intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiễn sĩ Triết học: Trách nhiệm của nhà nước trong việc bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:172

53
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của đề tài nghiên cứu nhằm làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về trách nhiệm của Nhà nước trong bảo vệ môi trường từ góc độ triết học, đồng thời phân tích và đánh giá thực trạng trách nhiệm của Nhà nước trong bảo vệ môi trường tại Việt Nam hiện nay, luận án đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao trách nhiệm của Nhà nước trong bảo vệ môi trường ở Việt Nam thời gian tới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiễn sĩ Triết học: Trách nhiệm của nhà nước trong việc bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI --------------------- VŨ KIM ĐIỀM TRÁCH NHIỆM CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC Hà Nội - 2021
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI --------------------- VŨ KIM ĐIỀM TRÁCH NHIỆM CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Ngành: CNDVBC VÀ DVLS Mã số: 9229002 LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS. NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG Hà Nội - 2021
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả số liệu nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, chính xác của các cơ quan chức năng đã công bố. Những kết luận khoa học của luận án là mới và chưa có tác giả công bố trong bất cứ công trình khoa học nào. Tác giả luận án Vũ Kim Điềm i
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Những công trình nghiên cứu lý luận về trách nhiệm của Nhà nước trong bảo vệ môi trường ................................................................................... . ........................6 1.2. Những công trình nghiên cứu thực trạng trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ môi trường ở Việt Nam .................................................................................16 1.3. Những công trình nghiên cứu giải pháp thực hiện trách nhiệm của Nhà nước trong bảo vệ môi trường ............................................................................................21 1.4. Giá trị của các công trình luận án cần tham khảo và những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu ....................................................................................................26 Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA NHÀ NƯỚC TRONG BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG 2.1. Trách nhiệm và trách nhiệm của Nhà nước trong BVMT .................................29 2.2. Những nội dung cơ bản của trách nhiệm Nhà nước trong BVMT ................... 52 2.3. Các nhân tố tác động đến trách nhiệm của Nhà nước trong BVMT .................. 61 Chương 3: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN TRÁCH NHIỆM BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG CỦA NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1. Một số vấn đề môi trường của Việt Nam và trách nhiệm của hệ thống chính trị trong bảo vệ môi trường .................... ...................................................................... 73 3.2. Những thành tựu và nguyên nhân trong thực hiện trách nhiệm bảo vệ môi trường của Nhà nước ta từ năm 1993 đến nay ..........................................................84 3.3. Những hạn chế và nguyên nhân trong thực hiện trách nhiệm bảo vệ môi trường của Nhà nước ta từ năm 1993 đến nay .................................................................... 101 Chương 4: MỘT SỐ NHÓM GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO TRÁCH NHIỆM CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 4.1. Nhóm giải pháp nâng cao trách nhiệm của Nhà nước trong xây dựng hệ thống pháp luật và hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy cho bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay ............................. ..................................................................................... 124 ii
  5. 4.2. Nhóm giải pháp tăng cường trách nhiệm, hiệu lực quản lý, điều hành của bộ máy Nhà nước trong việc bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay ....................... 130 4.3. Nhóm giải pháp tăng cường trách nhiệm của Nhà nước trong việc tạo ra sự đồng thuận của toàn xã hội nhằm thực hiện tốt việc bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay ................................................................................................................... 140 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 149 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 153 iii
