễn Lê Tâm, “Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về giải phóng phụ nữ” [179], đã bàn về quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về giải phóng phụ nữ. Trong đó, đặc biệt nhấn mạnh đến các giải pháp mà chủ nghĩa Mác - Lênin đặt ra để giải phóng phụ nữ: đưa nữ giới tham gia vào nền sản xuất xã hội và thủ tiêu chế độ tư hữu; xã hội hóa công việc gia đình đối với phụ nữ; tạo điều kiện để phụ nữ khẳng định vị trí, vai trò của mình trong gia đình và xã hội; bản thân phụ nữ phải nâng cao ý thức tự giải phóng. Vương Thị Hanh, “Phụ nữ Việt Nam và việc tham gia chính trị” [65], nêu ra các chính sách của Đảng, Nhà nước về bình đẳng giới. Tác giả cũng phân tích một số nét về tình hình phụ nữ tham gia chính trị ở Việt Nam trong các công việc chung của cộng đồng và quốc gia; sự tham gia lãnh đạo và ra quyết định của phụ nữ trong các cấp ủy Đảng, trong Quốc hội, và Hội đồng nhân dân và chính quyền các cấp. Đồng thời, bài viết cũng làm rõ những yếu tố ảnh hưởng tích cực, tiêu cực đến tình hình tham gia chính trị của phụ nữ. Từ đó, đưa ra kiến nghị về xây dựng công tác cán bộ nữ và đội ngũ cán bộ
  15. 11 nữ để đảm bảo phụ nữ được bình đẳng thực sự trong tham gia vào bộ máy quyền lực. Nguyễn Thị Ngân, “Chủ trương của Đảng, Nhà nước về giải phóng phụ nữ và bình đẳng giới ở Việt Nam” [123], và “Thực hiện quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước về bình đẳng giới” [124]. Trong hai bài viết, tác giả khẳng định, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm đến việc thực hiện bình đẳng giới. Điều đó thể hiện trong các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc và các Nghị quyết, Chỉ thị của ộ Chính trị, của an í thư và được cụ thể hóa trong chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chiến lược, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về bình đẳng giới, bình đẳng giới ở Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Vị trí, vai trò của phụ nữ trong gia đình và xã hội ngày càng được khẳng định. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế trong quá trình thực hiện mục tiêu bình đẳng giới: một số chủ trương lớn còn thiếu nhạy cảm về giới; kỹ năng lồng ghép giới còn hạn chế; định kiến giới còn tồn tại dai dẳng trong xã hội; ... Tác giả Vũ Thị Cúc trong công trình “Quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề giới” [43], đã nghiên cứu và chỉ ra nguyên nhân của bất bình đẳng giới là tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo trong xã hội Việt Nam và cách hiểu máy móc không ch ý đến sự khác biệt về giới, hạn chế trong nhận thức của người dân và bản thân phụ nữ về bình đẳng giới. Bài viết cũng bàn đến các giải pháp đấu tranh cho bình đẳng giới theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Để đạt được bình đẳng giới, theo Hồ Chí Minh, một mặt phải nâng cao nhận thức của nam giới và xã hội về phụ nữ, vai trò của phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam nữ. Mặt khác, bản thân phụ nữ phải tự mình phấn đấu vươn lên, xóa bỏ “định kiến giới” trong chính bản thân mình để giành quyền bình đẳng. Tuy nhiên, việc giành lại quyền bình đẳng nam nữ không phải là việc riêng của phụ nữ mà là việc chung của Đảng, của giai cấp công nhân và toàn thể nhân
