intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Văn học: Tiểu thuyết của các nhà văn dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc sau 1986 từ góc nhìn văn hóa

Chia sẻ: Cẩm Tú | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:164

47
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án nghiên cứu một số phương thức nghệ thuật nhằm biểu đạt văn hóa trong tiểu thuyết của các nhà văn dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc: nghệ thuật sử dụng huyền thoại, nghệ thuật sử dụng các motif và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ theo cách riêng của các nhà văn dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc – tạo nên dấu ấn độc đáo về văn hóa vùng miền, văn hóa tộc người trong sự cộng sinh với lịch sử, phong tục và tín ngưỡng dân gian.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Văn học: Tiểu thuyết của các nhà văn dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc sau 1986 từ góc nhìn văn hóa

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI BẾ THỊ THU HUYỀN TIỂU THUYẾT CỦA CÁC NHÀ VĂN DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI PHÍA BẮC SAU 1986 TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA Ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 9. 22. 01. 21 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP HÀ NỘI - 2018
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trong luận án đều được trích dẫn nguồn trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nào. Tác giả luận án BẾ THỊ THU HUYỀN
  3. DANH MỤC CÁC TỪ NGỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN DTTS: dân tộc thiểu số MNPB: miền núi phía Bắc GNVH: góc nhìn văn hóa
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU .................................. 6 1.1. Tình hình nghiên cứu về tiểu thuyết của các tác giả DTTS MNPB sau 1986 ........... 6 1.2. Tình hình nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa ................................................. 14 1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu và hướng tiếp cận của đề tài .................................. 21 CHƯƠNG 2. NHỮNG TIỀN ĐỀ TỰ NHIÊN, LỊCH SỬ, VĂN HÓA, XÃ HỘI VÀ DIỆN MẠO TIỂU THUYẾT CỦA CÁC NHÀ VĂN DTTS MNPB SAU 1986 ...... 26 2.1. Những tiền đề tự nhiên lịch sử, văn hóa, xã hội khu vực MNPB......................... ... 26 2.2. Diện mạo tiểu thuyết của các nhà văn DTTS MNPB sau 1986 ............................... 46 CHƯƠNG 3. HỆ BIỂU TƯỢNG TRONG TIỂU THUYẾT CỦA CÁC NHÀ VĂN DTTS MNPB SAU 1986 ................................................................................................ 60 3.1. Giới thuyết về biểu tượng................................................ ....................................... .60 3.2. Hệ biểu tượng về thiên nhiên............................................................................... ... .64 3.3. Hệ biểu tượng về con người................................................................................. ... .77 3.4. Hệ biểu tượng về văn hóa xã hội.......................................................................... .. .92 CHƯƠNG 4. MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC BIỂU ĐẠT VĂN HÓA TRONG TIỂU THUYẾT CỦA CÁC NHÀ VĂN DTTS MNPB SAU 1986 ..................................... 111 4.1. Nghệ thuật sử dụng huyền thoại ............................................................................. 111 4.2. Nghệ thuật sử dụng các motif................................................................................. 119 4.3. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ ................................................................................ 130 KẾT LUẬN .................................................................................................................. 146 DANH MỤC CÔNG TRÌNH TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 150 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................... 151
  5. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài 1.1. Sau 1986, đất nước bước vào thời kì Đổi mới trên nhiều lĩnh vực trong đó có văn học nghệ thuật. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền văn học nước nhà, văn học các DTTS Việt Nam với tư cách là một bộ phận cấu thành và không thể thiếu của nền văn học ấy, đã đạt được một bước tiến dài cả về số lượng và chất lượng. Trong đội ngũ nhà văn DTTS Việt Nam hiện đại, khu vực MNPB là khu vực có sự phát triển nổi bật hơn cả, với nhiều gương mặt các nhà văn thuộc nhiều DTTS khác nhau, có những đóng góp đáng kể ở thể loại tiểu thuyết: Vi Hồng, Triều Ân, Ma Trường Nguyên, Hoàng Luận, Hữu Tiến, Hoàng Quảng Uyên, Cao Duy Sơn, Chu Thanh Hương (dân tộc Tày), Vương Trung, Cầm Hùng, Thái Tâm (dân tộc Thái), Hà Trung Nghĩa (dân tộc Mường), Địch Ngọc Lân (dân tộc Nùng), Lù Dín Siềng (dân tộc Giáy), Mã Anh Lâm (dân tộc Mông)… 1.2. Khu vực MNPB là khu vực đặc sắc trong bản đồ các vùng văn hóa Việt Nam, ở đây có những đặc trưng của một vùng văn hóa hội tụ đầy đủ những tinh hoa văn hóa độc đáo, dễ khu biệt với các vùng miền khác trên cả nước. Đó là khu vực sinh sống của đồng bào các DTTS: Tày, Thái, Mông, Nùng, Dao, Mường, Giáy…. với bản sắc văn hóa riêng biệt, độc đáo mang dấu ấn đặc trưng của mỗi tộc người. Mỗi nhà văn là con đẻ của một nền văn hóa, vừa tiếp nhận, hấp thụ vừa bồi đắp, tô điểm thêm cho nền văn hóa mà họ thuộc về. Bởi vậy, một cách tự nhiên, đời sống văn hóa của đồng bào đã in dấu vào sáng tác tiểu thuyết của các nhà văn DTTS MNPB đậm nét và vô cùng độc đáo. Đây là vùng văn hóa có sự giao thoa, tiếp biến và tích hợp khá rõ giữa văn hóa của các tộc người cùng sinh sống, giữa văn hóa truyền thống và văn hóa hiện đại. Đây cũng là nơi đánh dấu sự ra đời của tác phẩm đầu tiên thuộc thể loại tiểu thuyết của đồng bào các DTTS (tiểu thuyết Muối lên rừng của nhà văn dân tộc Tày Nông Minh Châu) – có ý nghĩa đánh một dấu mốc hoàn thiện trong hành trình phát triển về mặt thể loại của văn học DTTS; là khu vực tập trung đông nhất những người cầm bút là đồng bào dân tộc, cũng là khu vực có nhiều kết tinh nghệ thuật nhất cả nước ở thể loại tiểu thuyết. Nghiên cứu tiểu thuyết của các nhà văn DTTS MNPB sau 1986 là một việc làm cần thiết một mặt nhằm khẳng định sự nỗ lực vượt bậc của đội ngũ các nhà văn DTTS MNPB trên hành trình hoàn thiện về thể loại đồng thời khám phá những nét riêng đặc sắc làm nên gương mặt văn hóa của đồng bào các DTTS MNPB trong tiểu thuyết của chính họ. 1
  6. 1.3. Nghiên cứu văn học từ từ GNVH trong những năm gần đây đã trở thành một xu hướng nghiên cứu văn học được giới nghiên cứu quan tâm. Nghiên cứu văn học từ GNVH là một hướng nghiên cứu liên ngành, phù hợp với xu thế thời đại, đem lại những khả năng mới, những khám phá mới cho khoa học văn học nói riêng, khoa học xã hội nói chung, ngày càng khẳng định được những ưu điểm của nó. Tiếp cận văn học từ GNVH hướng tới mục tiêu khám phá các giá trị văn học không chỉ trên bình diện hình tượng mà từ chiều sâu văn hóa của các hình tượng văn chương, vốn là một trong những giá trị căn bản của tác phẩm văn học. GNVH là một hướng nghiên cứu tỏ ra phù hợp và có nhiều lợi thế khi nghiên cứu tiểu thuyết của các nhà văn DTTS MNPB sau 1986 – bộ phận văn học hình thành và phát triển trên một vùng văn hóa vào loại đặc sắc của nước nhà, được viết bởi chính những người con DTTS - những “sứ giả văn hóa” (Dương Thuấn) của chính cộng đồng dân tộc mà họ thuộc về. 1.4. Bản thân người nghiên cứu là một người con dân tộc Tày luôn yêu mến và tự hào về những nét đẹp văn hóa truyền thống của cha ông; đồng thời là một người nghiên cứu và giảng dạy văn học tại một trường đại học thuộc khu vực MNPB; tôi mong muốn những nghiên cứu của bản thân sẽ trau dồi thêm những kiến thức và năng lực cần thiết cho một người giáo viên trên hành trình sự nghiệp của mình. Những nghiên cứu của ngày hôm nay là tiền đề cho những dự định, những khát vọng lớn hơn trong tương lai nhằm khẳng định, giữ gìn, phát huy truyền thống văn học, văn hóa của cộng đồng các DTTS tại quê nhà. Vì những lí do trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài “Tiểu thuyết của các nhà văn dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc sau 1986 từ góc nhìn văn hóa” làm đề tài nghiên cứu trong luận án của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu Luận án nghiên cứu tiểu thuyết của các nhà văn DTTS MNPB sau 1986 từ góc nhìn văn hóa nhằm chỉ ra cái nhìn độc đáo và dấu ấn văn hóa tộc người trong tư duy nghệ thuật của họ. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận án tập trung thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu sau: Thứ nhất, phác thảo tình hình nghiên cứu tiểu thuyết của các nhà văn DTTS MNPB sau 1986, phác thảo lịch sử nghiên cứu văn học từ GNVH, từ đó đưa ra những đánh giá khách quan cũng như hướng tiếp cận của đề tài. 2