  6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BVMT : Bảo vệ môi trường CNH : Công nghiệp hóa HĐH : Hiện đại hóa Nxb : Nhà xuất bản KH&CN : Khoa học và công nghệ KT-XH : Kinh tế - xã hội KTTT : Kinh tế thị trường QLNN : Quản lý nhà nước QLMT : Quản lý môi trường QLTNMT : Quản lý tài nguyên môi trường TCXH : Tổ chức xã hội TN&MT : Tài nguyên và môi trường TNMT : Tài nguyên môi trường TNTN : Tài nguyên thiên nhiên UBND : Ủy ban nhân dân iv
  7. MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Trong thời đại ngày nay, khai thác, sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường là những vấn đề quan trọng nằm trong chiến lược phát triển bền vững của toàn nhân loại, cũng như tất cả các quốc gia dân tộc. Vấn đề này càng trở nên cấp thiết khi mà các nguồn tài nguyên thiên nhiên trên toàn thế giới đang dần bị cạn kiệt, còn môi trường sống bị ô nhiễm nặng nề. Nhiều nơi trên thế giới đã và đang xẩy ra ô nhiễm môi trường cục bộ, dẫn đến nguy cơ ô nhiễm môi trường toàn cầu, đe dọa sự sống của cả hành tinh. Thực trạng này ảnh hưởng rất tiêu cực và nguy hiểm đến mọi mặt của đời sống xã hội. Vì vậy, việc khai thác và sử dụng hợp lý TNTN và BVMT, đã và đang trở thành mối quan tâm sâu sắc của cộng đồng quốc tế. Hiện nay, việc khai thác, sử dụng hợp lý các nguồn TNTN và BVMT là một trong ba mục tiêu cơ bản của phát triển bền vững trong quá trình phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới. Để hiện thực hóa được mục tiêu này, nhất thiết phải có những nghiên cứu căn bản về BVMT ở tầm khái quát nhất, đồng thời với các nghiên cứu của các khoa học liên ngành. Chỉ có như vậy mới có thể nắm được bản chất của vấn đề và xác định được đầy đủ những mục tiêu của nó trên thực tiễn. Việt Nam hiện đang trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Bên cạnh những kết quả về tốc độ tăng trưởng kinh tế, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật. Quá trình CNH, HĐH đã và đang làm thay đổi đô thị và nông thôn theo hướng ngày càng văn minh, hiện đại... Bên cạnh đó, quá trình này cũng để lại những hệ lụy về môi trường rất đáng lo ngại. Chất lượng môi trường tự nhiên ngày càng xuống cấp, rừng bị tàn phá nặng nề, nhiều loại động vật hoang dã bị tuyệt chủng, các nguồn nước bị ô nhiễm, nồng độ bụi và tiếng ồn vượt quá giới hạn cho phép (đặc biệt là ở khu vực đô thị, khu công nghiệp)... Việt Nam là một trong 5 nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu mà minh chứng điển hình nhất là tình trạng hạn hán chưa từng có trong gần 100 năm qua ở khu vực các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và Tây Nguyên vào những 1
  8. tháng đầu năm 2016 đã gây thiệt hại rất nghiêm trọng về đời sống và sản xuất. Hay, thảm họa môi trường đặc biệt nghiêm trọng do Công ty Trách nhiệm hữu hạn Fomorsa Việt Nam gây ra tại Khu công nghiệp Vũng Áng (Hà Tĩnh) làm ô nhiễm vùng biển của 04 tỉnh miền Trung bao gồm: Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế, làm cho cá chết hàng loạt, phá hoại nghiêm trọng hệ sinh thái biển, nhân dân cả nước hết sức bức xúc, bất bình. Điều này đặt ra yêu cầu cần tăng cường trách nhiệm Nhà nước về BVMT, vì mục tiêu phát triển đất nước bền vững. Trong hơn 30 năm đổi mới vừa qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong công cuộc CNH, HĐH đất nước. Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với 90% dân số làm nông nghiệp, Việt Nam đã xây dựng được cơ sở vật chất - kỹ thuật, hạ tầng KT - XH từng bước đáp ứng cho sự nghiệp CNH, HĐH, tạo ra môi trường thu hút nguồn lực xã hội cho phát triển. Với tốc độ của CNH, HĐH và đô thị hoá như hiện nay, chúng ta đang phải đương đầu với những thách thức lớn trên con đường phát triển bền vững mà một trong những thách thức đó là những thách thức về môi trường. Những thách thức môi trường giờ đây không đơn thuần là vấn đề ô nhiễm hay cạn kiệt tài nguyên chung chung, mà mức độ ảnh hưởng sâu sắc của môi trường đến đời sống KT - XH của con người đã gây ra và thậm chí khoét sâu thêm hố ngăn cách giàu nghèo và góp phần làm tăng thêm những bất công trong xã hội. Vì thế, bảo vệ môi trường là trách nhiệm