  16. 12 dân. Tác giả cũng khẳng định, để thực hiện được những giải pháp trên theo quan điểm của Hồ Chí Minh, vai trò của Đảng và Nhà nước trong việc đấu tranh cho bình đẳng giới rất quan trọng. Trên thực tế, Đảng, Nhà nước đã đưa ra nhiều chủ trương, chính sách, đặc biệt là hệ thống pháp lý bảo vệ quyền bình đẳng của phụ nữ. Bài viết là gợi ý cho tác giả khi phân tích nguyên nhân của những hạn chế trong thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam và nhận xét vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong lãnh đạo thực hiện bình đẳng giới trong quá trình viết luận án. Bên cạnh đó còn có các bài viết: Nguyễn Thị ình, “Phát huy hơn nữa vai trò của phụ nữ trong tham gia quản l Nhà nước”[14]; Đặng Thị Lương, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giải phóng Phụ nữ” [107]; Hiền Lương, “Hồ Chí Minh về công tác cán bộ nữ”[108]; Nguyễn Thị Mão, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng Phụ nữ và xây dựng đội ngũ cán bộ nữ” [114]; Nguyễn Thị Kim Dung, “Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nữ” [45]; Hà Thị Khiết, “Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị 37-CP/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng khoá VII về một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới” [91]; Hà Thị Khiết, “Quan tâm hơn nữa việc thực hiện bình đẳng giới, tạo điều kiện cho Phụ nữ tham gia các hoạt động quản l Nhà nước, xã hội” [92]; i Hồng Vạn, “Quan điểm của Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới” [190];... Cùng với các công trình khoa học ở trong nước, còn có các công trình nghiên cứu của các học giả cũng như tổ chức nước ngoài bàn đến vấn đề chính sách, pháp luật Việt Nam trong thực hiện bình đẳng giới dựa trên Công ước loại bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (Convention on the Elimination of all Forms of Discrimination against Women - Công ước CEDAW): Rea Abada Chiongson, CEDAW và pháp luật: Nghiên cứu rà soát văn bản pháp luật Việt Nam trên cơ sở quyền và giới qua lăng kính CEDAW, Lê Thành Long (Chủ biên dịch) [144]. Đây là công trình nghiên cứu nhằm mục
  17. 13 đích rà soát, đánh giá và hoàn thiện văn bản pháp luật Việt Nam dựa trên cơ sở giới và quyền lấy Công ước CEDAW làm khuôn khổ và công cụ phân tích. Nghiên cứu đã chỉ ra những nhu cầu sửa đổi, bổ sung văn bản pháp luật, những khuyến nghị trong tương lai. Những nội dung được đưa ra trong công trình giúp nghiên cứu sinh có đánh giá chính xác hơn về quá trình chỉ đạo xây dựng khung pháp lý về bình đẳng giới và lồng ghép bình đẳng giới trong các chiến lược, chương trình, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam. UN Women, (United Nations Entity for Gender Equality and the Empowerment of Women - Cơ quan Phụ nữ Liên Hợp Quốc về bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ) Pháp luật của chúng ta có thúc đẩy bình đẳng giới, Sổ tay nghiên cứu rà soát pháp luật dựa trên công ước CEDAW, (Bản dịch tiếng Việt: Hà Ngọc Anh) [185]. Đối tượng chính của cuốn sổ tay là các cán bộ thực thi bình đẳng giới ở khu vực Đông Nam Á trong đó có Việt Nam. Nội dung Sổ tay bàn đến là dựa trên khung tham chiếu Công ước CEDAW, các cán bộ thực thi bình đẳng giới của Chính phủ, các tổ chức phi Chính phủ, các cơ quan, viện nghiên cứu, các nhóm phụ nữ rà soát và đánh giá pháp luật của quốc gia mình có tuân thủ Công ước xóa bỏ mọi hình thức phân biệt, đối xử với phụ nữ hay không. Từ đó, đưa ra các khuyến nghị phù hợp. Các công trình, bài viết kể trên, dưới các góc độ nghiên cứu khác nhau, phần nào đã nêu rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về giới và bình đẳng giới. Đây chính là nguồn tài liệu quý, cung cấp cho tác giả những vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng trong quá trình nghiên cứu, triển khai đề tài luận án. 1.1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về phụ nữ và bình đẳng giới Nghiên cứu về phụ nữ và bình đẳng giới được rất nhiều học giả quan tâm. Có thể kể đến một số công trình khoa học tiêu biểu:
  18. 14 Tiếp cận dưới góc độ gắn liền vấn đề phụ nữ với nghiên cứu về giới, tác giả Trần Thị Vân Anh và Lê Ngọc Hùng trong công trình Phụ nữ, giới và phát triển [4], đã phân tích mối quan hệ giữa bình đẳng giớivà phát triển xã hội. Đồng thời, các tác giả khẳng định chính sách xã hội đối với phụ nữ có ảnh hưởng không nhỏ đến bình đẳng giới và phát triển xã hội. Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay, đây có thể coi là luận cứ khoa học cho việc thực hiện nguyên tắc công bằng xã hội và bình đẳng giới. Tác giả Lê Thi trong công trình Phụ nữ và bình đẳng giới trong đổi mới ở Việt Nam [156], trên cơ sở nghiên cứu quan điểm tiếp cận giới, quan điểm của Đảng, Nhà nước về các vấn đề liên quan đến bình đẳng giớivà phân tích thực trạng đời sống của lao động nữ trong thời kỳ đổi mới, tác giả chỉ ra những vấn đề đặt ra, đồng thời đề xuất ý kiến về một số chính sách xã hội nhằm thực hiện bình đẳng giới trong tình hình mới. Cuốn sách Phát huy nguồn lực trí thức nữ Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, của tác giả Đỗ Thị Thạch [150]. Nghiên cứu về trí thức nữ dưới một góc nhìn mới, tác giả của cuốn sách làm rõ những quan niệm về trí thức, trí thức nữ; phân tích sự hình thành, tính đặc thù của nguồn lực trí tuệ của đội ngũ trí thức nữ Việt Nam và những đóng góp của họ đối với sự phát triển của đất nước. Bên cạnh đó, công trình còn đề cập đến những nhân tố tác động đến sự phát triển của trí tuệ nữ và đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy nguồn lực trí thức nữ Việt Nam trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Những nhận thức mới mà công trình đề cập đến đã khẳng định vai trò to lớn của phụ nữ đối với sự phát triển của xã hội, góp phần quan trọng trong việc xóa bỏ định kiến giới, tiến tới thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam. Cuốn sách của Trần Thị Minh Đức, Đỗ Hoàng, Hoàng Thị Xuân Dung, Định kiến và phân biệt đối xử theo giới: lý thuyết và thực tiễn [60], đã phân tích những vấn đề lý thuyết và phương pháp nghiên cứu định kiến và phân biệt đối xử theo giới, đồng thời chỉ ra thực tiễn với những hình thức biểu hiện của định kiến và phân biệt đối xử theo giới. Các tác giả cũng dành một phần dung lượng
  19. 15 của cuốn sách để bàn về nguyên nhân dẫn đến định kiến, phân biệt đối xử với người phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội. Định kiến, phân biệt đối xử với người phụ nữ không chỉ từ phía đàn ông mà ngay trong chính bản thân phụ nữ. Nhiều phụ nữ mặc định vị trí, vai trò của mình thấp, nhỏ bé hơn đàn ông và những việc gia đình, nội trợ con cái... thuộc về phụ nữ. Định kiến này khiến cho phụ nữ ít, thậm chí không có cơ hội phát triển cá nhân và chịu nhiều thiệt thòi so với nam giới. Đây chính là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến bất bình đẳng giới trong gia đình và xã hội. Đề cập đến lịch sử hình thành tư tưởng nữ quyền và một số quan điểm cơ bản về tư tưởng nữ quyền, các trường phái lý thuyết, những cống hiến