  7. Thứ hai, phân tích những tiền đề tự nhiên, lịch sử, văn hóa, xã hội cùng những tác động, những ảnh hưởng của chúng vào đời sống văn hóa, bản sắc văn hóa của đồng bào các DTTS MNPB; nghiên cứu chủ thể văn hóa (cộng đồng các DTTS MNPB) trên các phương diện vũ trụ quan, nhân sinh quan và căn tính văn hóa nổi bật của các tộc người thiểu số MNPB từ góc nhìn nhân học văn hóa nhằm khám phá đặc trưng tư duy sáng tạo cũng như tâm lí tiếp nhận của đồng bào; phác họa diện mạo tiểu thuyết của các nhà văn DTTS MNPB sau 1986 từ đó đánh giá sự nỗ lực và trưởng thành của đội ngũ nhà văn. Thứ ba, phác họa, mô tả và lí giải hệ thống biểu tượng trong tiểu thuyết của các nhà văn DTTS MNPB sau 1986; phân tích ý nghĩa văn hóa của các biểu tượng gắn với truyền thống và đặc trưng văn hóa các tộc người. Thứ tư, nghiên cứu một số phương thức nghệ thuật nhằm biểu đạt văn hóa trong tiểu thuyết của các nhà văn DTTS MNPB: nghệ thuật sử dụng huyền thoại, nghệ thuật sử dụng các motif và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ theo cách riêng của các nhà văn DTTS MNPB – tạo nên dấu ấn độc đáo về văn hóa vùng miền, văn hóa tộc người trong sự cộng sinh với lịch sử, phong tục và tín ngưỡng dân gian. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu chính của luận án là tiểu thuyết của các nhà văn DTTS MNPB sau 1986. Bên cạnh đó, luận án còn nghiên cứu các điều kiện tự nhiên, lịch sử, xã hội, văn hóa của các cộng đồng DTTS MNPB cùng với chủ thể văn hóa – các tộc người thiểu số MNPB - như những tiền đề quan trọng góp phần kiến tạo và sáng tạo các nội dung văn hóa, ý nghĩa văn hóa trong tiểu thuyết. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Do số lượng tác phẩm khảo sát khá phong phú nên luận án, một mặt cố gắng bao quát về diện, mặt khác, tập trung vào điểm, đi sâu nghiên cứu những tác phẩm có chất lượng nghệ thuật cao, tiêu biểu cho tiểu thuyết DTTS MNPB từ 1986 đến nay. Để thực hiện tốt nhiệm vụ nghiên cứu, về cơ bản, luận án dựa vào hướng tiếp cận văn hóa để lí giải, cắt nghĩa thành tựu cũng như giới hạn của tiểu thuyết DTTS MNPB thời kì đổi mới chứ không có tham vọng nghiên cứu tất cả mọi vấn đề của bộ phận tiểu thuyết này. 4. Phương pháp nghiên cứu của luận án Luận án sử dụng các phương pháp chủ yếu sau: 4.1. Phương pháp hệ thống 3
  8. Phương pháp này được vận dụng để luận án có cái nhìn hệ thống, toàn diện về thể loại tiểu thuyết của các tác giả DTTS MNPB sau 1986 từ GNVH. 4.2. Phương pháp so sánh Nhằm bước đầu tìm ra sắc thái văn hóa độc đáo giữa những sáng tác tiểu thuyết của các nhà văn thuộc các tộc người khác nhau; sự khác biệt về sắc thái văn hóa trong tiểu thuyết của các nhà văn DTTS MNPB sau 1986 với giai đoạn trước đó; sự khác biệt về sắc thái văn hóa trong tiểu thuyết của các nhà văn DTTS MNPB với tiểu thuyết của các tác giả DTTS ở các vùng miền khác trong cả nước. 4.3. Phương pháp liên ngành văn hóa học Đây là phương pháp chủ đạo, xuyên suốt trong toàn bộ quá trình triển khai luận án. Phương pháp này vận dụng một số tri thức liên ngành: nhân loại học, triết học, phân tâm học, ngôn ngữ học, lịch sử, tôn giáo… để giải thích văn học bằng những truyền thống văn hóa, mã văn hóa, hoạt động văn hóa… Phương pháp này tạo nên cái nhìn bao quát, toàn diện về vấn đề cần nghiên cứu. Phương pháp này trở thành công cụ đắc lực khi giải mã văn học, giúp người đọc thấy được mối quan hệ giữa văn học với các ngành khoa học khác. Bên cạnh đó, chúng tôi vận dụng cách đọc liên văn bản, cách phân tích diễn ngôn nhằm chỉ ra những biểu hiện chiều sâu của văn hóa trong tác phẩm văn học, cắt nghĩa những biểu hiện văn hóa từ tâm thức của cộng đồng dân tộc. 4.4. Phương pháp thống kê – phân loại Phương pháp này được sử dụng trong quá trình khảo sát các tác phẩm tiểu thuyết của các nhà văn DTTS MNPB sau 1986 nhằm có những cứ liệu xác đáng cho các luận điểm. 4.5. Tiếp cận thi pháp học Đây là phương pháp được sử dụng để khám phá những phương thức nghệ thuật chủ yếu nhằm biểu đạt văn hóa trong tiểu thuyết của các nhà văn DTTS MNPB sau 1986. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Đề tài Tiểu thuyết của các nhà văn dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc sau 1986 từ góc nhìn văn hóa lần đầu tiên khảo sát hệ thống tiểu thuyết của các nhà văn DTTS MNPB sau 1986 từ góc độ văn hóa một cách hệ thống, chuyên sâu qua các bình diện: những tiền đề tự nhiên, lịch sử, văn hóa, xã hội; những đặc trưng của chủ thể văn hóa như những yếu tố quan trọng góp phần tạo nên cội nguồn văn hóa cho tiểu thuyết của các nhà văn DTTS MNPB. 4