của mọi chủ thể, trong đó có nhà nước. Nhà nước với chức năng chuyên biệt và khả năng đặc biệt của mình, có thể và cần phải thực hiện trách nhiệm trước hết và quyết định trong việc bảo vệ môi trường. Mặc dù Nhà nước đã có hững hành động quyết liệt, thể hiện rõ trách nhiệm của mình trong việc BVMT, nhưng vẫn có nơi, có lúc trách nhiệm đó được thể hiện chưa tốt, dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng. Cả trên phương diện lý luận và thực tiễn đều cho thấy, việc hiện thực hóa trách nhiệm của Nhà nước trong việc BVMT, nhất là trong bối cảnh lịch sử hiện nay, không phải là một tất yếu mang tính tự phát mà trái lại, cần phải có sự đầu tư nghiên cứu nghiêm 2
  9. túc về cơ sở khoa học làm nền tảng cho việc đề xuất hệ thống giải pháp có tính khả thi trong tổ chức thực tiễn, góp phần phát triển bền vững đất nước. Do dó, việc nghiên cứu, làm rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc BVMT ở Việt Nam hiện nay, đồng thời nêu lên các giải pháp mang tính chất định hướng để BVMT Việt Nam hiện nay, có ý nghĩa hết sức quan trọng cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn. Với lý do đó, tác giả chọn vấn đề “Trách nhiệm của nhà nước trong việc bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ, chuyên ngành Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về trách nhiệm của Nhà nước trong BVMT từ góc độ triết học, đồng thời phân tích và đánh giá thực trạng trách nhiệm của Nhà nước trong BVMT tại Việt Nam hiện nay, luận án đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao trách nhiệm của Nhà nước trong BVMT ở Việt Nam thời gian tới. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án Thứ nhất, luận án nghiên cứu tổng quan những vấn đề liên quan đến trách nhiệm bảo vệ môi trường của Nhà nước. Trên cơ sở đó, luận án kế thừa những giá trị tích cực của các công trình nghiên cứu đi trước và chỉ ra những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu; Thứ hai, luận án làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về trách nhiệm của Nhà nước trong việc BVMT cụ thể là: tính tất yếu, nội dung và những nhân tố tác động đến trách nhiệm này; Thứ ba, luận án phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện trách nhiệm BVMT của Nhà nước trong ở Việt Nam hiện nay, chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân; Thứ tư, luận án đề xuất một số nhóm giải pháp cơ bản nhằm nâng cao trách nhiệm của Nhà nước trong việc BVMT ở Việt Nam hiện nay; 3
  10. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án Luận án tập trung nghiên cứu trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ môi trường ở Việt Nam. 3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án Luận án nghiên cứu trách nhiệm của Nhà nước trong việc BVMT từ góc độ triết học. Luận án tập trung nghiên cứu trách nhiệm của Nhà nước Việt Nam trong BVMT từ 1993 đến nay (khi luật BVMT Việt Nam ra đời đến nay). 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Cơ sở lý luận Luận án dựa trên cơ sở tư tưởng của C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh về môi trường, mối quan hệ con người với tự nhiên, trách nhiệm, Nhà nước trong việc BVMT. Luận án căn cứ những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về BVMT và trách nhiệm của Nhà nước trong việc BVMT, lấy đó làm nền tảng lý luận cho nghiên cứu. Đồng thời luận án còn kế thừa kết quả điều tra, nghiên cứu của các nhà khoa học Việt Nam và quốc tế có liên quan đến nội dung đề cập trong luận án. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận biện chứng duy vật. Để đạt được mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu, luận án sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: Phương pháp phân tích - tổng hợp được sử dụng một cách xuyên suốt để làm rõ các vấn đề lý luận, thực tiễn mà luận án đề cập tới. Kết hợp phương pháp lôgíc - lịch sử để phân tích các khái niệm, trách nhiệm, môi trường, trách nhiệm của Nhà nước trong việc BVMT ở Việt Nam hiện nay. Phương pháp quan sát, thu thập, phân tích các vấn đề được đề cập trong luận án, làm cơ sở cho việc đề xuất quan điểm, giải pháp xây dựng và phát huy trách nhiệm của Nhà nước trong việc BVMT ở Việt Nam hiện nay. 4