cũng như những hạn chế của lý thuyết nữ quyền, tác giả Lê Ngọc Văn, trong Nghiên cứu gia đình - lý thuyết nữ quyền - quan điểm giới [191], đã chỉ ra rằng, nghiên cứu vấn đề này chính là cơ sở khoa học của việc xây dựng chính sách, chiến lược phát triển gia đình nói riêng và bình đẳng giới nói chung. Trần Thị Vân Anh - Nguyễn Hữu Minh (Đồng chủ biên), Bình đẳng giới ở Việt Nam [5], trên cơ sở điều tra cơ bản về bình đẳng giới trong hai năm 2005 - 2006, các tác giả đã chỉ ra thực trạng bình đẳng giới về cơ hội cũng như khả năng nắm bắt cơ hội của phụ nữ và nam giới; đồng thời, nghiên cứu này cũng chỉ ra tương quan giữa hai giới trên một số lĩnh vực của đời sống gia đình và xã hội. Qua đó, thấy được vai trò của phụ nữ trong giải quyết các vấn đề xã hội nói chung và trong chính trị; kinh tế, lao động, việc làm cũng như trong gia đình nói riêng. Trên phương diện chính trị - xã hội, các tác giả Trịnh Quốc Tuấn và Đỗ Thị Thạch (Đồng chủ biên), trong cuốn sách chuyên khảo Khoa học giới - Những vấn đề lý luận và thực tiễn [174], đã chỉ ra lịch sử phát triển của khoa học giới, từ sự ra đời của lý thuyết giới đến cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc nghiên cứu khoa học giới ở Việt Nam. Nghiên cứu của các tác giả cũng chỉ ra các khái niệm cơ bản của khoa học giới: giới và giới tính; vai trò giới; nhu cầu
  20. 16 giới; bình đẳng giới cũng như các công cụ phân tích giới. Công trình cũng dành chương 9 để bàn về một số quan điểm phát triển phụ nữ, giới và phương pháp lồng ghép giới trong các chương trình phát triển. Bên cạnh đó, nhóm tác giả còn nghiên cứu vấn đề giới dựa trên cách tiếp cận 8 lĩnh vực: trong kinh tế - lao động; trong chiến lược giảm nghèo; trong lãnh đạo, quản lý; trong hoạch định và thực hiện chính sách; trong văn hóa; giáo dục, đào tạo; trong gia đình và chiến lược dân số. Cũng nghiên cứu về vấn đề giới, tác giả Bùi Thế Cường (Chủ biên) trong cuốn sách Phụ nữ Việt Nam trong kỷ nguyên biến đổi xã hội nhanh [44], đã nêu quan điểm: trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam, giới là một nội dung quan trọng, là chủ đề then chốt, xuyên suốt mọi chủ đề khác. Cuốn sách là tập hợp những chuyên đề của các tác giả bàn đến nhiều vấn đề như: Vận dụng tiếp cận giới vào nghiên cứu ở Việt Nam trong thập niên 2000; phụ nữ quản lý và lãnh đạo trong khu vực công ở Việt Nam; giới trong giáo dục - đào tạo; phụ nữ và gia đình; phụ nữ vươn lên vượt khó; từ nhận thức đến hành động: những câu chuyện thành công. Trên cơ sở tổng hợp kết quả của các hoạt động hợp tác của một số đối tác phát triển, Báo cáo Đánh giá vấn đề Giới tại Việt Nam của Ngân hàng Thế giới [119, 120, 121], đã phân tích các vấn đề giới ở Việt Nam. Đồng thời, Báo cáo cũng đưa ra các khuyến nghị liên quan đến các vấn đề giới thực tiễn. Việc phân tích và đưa ra các khuyến nghị là một trong những căn cứ để tác giả đưa ra nhận xét về thực hiện bình đẳng giới dưới sự lãnh đạo của Đảng trong luận án của mình. Đề tài khoa học cấp Bộ Lồng ghép giới hướng tới bình đẳng và phát triển bền vững ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, do tác giả Phạm Thu Hiền làm Chủ nhiệm, nghiệm thu năm 2010 [69], đã phân tích lồng ghép giới trong các lĩnh vực của đời sống gia đình và xã hội như: chính trị; kinh tế, lao động, việc làm; văn hóa - xã hội; giáo dục; y tế và gia đình. Trên cơ sở phân tích các nội
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2