  9. Khảo sát, hệ thống hóa và giải mã hệ thống biểu tượng trong tiểu thuyết của các nhà văn DTTS MNPB sau 1986 dựa trên những đặc trưng văn hóa của khu vực MNPB, từng vùng văn hóa nói chung và bản sắc văn hóa của từng cộng đồng dân tộc nói riêng. Nghiên cứu một số phương thức nghệ thuật thể hiện và chuyển tải ý nghĩa văn hóa, thông điệp văn hóa trong tác phẩm của các nhà văn. 6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án Luận án là công trình có ý nghĩa lí luận trong việc khảo sát, hệ thống hóa những công trình nghiên cứu văn học trong và ngoài nước từ góc nhìn văn hóa, từ đó đưa ra quan điểm, góc nhìn riêng soi chiếu từ hệ thống biểu tượng và các phương thức nghệ thuật nhằm biểu đạt văn hóa đặc thù. Luận án là công trình đầu tiên hệ thống hóa một cách tương đối đầy đủ về tiểu thuyết của các nhà văn DTTS MNPB sau 1986; nghiên cứu, khám phá các tác phẩm tiểu thuyết của các nhà văn DTTS MNPB từ một góc nhìn mới mẻ và phù hợp: GNVH thông qua hệ thống biểu tượng và một số phương thức nghệ thuật nhằm biểu đạt văn hóa của các nhà văn; qua đó thấy được dấu ấn văn hóa, gương mặt văn hóa của cộng đồng các DTTS MNPB. Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo khi giảng dạy mảng văn học DTTS cho giảng viên và sinh viên các trường cao đẳng, đại học. 7. Cơ cấu của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Luận án được tổ chức thành 4 chương: Chương 1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu Chương 2. Những tiền đề tự nhiên, lịch sử, văn hóa, xã hội và diện mạo tiểu thuyết của các nhà văn dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc sau 1986 Chương 3. Hệ thống biểu tượng trong tiểu thuyết của các nhà văn dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc sau 1986 Chương 4. Một số phương thức biểu đạt văn hóa trong tiểu thuyết của các nhà văn dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc sau 1986 5
  10. CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Tình hình nghiên cứu về tiểu thuyết của các tác giả dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc sau 1986 1.1.1. Những nghiên cứu có tính chất tổng quát So với việc nghiên cứu văn học Việt Nam hiện đại nói chung thì những nghiên cứu dành cho mảng văn học DTTS trong đó có mảng tiểu thuyết của các nhà văn DTTS còn tương đối khiêm tốn. Thực tế, chưa có những công trình chuyên biệt nghiên cứu về tiểu thuyết của các nhà văn dân DTTS MNPB mà mới chỉ xuất hiện những công trình nghiên cứu có nhận xét, đánh giá chung về văn học, văn xuôi miền núi mà tiểu thuyết là một phần trong đó. Có thể kể đến công trình Nhà văn các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại (NXB Văn hóa dân tộc, 1988) với các bài viết về 16 nhà văn, nhà thơ DTTS, trong đó có một số tác giả tiểu thuyết: Triều Ân, Nông Minh Châu, Vi Hồng. Các bài viết đã chỉ ra những nét nổi bật về nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm của mỗi nhà văn, với những thành công và hạn chế. Với 4 cuốn sách nghiên cứu, lí luận phê bình: Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại (1995), Về một mảng văn học dân tộc (1999), Văn học và miền núi (2002), Tiếp cận văn học dân tộc thiểu số (2011), Lâm Tiến là nhà nghiên cứu dành nhiều tâm sức cho văn học các DTTS. Trong các công trình của mình, Lâm Tiến đã khảo sát và phân tích kĩ lưỡng đối tượng mà ông đặc biệt quan tâm: nền văn học của các DTTS, từ đó phác thảo khái quát diện mạo nền văn học hiện đại của họ; phân tích những ảnh hưởng theo chiều hướng tiếp thu văn học dân gian của các tác giả DTTS hiện đại; chỉ ra những biểu hiện khác nhau của các nhà văn DTTS khi sử dụng chất liệu truyền thống là văn học dân gian để thấy được những nét riêng biệt, đặc sắc của từng người. Đồng thời, ông cũng đưa ra lý do giải thích vì sao, văn xuôi các DTTS chưa thực sự phát triển trong giai đoạn đầu, do rất ít các nhà văn DTTS phát biểu về quan điểm sáng tác của mình, cũng như chưa có được những bài phê bình và tiểu luận về văn học. Tuy nhiên, tác giả cũng khẳng định văn xuôi các DTTS đã tạo cho mình những sắc thái riêng khá đặc sắc. Bên cạnh đó, Lâm Tiến cũng chỉ ra một số hạn chế về nghệ thuật: đơn giản trong cốt truyện, kết cấu, nhân vật thiếu cá tính, tác phẩm thiếu khả năng hư cấu nên ranh giới giữa truyện và kí không rõ rệt... “Tầm tư duy của nhà văn cũng chưa cao hơn nhân vật, cho nên chưa hòa vào từng nhân vật và thế giới riêng của nó, bằng tiết tấu của chính nó” [122; tr.220]. Trong bài Một mảng văn học đặc sắc (in trong Văn học và miền núi), Lâm Tiến có nêu ra những điểm theo ông vừa là mặt mạnh, vừa là hạn chế của một số tác giả văn xuôi DTTS, khẳng định những thành công nhất định với cái riêng mang bản sắc dân tộc trong sáng tác của Vi Hồng, Cao Duy Sơn… Theo ông, tác phẩm của Vi Hồng rất đậm bản sắc văn hóa dân 6