  11. 5. Đóng góp mới của luận án Luận án góp phần làm rõ cơ sở lý luận về trách nhiệm của Nhà nước trong việc BVMT từ góc độ triết học. Phân tích, làm rõ thực trạng thực hiện trách nhiệm BVMT của Nhà nước Việt Nam hiện nay. Luận án đưa ra một số nhóm giải pháp cơ bản có tính định hướng nhằm nâng cao trách nhiệm của Nhà nước Việt Nam đối với việc BVMT trong thời gian tới. 6. Ý nghĩa khoa học của luận án 6.1. Ý nghĩa lý luận của luận án Thứ nhất, luận án góp phần làm sâu sắc và phong phú lý luận về Nhà nước của triết học Mác – Lênin. Đặc biệt, góp phần làm sáng tỏ trách nhiệm và trách nhiệm của Nhà nước trong BVMT, từ góc độ triết học. Thứ hai, thông qua những khái quát từ thực tiễn, luận án cung cấp những luận cứ góp phần làm phong phú hơn nội dung trách nhiệm của Nhà nước trong BVMT tại Việt Nam. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án Thứ nhất, luận án gợi ý cho việc hoàn thiện cơ sở pháp lý về BVMT và hoàn thiện đổi mới thể chế, bộ máy Nhà nước về BVMT Thứ hai, luận án có thể giúp người làm công tác quản lý xã hội, xây dựng pháp luật, nhận định, tổng kết, rút kinh nghiệm trong công tác lãnh đạo, quản lý BVMT. Thứ ba, luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho những người làm công tác nghiên cứu và giảng dạy triết học, môi trường và các ngành khoa học có liên quan đến môi trường. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương, 13 tiết. 5
  12. Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Những công trình nghiên cứu lý luận về trách nhiệm của Nhà nước trong bảo vệ môi trường 1.1.1. Các công trình nghiên cứu ngoài nước Những vấn đề về môi trường bắt đầu được quan tâm vào thế kỷ XVIII khi quá trình khai thác tài nguyên, phục vụ cho quá trình CNH, đô thị hóa ở các nước Tây Âu và Bắc Mỹ phát triển rầm rộ và gây tác động to lớn tới TNMT ở nhiều nước, nhiều vùng. Một trong những tác giả có sự đóng góp vào quá trình nghiên cứu từ rất sớm về vấn đề lý luận môi trường phải kể đến là P.Marsh (1801-1882) với công trình “Con người và Thiên nhiên” (Man and Natura, New York, 1864) [191], tác giả đã trình bày những vấn đề khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên ở Mỹ sao cho hợp lý để không phá hủy môi trường, ngoài ra tác giả đã đề ra một số nguyên tắc cơ bản trong việc BVMT. Tuy nhiên, vấn đề môi trường được thể hiện ra và được chú ý nhiều từ sau chiến tranh thế giới lần hai và đặc biệt là từ những năm 1960 trở lại đây. Nhiều tác giả và tác phẩm nghiên cứu về vấn đề môi trường xuất hiện ở nhiều nước. Đáng chú ý nhất là công trình “Môi trường của con người” (Environment of Man, Jack, Brestes. New York, (1968) [188] và công trình “Môi trường và con người” của R.H.Wagner (Environment and Man, New York, 1971) [198], tác giả đề cập tới nhiều khía cạnh của môi trường, từ đất đai, nguồn nước, không khí, các nguyên nhân tác động tới môi trường như CNH, đô thị hóa, giao thông, tăng trưởng dân số… Năm 1973, E.F.Schumacher đã ấn hành sách “Nhỏ là đẹp”(Small is beautiful) [187,] lên án mạnh mẽ việc công nghiệp hóa rầm rộ với mức độ tập trung cao theo lãnh thổ nhiều xí nghiệp to lớn. Tháng 10/1975, IEEP đã tổ chức Hội thảo Quốc tế lần thứ nhất về Giáo dục môi trường ở Beograde, kết thúc hội thảo đã đưa ra được một nghị định khung và tuyên bố về những mục tiêu và những nguyên tắc hướng dẫn giáo dục môi trường. Trong đó nêu rõ mục tiêu giáo dục môi trường là nhằm 6
  13. nâng cao nhận thức về vai trò của môi trường và hiểu biết về môi trường; giúp cho mỗi người xác định thái độ và lối sống cá nhân tích cực đối với môi trường; có những hành động cho một môi trường tốt đẹp. Từ năm 1980 trở lại đây, đánh dấu sự chuyển biến từ việc nhận thức sang hành động, được thể hiện ở sự xuất hiện ngày càng nhiều các công trình nghiên cứu về môi trường và con người. Ở giai đoạn này vừa có các công trình nghiên cứu về lý luận, vừa có các công trình nghiên cứu của các khoa học cụ thể về các thành phần của môi trường, như nghiên cứu yếu tố địa lý, nước, thảm thực vật, tài nguyên, không khí, sự ô nhiễm, ảnh hưởng qua lại của các thành phần môi trường với nhau và con người... Bên cạnh đó, còn rất nhiều các công trình khác về công nghệ sạch và xử lý chất thải, sử dụng các nguồn lợi thiên nhiên và BVMT xung quanh, xử lý các chất thải lỏng và chất thải rắn... Trong đó, có các công trình được xuất bản như: “Một thế giới không thể chấp nhận được”, của Rênê Duymông [183]; “Phương hướng vận hành của thực tiễn sản xuất và sự hài hòa thống nhất giữa con người và tự nhiên”, của Bai Lifan [184]. Tác phẩm đáng lưu ý của Alvin Toffler [195] với hàng loạt tác phẩm đó là: Thăng trầm quyền lực (2 tập); Làn sóng thứ ba; Cú sốc tương lai; Tạo dựng một nền văn minh mới - Chính trị của làn sóng thứ ba; Chiến tranh và chống chiến tranh - Sự sống còn của loài người ở buổi bình minh của thế kỷ XXI. Bên cạnh đó còn có một số công trình của các nhà nghiên cứu tiêu biểu trên thế giới trong những năm qua đó là: Sách của các tác giả Michael Atchia, Shawna Tropp 1995, Environmental Management: Issues and Solutions [192] (Quản lý môi trường: các vấn đề và giải pháp). Sách này được tổng hợp từ một loạt các hội thảo về BVMT do UNEP tổ chức. Sách là một tập hợp các bài thuyết trình tại các hội thảo của hơn 50 tác giả từ khắp nơi trên thế giới, mô tả các nguyên tắc, quy trình của hệ sinh thái và các công cụ quản lý môi trường cơ bản, trách nhiệm của chính phủ đối với việc BVMT, bên cạnh đó trách nhiệm của các tổ chức trong việc tài trợ, cần thiết cho quản lý môi trường, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Do vậy, các vấn đề liên quan đến môi trường được thảo luận, với mục đích làm thế nào để vận hành chính sách phát triển bền vững. 7
  14. Công trình của tác giả Paul R.Portney, Robert N. Stavins 2000, Public Policies for Environmental Protection, Resources for the Future Washington, DC (Chính sách công về BVMT, Tài nguyên cho tương lai Washington, DC) [193]. Đây là một công trình tham khảo tiêu biểu về các chương trình quy định chính của EPA. Tác giả đã cung cấp thông tin cơ bản về kinh tế môi trường, chính trị môi trường và giải thích về các lựa chọn chính sách trong chương thứ nhất. Chương thứ hai là những quy định của liên bang, chính sách ô nhiễm không khí và nước, các chất độc hại. Nó bao gồm bảo hiểm và các chương về các chính sách môi trường, biến đổi khí hậu toàn cầu, và giảm thiểu và xử lý chất thải rắn. Trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trong việc bảo vệ TNTN. Công trình của tác giả Robert W.Collin 2005, The Environmental Protection Agency: Cleaning Up America's Act (Understanding Our Government), Greenwood (Cơ quan BVMT: Đạo luật làm sạch nước Mỹ (Hiểu về chính phủ của chúng ta, Greenwood) [189]. Công trình cung cấp lịch sử ngắn gọn về cơ quan BVMT cùng với hoạt động hành chính trong công tác BVMT, sách trình bày các hoạt động hàng ngày và truyền thống và văn hóa tác động đến BVMT. Các tranh cãi chính trị và tác động xã hội của cơ quan này là rất lớn, liên quan đến tòa án, lập pháp, các quan chức được bầu và tác động của các hành động của nó là rất lớn, ảnh hưởng đến từng người dân ở Hoa Kỳ. Công trình của tác giả Daniel.D.Chiras, 2014, Natural Resource Conservation: Management for a Sustainable Future, Pearson India [185] (Bảo tồn TNTN: Sự quản lý cho một tương lai bền vững, Pearson Ấn Độ). Công trình tập trung vào vấn đề TNTN và bảo tồn môi trường. Tác giả mô tả các nguyên tắc, chính sách và thực hành sinh thái cần thiết để tạo ra một tương lai bền vững. Các giải pháp lâu dài được đưa và lựa chọn từ các quan điểm xã hội, kinh tế và môi trường: giải quyết vấn đề bền vững, đất bảo tồn và nông nghiệp bền vững, quản lý dịch hại tổng hợp, môi trường nước, quản lý bền vững tài nguyên nước, ô nhiễm nước, bảo tồn thủy sản, quản lý rừng, quản lý động vật và động vật hoang dã, quản lý chất thải bền vững, ô nhiễm không khí, thay đổi khí hậu toàn cầu, sự lắng đọng axit và sự suy giảm tầng ôzôn, khoáng sản… 8
  15. Nhìn chung tất cả các tác giả trên vạch ra cho chúng ta thấy hiện trạng đáng lo ngại của môi trường tự nhiên, nguyên nhân làm suy thoái ô nhiễm môi trường tự nhiên. Vì vậy, trách nhiệm của Nhà nước vô cùng quan trọng trong việc BVMT. 1.1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước Ở Việt Nam các hoạt động nghiên cứu về TNTN và môi trường đã được đề cập một cách khái quát và có một quá trình lịch sử lâu dài. Điều đó được thể hiện qua các công trình nghiên cứu của Chu Văn An, Tuệ Tĩnh từ thế kỷ XIV, tiếp theo đó là Lê Quý Đôn, Hải Thượng Lãn Ông từ thế kỷ XVIII. Những công trình điều tra khảo sát về địa lý, địa chất, sinh học, y, dược, kinh tế, xã hội ở nước ta do những nhà nghiên cứu của Việt Nam thực hiện ở cuối thế kỷ XIV và đầu thế kỷ XIX có thể xem là những hoạt động nghiên cứu riêng lẻ về môi trường. Vấn đề môi trường theo nghĩa rộng bao gồm cả TNTN và các nhân tố môi trường sống con người được nghiên cứu từ những năm 1970 - 1980, đã có sách, báo đề cập về vấn đề này của một số tác giả như: Nguyễn Trọng Chuẩn, “Chủ động đề phòng nạn ô