  11. tộc Tày nhưng lối nói ví von truyền thống được dùng quá nhiều, làm cho truyện nặng nề, phát triển chậm và có phần đơn điệu. Trong cuốn Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam thời kì hiện đại – Một số đặc điểm, nhóm tác giả Trần Thị Việt Trung – Cao Thị Hảo (NXB Đại học Thái Nguyên, 2011) đã có những nghiên cứu bao quát trên diện rộng về văn học dân tộc thiểu số Việt Nam nói chung (Chương 1: Khái quát về văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại) và nghiên cứu riêng về mảng văn xuôi (Chương 2: Văn xuôi dân tộc thiểu số Việt Nam thời kì hiện đại – Một số đặc điểm cơ bản) cũng như phần viết riêng về tác giả Vi Hồng – một cây bút tiểu thuyết tiêu biểu của MNPB (Lời văn nghệ thuật – Một phương diện đặc sắc trong tiểu thuyết của Vi Hồng in trong Chương 4: Một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu). Những năm gần đây, nhiều cuộc hội thảo lớn nhỏ trực tiếp đề cập mối quan tâm đặc biệt với văn học DTTS đã được tổ chức. Ngày 18/11/2011, tại thành phố Lạng Sơn, Hội Văn học Nghệ thuật các DTTS Việt Nam đã tổ chức hội thảo Văn học dân tộc thiểu số với sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước trong thời kì đổi mới. Hội thảo đã nhìn lại quá trình hình thành và phát triển văn học các DTTS nói chung, văn xuôi các DTTS nói riêng, khẳng định những đóng góp quan trọng của văn học DTTS trong sự nghiệp văn học chung của cả nước, mỗi trang viết của các nhà văn là tiếng nói tự hào, là sự kết tinh văn hóa mỗi tộc người trên đất nước Việt Nam. Đồng thời, nhiều ý kiến xác đáng được đặt ra trong hội thảo: Làm thế nào để việc tăng về số lượng người viết cũng đồng thời với tăng các tác phẩm có giá trị cao? Viết như thế nào để không bị lạc hậu, lỗi thời?... Ngày 12/4/2014, Hội thảo khoa học quốc gia Ngôn ngữ và văn học vùng Tây Bắc diễn ra tại Trường Đại học Tây Bắc, thành phố Sơn La. Nhiều báo cáo tại hội thảo đã trực tiếp bàn về vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc trong nghiên cứu và giảng dạy văn học DTTS: Ảnh hưởng của văn học dân gian trong loại hình tự sự dân tộc Thái thời kì hiện đại (Nguyễn Thị Hải Anh), Tăng cường nghiên cứu và giảng dạy văn học địa phương – Một trong những yếu tố quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa vùng Tây Bắc (Nguyễn Thị Thu Hoài)… Ngày 15/5/2014, Viện Văn học tổ chức Hội thảo khoa học toàn quốc Phát triển văn học Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế, nhiều vấn đề về vẻ đẹp, thành tựu, sự đóng góp, đội ngũ, những hạn chế, khúc mắc… của văn học các DTTS trong sự phát triển đời sống văn học nước nhà đã được trình bày. Đặc biệt, vấn đề truyền thống và hiện đại trong văn học DTTS lại một lần nữa được đặt ra với những trăn trở của nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu trong cả nước. 1.1.2. Nghiên cứu về một số hiện tượng tiêu biểu Những năm gần đây, một số bài nghiên cứu và các luận văn, luận án bước đầu tìm hiểu về tác giả, hoặc một tác phẩm cụ thể trong mảng tiểu thuyết của các nhà văn 7
  12. DTTS MNPB, nhưng mới chỉ tập trung vào một vài giả quen thuộc như Vi Hồng, Ma Trường Nguyên, Cao Duy Sơn, Triều Ân. Vi Hồng là tác giả được các nhà nghiên cứu, học viên và sinh viên của Đại học Thái Nguyên quan tâm hơn cả. Có nhiều công trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ, luận văn Thạc sĩ… lựa chọn Vi Hồng và tiểu thuyết của ông làm đề tài nghiên cứu: Tìm hiểu sự nghiệp sáng tác của nhà văn Vi Hồng (Phạm Mạnh Hùng – Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ)… Ngoài ra, có khá nhiều bài viết về tác giả này được in rải rác trên các báo: “Nhà văn Vi Hồng như tôi đã biết” (Dương Thuấn, Tạp chí Văn nghệ dân tộc và miền núi, 2002), “Cách viết tiểu thuyết của nhà văn Vi Hồng” (Lâm Tiến, Tạp chí Non nước Cao Bằng, số 3 năm 2006), “Bản sắc dân tộc trong ngôn ngữ tác phẩm Vi Hồng” (Phạm Mạnh Hùng, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống số 4 năm 2006), “Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Vi Hồng” (Phạm Mạnh Hùng, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 2 năm 2006)… Trong các chuyên luận về văn xuôi miền núi, Vi Hồng cũng là tác giả thường xuyên được nhắc tới như một tên tuổi nổi bật của văn học DTTS MNPB, được viết thành một phần trong chuyên luận: Vi Hồng và một miền núi được dân gian hóa (trong chuyên luận Văn xuôi Việt Nam hiện đại về dân tộc và miền núi, Phạm Duy Nghĩa, NXB Văn hóa dân tộc, 2012), Nhà văn Vi Hồng – Bản sắc dân tộc trong cảm hứng nhân văn truyền thống (trong chuyên luận Bản sắc văn hóa dân tộc trong văn xuôi của các nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam, Đào Thủy Nguyên – Dương Thu Hằng, NXB Đại học Thái Nguyên, 2014). Đặc biệt, năm 2006, Hội thảo về nhà văn Vi Hồng được tổ chức tại Trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu với nhiều bài viết có giá trị. Gần đây, tên tuổi của Cao Duy Sơn được biết tới với nhiều giải thưởng văn học có giá trị, khẳng định được vị trí đặc biệt trong nền văn học DTTS Việt Nam hiện đại. Cao Duy Sơn cũng là tên tuổi được các nhà nghiên cứu quan tâm: “Cả đời tôi chỉ đeo đuổi đề tài về người miền núi” (Chu Thị Hằng, Báo Văn hóa số 1609 ra ngày 12/11/2008), “Nhà văn người Cô Xàu đoạt giải văn chương” (Hứa Hiếu