nhiễm môi trường trong quá trình công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Triết học [36]; Phạm Thị Ngọc Trầm “Bảo vệ môi trường sống phải trở thành một nhiệm vụ của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật ở nước ta” Tạp chí Triết học [164]; Lê Bá Thảo, “Giáo dục môi trường cho nhân dân”, Tạp chí Hoạt động Khoa học [149]. Nguyễn Ngọc Sinh, “Môi trường và tài nguyên Việt Nam” Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà nội, [148]; Trần Trọng Hựu “Chính sách sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường của Nhà nước ta”, Tạp chí Hoạt động Khoa học [83]; Nguyễn Ngọc Hải, “Một số thành tựu về công nghệ sinh học thế giới” Tạp chí Hoạt động Khoa học [68]. Các tác giả bàn tới vấn đề môi trường sống, quan hệ giữa con người và môi trường, BVMT và khai thác tài nguyên ảnh hưởng của các công trình xây dựng tới vùng sinh thái xung quanh, một số tác giả đề ra các phương án BVMT, bảo vệ rừng, mối quan hệ giữa môi trường và dân số,... Về vấn đề môi trường, tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm đã có rất nhiều bài viết đăng trên các tạp chí như: “Khía cạnh triết học – xã hội của vấn đề môi trường sinh thái ở Việt Nam” [169]; “Về cách tiếp cận triết học – xã hội đối với hiện trạng môi 9
  16. trường sinh thái nhân văn ở Việt Nam: các vấn đề, nguyên nhân và giải pháp” [170]; “Xây dựng đạo đức sinh thái – một trách nhiệm của con người đối với tự nhiên” [173].... Trong các công trình này, tác giả đã đề cập đến nhiều phương diện khác nhau của vấn đề BVMT sinh thái. Theo tác giả, nói đến môi trường sinh thái là nói đến môi trường tự nhiên – xã hội hay môi trường sinh thái – nhân văn; thực chất vấn đề môi trường sinh thái là đề cập đến mối quan hệ giữa con người – xã hội – tự nhiên. Tác giả khẳng định mục tiêu môi trường sinh thái là sự khai thác hợp lý các nguồn TNTN và BVMT sống ngày được tốt hơn. Trên cơ sở luận giải sự tác động giữa con người và tự nhiên, tác giả cho rằng cần phải đồng bộ các giải pháp khác nhau để có các chính sách xã hội về BVMT, đổi mới công nghệ để khai thác, sử dụng hợp lý TNTN và BVMT. Công trình “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay: khía cạnh môi trường sống” [74], tác giả Nguyễn Đình Hòa cho rằng CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là một bộ phận, một nội dung quan trọng của tiến trình hiện đại hóa ở các nước đang phát triển. Ở nước ta vấn đề môi trường sống nảy sinh trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn hiện nay đang trở lên phức tạp từ thành thị cho đến nông thôn. Điều này thể hiện ở việc cạn kiệt nguồn TNTN do hoạt động sản xuất của các xí nghiệp và hoạt động dân sinh, quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn làm suy giảm đa dạng sinh học. Biện pháp để khắc phục mà tác giả đưa ra đó là phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ cho lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, quán triệt mục tiêu BVMT trong xây dựng, thực hiện các chính sách phát triển kinh tế một cách hài hòa để BVMT. Trong các Chiến lược quan trọng ban hành từ năm 2010 đến nay như: “Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020” [29]; “Chiến lược khoáng sản đến năm 2020, tầm nhìn 2030”, “Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu”, “Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” [32]; “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh” [33]; Chính phủ Việt Nam đã nhấn mạnh việc BVMT là nội dung hết sức quan trọng trong quá trình phát triển KT - XH ở nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Việc BVMT phải được coi là sự nghiệp của 10
  17. toàn Đảng, toàn dân, toàn thể các bộ, ngành, các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương cũng như mọi doanh nghiệp, mọi tổ chức xã hội. Với sự quan tâm sâu sắc của Chính Phủ nhiều hội nghị, hội thảo khoa học quốc tế và trong nước đã được tổ chức và bàn luận khá sôi nổi về việc BVMT như: “Hội Nghị Quốc tế Động thái dân số, biến đổi khí hậu và phát triển bền vững” [34]; “Hội Nghị cấp cao ASEAN lần thứ 23” [73]; Hội thảo “Phát triển năng lượng bền vững” [181]; “Hội nghị Thượng đỉnh Trái Đất Rio de Janeiro và Hội nghị Rio” là một hội nghị của Liên Hiệp Quốc, được tổ chức tại Rio de Janeiro từ ngày 3 tới ngày 14 tháng 6 năm 1992. Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển bền vững (còn gọi Hội nghị Rio + 10 hay Hội nghị thượng đỉnh Johannesburg) tại Nam Phi, “Hội nghị Thượng đỉnh Trái Đất Rio 2012”, được tổ chức từ 13 tới 22 tháng 6. Hội nghị thượng đỉnh COP 21 (7-12/12/2015), tại Paris, được ký kết từ ngày 22/4/2016 ngày Mẹ Trái Đất (Monther Earth Day). Các hội nghị, hội thảo này đã đề cập tới nhiều vấn đề quan trọng, trong đó tập trung vào vấn đề BVMT ở các nước trên thế giới, cũng như ở Việt Nam; nỗ lực tăng cường ý nguyện chính trị của cộng đồng quốc tế để cùng nhau xây dựng cương lĩnh hành động; thực hiện các cam kết, giải quyết các vấn đề cấp thiết của các nước đang phát triển, nhằm thúc đẩy toàn diện quá trình bền vững của thế giới về KT-XH và môi trường; đánh giá tổng quát tình hình năng lượng tại Việt Nam, chỉ ra những thách thức mà Việt Nam đang đối mặt như: khai thác đa dạng, hiệu quả các nguồn tự nhiên trong nước, phát triển các dự án mới, phát triển năng lượng đi kèm với việc BVMT, thúc đẩy chương trình năng lượng nông thôn… Khi bàn về vấn đề đạo đức môi trường, phải kể đến các công trình nghiên cứu như:“Đạo đức môi trường” do tác giả Nguyễn Đức Khiển chủ biên [89]; “Đạo đức môi trường ở nước ta - lý luận và thực tiễn” của tác giả Vũ Dũng [47]; “Đạo đức học môi trường và truyền thống mục đích luận” của tác giả Nguyễn Thị Lan Hương [85]. Các tác giả giới thiệu tình hình nghiên cứu của các tổ chức nghiên cứu về đạo đức môi trường, trình bày vấn đề lý luận cơ bản về đạo đức và môi trường, tổng quan môi trường, ô nhiễm môi trường ở nước ta hiện nay và những vấn đề đặt ra đối với đạo đức môi trường, thực trạng nhận thức và hành vi đạo đức môi trường. 11
  18. Tác giả Đỗ Huy trong bài viết “Giáo dục đạo đức sinh thái và xây dựng môi trường văn hóa trong lịch trình thế kỷ XXI” [82], đã làm rõ vai trò quan trọng của môi trường sinh thái trong quá trình phát triển kinh tế. Theo tác giả, do nhu cầu tăng năng suất lao động, vì vậy con người đã từng coi trọng việc khai thác TNTN, họ cho rằng việc khai thác tài nguyên là việc làm tích cực. Với quan điểm có nhà máy, có công trường, có thêm việc làm cho người lao động, họ không chú ý đến sự xuống cấp của các giá trị văn hóa và sức khỏe con người. Như vậy, tác giả của bài viết cho rằng giá trị của hệ sinh thái có ảnh hưởng lớn cuộc sống con người, nếu con người lạm dụng quyền lực của mình, tác động một cách thô bạo vào môi trường thì phải trả giá rất lớn. Vì những lý do trên mà tác giả khẳng định rằng, giáo dục đạo đức sinh thái là việc làm rất cần thiết để BVMT và con người phát triển một cách hài hòa. “Giáo trình con người và môi trường” do tác giả Lê Văn Khoa (chủ biên) [91], cho rằng môi trường là vấn đề chung của nhân loại, được thế giới quan tâm. Môi trường Việt Nam đang xuống cấp, có nơi bị ô nhiễm nặng, gây nên nguy cơ mất cân bằng sinh thái, cạn kiệt TNTN làm ảnh hưởng cuộc sống và phát triển đất nước, một trong những nguyên nhân chính là do nhận thức con người và thái độ của con người đối với môi trường và biến đổi khí hậu còn hạn chế, chưa nhận thức đầy đủ rằng con người là một bộ phận cấu thành của tự nhiên, giữa con người và tự nhiên có quan hệ gắn bó với nhau. Tác giả cho rằng cần thiết phải tăng cường giáo dục BVMT và ứng phó với biến đổi khí hậu, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và trách nhiệm BVMT cho mọi người, đặc biệt là thanh niên, thiếu niên, đưa nội dung giáo dục môi trường vào chương trình, sách giáo khoa của hệ thống giáo dục quốc dân với khối lượng và hình thức cho phù hợp. Khi bàn về vấn đề lý luận môi trường và BVMT, cần phải nghiên cứu một số các công trình tiêu biểu của một số tác giả như: Lê Trọng Cúc, A. Terry Ramloo (chủ biên), “Một số vấn đề sinh thái nhân văn Việt Nam” Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 1995 [44]; Nguyễn Viết Chức (chủ biên) “Văn hóa ứng xử của người Hà Nội với môi trường thiên nhiên” Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, 2002 [39]; Hà Huy Thành (chủ biên), “Một số vấn đề xã hội, nhân văn trong việc sử dụng hợp lý tài 12