Lễ, Tạp chí Văn hóa – Văn nghệ Cao Bằng, 5/2008), Nhà văn Cao Duy Sơn – Đến với hiện đại từ cội nguồn văn hóa truyền thống (trong chuyên luận Bản sắc văn hóa dân tộc trong văn xuôi của các nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam, Đào Thủy Nguyên – Dương Thu Hằng, NXB Đại học Thái Nguyên, 2014)… Năm 2007, tại Cao Bằng diễn ra Hội thảo về nhà thơ, nhà văn Triều Ân. Những bài nghiên cứu có chất lượng đã được tập hợp trong cuốn Triều Ân, tác giả, tác phẩm và dư luận (NXB Văn hóa dân tộc, 2009) do Hồng Thanh tuyển chọn. Nhìn chung, các công trình, bài viết mới chỉ tập trung vào một số tác giả dân tộc Tày (Vi Hồng, Cao Duy Sơn, Triều Ân, Ma Trường Nguyên) và một số tác phẩm nổi bật 8
  13. của họ, còn nhiều tác giả, tác phẩm tiểu thuyết thuộc các dân tộc anh em khác (Nùng, Mường, Thái, Giáy, Mông…) ít được các nhà nghiên cứu quan tâm. 1.1.3. Nghiên cứu từ góc độ văn hóa Cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu chuyên biệt về tiểu thuyết của các nhà văn DTTS MNPB sau 1986 trên phương diện văn hóa mà chỉ có những công trình nghiên cứu về văn xuôi miền núi trên phương diện văn hóa trong đó tiểu thuyết là một thể loại được đề cập tới ở mức độ khiêm tốn. Công trình Bản sắc văn hóa dân tộc trong văn xuôi của các nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam (Đào Thủy Nguyên (chủ biên) – Dương Thu Hằng) – NXB Đại học Thái Nguyên, 2014, có thể coi là công trình dày dặn đầu tiên nghiên cứu phương diện văn hóa trong văn xuôi DTTS. Các tác giả đã tìm hiểu bản sắc dân tộc trong văn xuôi DTTS Việt Nam trên hai phương diện chính là nội dung và nghệ thuật, được thể hiện ở chương 2: Những mạch nguồn cảm hứng mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc trong văn xuôi dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại và chương 3: Một số phương diện nghệ thuật đặc sắc thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc trong văn xuôi dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại. Nhìn chung, công trình Bản sắc văn hóa dân tộc trong văn xuôi của các nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam của nhóm tác giả Đào Thủy Nguyên, Dương Thu Hằng đã có sự nghiên cứu công phu về sự thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc trong văn xuôi DTTS (trong đó có thể loại tiểu thuyết) trên hai phương diện cơ bản là nội dung và nghệ thuật. Bên cạnh việc nghiên cứu tìm hiểu bản sắc văn hóa trong văn xuôi DTTS thời kì hiện đại trên diện rộng (chương II, III), các tác giả cũng đã chú trọng nghiên cứu bản sắc dân tộc qua một số cây bút văn xuôi tiêu biểu, trong đó có Vi Hồng và Cao Duy Sơn là hai cây bút tiểu thuyết nổi bật của khu vực MNPB, nằm trong phạm vi nghiên cứu của đề tài luận án mà chúng tôi đang triển khai. Ngoài ra, nhiều công trình, bài viết khác cũng có ít nhiều đề cập tới phương diện văn hóa trong văn xuôi của các nhà văn DTTS khu vực MNPB. Theo sự thống kê ban đầu, chúng tôi thấy các công trình, bài viết đó tập trung chủ yếu vào các vấn đề sau: (1) Ý nghĩa, tầm quan trọng của bản sắc văn hóa trong văn học DTTS; (2) Vai trò của nhà văn DTTS với việc thể hiện, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; (3) Sự thể hiện của bản sắc văn hóa dân tộc trên phương diện nội dung văn xuôi nói chung, tiểu thuyết nói riêng của các nhà văn DTTS MNPB; (4) Sự thể hiện của bản sắc văn hóa dân tộc trên phương diện nghệ thuật văn xuôi nói chung, tiểu thuyết nói riêng của các nhà văn DTTS MNPB. Thứ nhất, ý nghĩa, tầm quan trọng của bản sắc văn hóa trong văn học DTTS là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, nhất là trong bối cảnh hiện nay, khi mà bản sắc văn hóa dân tộc đang đứng trước nguy cơ bị mai một. Chính Lâm Tiến, nhà nghiên cứu văn học người dân tộc Nùng đã bày tỏ quan ngại: “Càng gần tới thế kỉ XXI 9
  14. thì khoảng cách giữa văn học Kinh và văn học các DTTS ngày càng xa dần. Không chỉ xa về số lượng, mà cả về chất lượng, trong đó bản sắc dân tộc trong văn học các DTTS bị mai một dần” [125; tr.31]. Và có một thực tế là “những nhà văn dân tộc Tày sau này phần nào đã “đô thị hóa” cách viết, làm cho cách viết của họ hơi xa lạ với cách cảm, cách nghĩ, cách nói của người lao động miền núi đích thực. Nhưng thế mạnh của họ là tăng cường chất tự sự, chất văn xuôi trong văn học” [125; tr.27]. Nhóm tác giả Đào Thủy Nguyên – Dương Thu Hằng trong công trình Bản sắc văn hóa dân tộc trong văn xuôi của các nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam (NXB Đại học Thái Nguyên, 2014) cho rằng cần “giải quyết các vấn đề quan trọng đang đặt ra trong thực tiễn đời sống văn học các DTTS hiện nay: Bản sắc văn hóa trong văn xuôi của các DTTS Việt Nam hiện đại là gì? Trước tác