  19. nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường ở Việt Nam” Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001 [151]; Trần Lê Bảo (chủ biên) “Văn hóa sinh thái nhân văn” Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, 2001 [2]; Hồ Sĩ Quý (chủ biên), “Mối quan hệ con người và tự nhiên trong sự phát triển xã hội” Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2000 [144]; Các công trình trên đã phân tích cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của quan hệ giữa con người và môi trường; ngoài ra các công trình đã phân tích tính quy định và tác động qua lại giữa con người và môi trường, theo đó môi trường tự nhiên là cơ sở của sự tồn tại phát triển con người, gắn với sự phát triển đa dạng sinh học của tự nhiên, con người và tự nhiên tồn tại như là một chỉnh thể cân bằng, hài hòa. Những công trình này đã phân tích mối quan hệ qua lại giữa các yếu tố trong hệ thống Tự nhiên – Con người – Xã hội, bàn về thực trạng và giải pháp cho vấn đề môi trường ở Việt Nam, trong đó có dành một sự quan tâm lớn đến việc xây dựng ý thức đạo đức sinh thái và xây dựng nếp sống văn hóa sinh thái. Đề tài “Trách nhiệm pháp lý dân sự trong lĩnh vực môi trường ở Việt Nam” do Viện nghiên cứu Khoa học Pháp lý – Bô Tư pháp thực hiện năm 2002, nêu lên cơ sở lý luận của pháp luật về trách nhiệm pháp lý dân sự trong lĩnh vực BVMT ở Việt Nam. Đề tài đã đánh giá một cách tổng thể, toàn diện về lý luận và thực trạng pháp luật trách nhiệm pháp lý trong lĩnh vực BVMT ở Việt Nam, cũng như hiện trạng vi phạm pháp luật BVMT và thực tiễn áp dụng pháp luật về trách nhiệm pháp lý trong lĩnh vực BVMT. Sách “Quản lý xã hội đối với hoạt động môi trường ở Thành phố Hà Nội hiện nay” của tác giả Đinh Diệu Linh, đã làm rõ một số vấn đề lý luận về môi trường và quản lý xã hội về môi trường, mối quan hệ giữa môi trường với đời sống con người và sự phát triển KT - XH , đưa ra một số đề xuất mang tính thực tiễn để giảm thiểu ô nhiễm môi trường ở Hà Nội [112]. Sách “Triết lý phát triển ở Việt Nam mấy vấn đề cốt yếu” của tác giả Phạm Xuân Nam (chủ biên), đã làm rõ một số triết lý hướng hành động ở đây là phải làm sao xác lập được mối quan hệ cộng sinh hài hòa lâu bền giữa con người và tự nhiên, tác giả cho rằng phải làm sao duy trì và nâng cao chất lượng sống của con người thuộc thế hệ hôm nay và cá thế hệ mai sau trong khả năng chịu tải và tự phục hồi của các hệ sinh thái tự 13
  20. nhiên, không thể xem tự nhiên như một nguồn vô tận để khai thác. Tác giả cho rằng muốn xác lập được mối quan hệ giữa con người với con người trong xã hội. Chỉ khi nào xây dựng thành công trên thực tế mô hình phát triển kinh tế - xã hội hợp lý, trong đó tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, nghĩa là mô hình thể hiện tính trí tuệ, tính đạo đức và tính nhân văn cao, thì viện BVMT sinh thái tự nhiên vì sự phát triển bền vững mới trở thành hiện thực. Công trình “Quản lý nhà nước đối với tài nguyên môi trường vì sự phát triển bền vững dưới góc nhìn xã hội - nhân văn” của tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm [171], đã đề cập trực tiếp đến những vấn đề liên quan đến QLNN đối với TNMT, trong đó tác giả đã nêu lên những nguyên lý cơ bản hay triết lý tổng quát của mối quan hệ con người - xã hội - tự nhiên, làm rõ quan niệm, vị trí, vai trò của QLNN đối với TN&MT trong các mối quan hệ nêu trên. Bên cạnh đó, tác giả còn nêu lên thực trạng của QLNN đối với TNMT, chỉ ra những nguyên nhân đưa đến những thực trạng đó trong thời gian qua ở nước ta, nhất là từ khi đổi mới. Tác giả đề xuất một số quan điểm lý luận về cơ sở xã hội nhân văn trong QLNN đối với TN&MT dựa trên cơ sở lý luận về mối qua hệ giữa phát triển kinh tế, phát triển con người, xã hội, khai thác tài nguyên BVMT. Tác giả đã nêu lên một số giải pháp chủ yếu nhằm sử dụng tối ưu các công cụ xã hội nhân văn trong QLNN về khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên và BVMT theo hướng phát triển bền vững ở Việt Nam. Tác giả, Phạm Thị Ngọc Trầm trong bài viết “Khía cạnh triết học xã hội vấn đề môi trường sinh thái ở Việt Nam” [169], cho rằng môi trường sinh thái hay môi trường sống vốn là môi trường tự nhiên, trong đó đối trượng nghiên cứu khoa học tự nhiên trực tiếp là sinh thái học - sinh học. Nói đến môi trường sinh thái là nói đến môi trường tự nhiên - xã hội hay môi trường sinh thái - nhân văn và thực chất vấn đề môi trường sinh thái là vấn đề về mối quan hệ giữa con người - xã hội - tự nhiên. Theo tác giả, cùng với sự phát triển của xã hội, dưới tác động của con người, môi trường sinh thái đang ngày càng biến đổi theo chiều hướng không tốt. Do vậy, để BVMT sinh thái, cần có sự thay đổi cơ bản trong quan niệm về sự phát triển, thay đổi quan niệm về tự nhiên, về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, đồng thời 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2