động của quá trình nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bản sắc ấy hiện đang tồn tại và phát triển ra sao, với những mặt mạnh và hạn chế như thế nào?... Từ đó, có cơ sở để đưa ra những giải pháp cần thiết, góp phần ngăn chặn sự mai một và bảo tồn, xây dựng, phát triển tinh hoa văn hóa các DTTS Việt Nam” [72; tr.11]. Đây là một điều hết sức quan trọng, bởi thế hệ trẻ đồng bào các DTTS hiện nay đang đứng trước nguy cơ ngày càng trở nên xa rời nguồn cội văn hóa – văn học của chính dân tộc mình. “Chưa bao giờ, việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc lại được đặt ra một cách bức thiết như hiện nay. Bởi đây không chỉ là điều kiện để phát triển lành mạnh con người và xã hội mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển bền vững và tiến bộ của mỗi dân tộc trên thế giới” [72; tr.12]. Thứ hai, các công trình, bài viết đã thể hiện sự quan tâm đặc biệt đến các nhà văn DTTS, bởi chính họ là lực lượng trực tiếp sáng tác những tác phẩm văn học – kết tinh văn hóa tinh thần của cộng đồng dân tộc mà họ là thành viên. Theo nhà nghiên cứu Phong Lê, “Không ai là người nói lên được tốt nhất thế giới tâm hồn và khát vọng của mỗi dân tộc bằng chính người viết của dân tộc mình”. Do đó, ông nhấn mạnh yêu cầu về bản sắc đối với các nhà văn DTTS “đó là điều bắt buộc, bởi lẽ, thiếu cái đó – bản sắc dân tộc – tức là chưa có gì đáng nói cả - tức là chưa có cái để phân biệt họ với các nhà văn dân tộc khác” [83; tr.220]. Quan điểm này gần với quan điểm của nhà văn DTTS nước Nga – Raxun Gamzatov: “Khi văn học không còn được nuôi dưỡng bằng những gì cha ông để lại, mà chuyển sang xơi những thứ cao lương mĩ vị đem từ nước ngoài đến, khi văn học trút bỏ những phong tục, tập quán, ngôn ngữ và tính cách của dân tộc mình, khi văn học thay lòng đổi dạ với dân tộc mình, thì nó sẽ trở nên ốm o, quặt quẹo, chết dần chết mòn mà không một thứ thuốc nào có thể chứa được” (Đaghetxtan của tôi). Điều này, chính nhà văn Tô Hoài cũng đã khiêm tốn thừa nhận, dù ông có cố gắng đến đâu, những tác phẩm về miền núi của ông “cũng chỉ đạt tới đôi nét chấm phá của một bức tranh kí họa thông qua cảm xúc mới mẻ của mình” do “không thể có được tâm hồn và những hiểu biết để thể hiện như các cây bút dân tộc 10
  15. thiểu số” [41]. Theo lí giải của Vi Hồng, “Một dân tộc dù nhỏ bé đến đâu, họ vẫn có một tâm hồn rất riêng mà chỉ có những con đẻ thông minh và nhạy cảm của dân tộc mình mới có cơ may khám phá và phát hiện được. Cái thế giới tâm hồn rất riêng, rất đặc trưng của mỗi dân tộc có thể coi như vùng phát sáng của dân tộc họ”. “Nhà văn, nhà nghệ sĩ…phải bằng mọi cách phát hiện được con đường bí ẩn để đột nhập vào “vùng phát sáng”, vào “mắt”, vào “tâm” tâm hồn…Cái chỗ ấy bao giờ cũng yên tĩnh và nó phát khởi mọi động lực làm nên đời sống tâm hồn của một dân tộc… Điều này vô cùng quan trọng đối với thành công của một nghệ sĩ” [41]. Bởi bản sắc văn hóa dân tộc làm nên sức sống và vẻ đẹp riêng cho văn học DTTS nên các nhà văn phải ý thức sâu sắc điều này, theo Lâm Tiến (nhà nghiên cứu văn học dân tộc Nùng): “khi nhà văn không được tắm mình trong dòng chảy của truyền thống văn hóa dân tộc, không có được những kỉ niệm máu thịt thắm đượm tâm hồn dân tộc thì không thể có tác phẩm mang được bản sắc dân tộc đó” [122; tr.75]. Để có được những sáng tác văn học giàu bản sắc văn hóa dân tộc, nhà văn DTTS phải có một quá trình phấn đấu lâu dài và nhiều tố chất đáng quý: “Việc thể hiện bản sắc dân tộc trong văn học là sự phấn đấu tự giác của nhà văn. Nó đòi hỏi ý thức trách nhiệm cao và sự tìm tòi, sáng tạo không mệt mỏi của mỗi nhà văn dân tộc. Nó không chỉ đòi hỏi người viết có tâm huyết, có tình cảm sâu nặng với dân tộc mình, có vốn sống phong phú, có một chiều sâu tư tưởng cần thiết, mà còn phải thực sự có tài năng”. Do đó, đã có khá nhiều bài viết thể hiện sự lo lắng, sự quan tâm tới việc xây dựng đội ngũ, nâng cao chất lượng sáng tác để văn học DTTS có thể phát triển nhanh, mạnh, vững chắc trong thời kì đổi mới của đất nước: “Cần nâng cao chất lượng văn học viết về dân tộc và miền núi” (Dương Thuấn); “Văn học dân tộc thiểu số và vấn đề đội ngũ tác giả người dân tộc” (Hoàng Tuấn Cư); “Chương trình trọng tâm đối với văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số” (Chẩm Hương Việt); “Phát triển đội ngũ sáng tác là người dân tộc thiểu số ở Nam Tây Nguyên” (K.Đích)… (In trong Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số thời kì đổi mới – NXB Văn hóa Dân tộc, 2007). Tác giả Hùng Đình Quý cho rằng, chủ trương đầu tư phát triển đội ngũ nhà văn DTTS là vô cùng bức thiết bởi “Nếu không có một phương hướng đúng, đến một lúc nào đó con em các dân tộc rất dễ bị cắt đứt với truyền thống, làm mất đi bản sắc của dân tộc mình. Nghĩa là chúng ta khó hi vọng có một lớp các nhà văn của các dân tộc trong tương lai” [85; tr.120]. Thứ ba, một số nhà nghiên cứu đã khám phá bản sắc văn hóa dân tộc trong văn xuôi nói chung, tiểu thuyết về MNPB nói riêng trên phương diện nội dung tư tưởng: Ma Trường Nguyên – nhà thơ, nhà văn dân tộc Tày – trong cuốn tiểu luận Hiện đại mà dân tộc (NXB Hội nhà văn, 2009) đã thể hiện mối trăn trở đau đáu về mối quan hệ giữa hai yếu tố hiện đại và truyền thống trong bản sắc văn hóa dân tộc. Trong công trình nghiên cứu của ông có nhiều kiến giải hay về vấn đề bản sắc văn hóa trong văn học DTTS, có 11
  16. những kiến nghị và đề xuất khá hợp lí nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Phạm Duy Nghĩa với chuyên luận Văn xuôi Việt Nam hiện đại về dân tộc và miền núi (NXB Văn hóa dân tộc, 2012) đã có những phần trực tiếp bàn về phương diện văn hóa trong văn xuôi DTTS: Con người trong đời sống văn hóa (trong chương II: Văn xuôi miền núi nhìn từ các bình diện về con người) và Vấn đề truyền thống – hiện đại và vấn đề bản sắc dân tộc (trong chương III: Nghệ thuật văn xuôi miền núi và vấn đề truyền thống, hiện đại). Theo Phạm Duy Nghĩa, văn học về đề tài miền núi luôn là nơi tái hiện và bảo lưu những giá trị văn hóa trong đời sống các dân tộc bằng con đường riêng theo đặc trưng của văn học. Yếu tố văn hóa trong văn học có mặt ở hầu khắp các sáng tác về đề tài này. Nó tồn tại trong tính đa dạng, cả hữu thể và vô thể, vật chất và tinh thần, bề nổi và bề chìm: phong tục tập quán và lễ hội, kiến trúc, trang phục, hình thái sản xuất của các tộc người… Tác giả đã tập trung nghiên cứu những nét đặc sắc của văn hóa Tây Nguyên thể hiện trong văn xuôi trong sự so sánh tương quan với văn hóa Hmông (Mèo) – một dân tộc tiêu biểu của cộng đồng các dân tộc MNPB. Phạm Duy Nghĩa cũng khẳng định, bản sắc dân tộc trong văn học là tổng hòa mọi đặc điểm độc đáo chung cho sáng tác văn học của một dân tộc, phân biệt nó với dân tộc khác. Bản sắc dân tộc thể hiện không chỉ ở các yếu tố ngoại hiện thuộc về khách thể: nhà cửa, trang phục, thiên nhiên, tập quán sinh hoạt… mà còn được thể hiện ở tinh thần dân tộc, tính cách và tâm hồn dân tộc, nằm ở bề sâu. Thứ tư, một số công trình nghiên cứu, chuyên luận và bài viết đã đề cập đến sự thể hiện của bản sắc văn hóa dân tộc trong văn xuôi DTTS trên phương diện nghệ thuật. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, phương diện nghệ thuật vừa có những ưu thế vừa có những hạn chế nhất định trong việc thể hiện bản sắc dân tộc trong văn xuôi của các nhà văn DTTS MNPB. Trước hết, về mặt ưu điểm, các nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng, việc tiếp thu những yếu tố dân gian (lối nói giàu hình ảnh, sử dụng các thành ngữ, tục ngữ…), những cách ví von, so sánh, ẩn dụ, việc đưa ngôn ngữ dân tộc… vào văn xuôi đã tạo ra những hiệu ứng nhất định, góp phần làm nổi bật bản sắc văn hóa dân tộc trong tác phẩm. Theo Văn Giá, “trong bối cảnh suy tưởng sống động, những ví von, so sánh, ẩn dụ… của đồng bào các DTTS đã thực sự trở thành kho báu tuyệt diệu. Chúng vô cùng lợi hại, chúng là trợ thủ đắc lực số một của văn chương, bởi vì tự bản thân chúng đã bao hàm tính văn chương, tính nghệ thuật, dồi dào năng lượng thẩm mĩ” [30]. Nhóm tác giả Đào Thủy Nguyên – Dương Thu Hằng với những nghiên cứu của mình đã khẳng định: “Ngôn ngữ trong văn xuôi DTTS mang vẻ đẹp mộc mạc, giản dị, gắn với tư duy trực giác và cảm tính. Phép so sánh và nhân hóa được sử dụng như một thủ pháp đặc trưng và hữu hiệu” [72; tr.251] và “không chỉ dừng lại ở lớp từ vựng đặc trưng gắn với cuộc sống và con người miền núi, thể hiện rõ bản sắc dân tộc trong văn xuôi các nhà văn DTTS chính là một hệ thống phong phú những thành ngữ, 12
  17. tục ngữ, câu nói hình ảnh dân gian nhiều ý nghĩa mang đậm dấu ấn tư duy, cảm nhận của đồng bào DTTS” [72; tr.236]. Nhóm tác giả Trần Thị Việt Trung, Cao Thị Hảo cũng khẳng định, chính những yếu tố “sử dụng ngôn ngữ dân tộc trong sáng tác văn học”, “cách diễn đạt giàu hình ảnh, cách so sánh, ví von phù hợp với cách cảm rất riêng, phù hợp với cách cảm, cách nghĩ, cách nói của đồng bào miền núi” [133; tr.44] đã góp phần làm nổi bật bản sắc văn hóa trong sáng tác của các nhà văn DTTS. Về mặt hạn chế, có nhiều ý kiến cho rằng, đôi khi chính sự thái quá hoặc sử dụng chưa đúng mức những yếu tố nghệ thuật trong việc thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc lại tạo ra những cản trở nhất định. Lâm Tiến có nêu ra quan điểm theo ông vừa là mặt mạnh, vừa là hạn chế của các nhà văn DTTS, khẳng định những cái riêng mang bản sắc dân tộc trong sáng tác của Vi Hồng, Cao Duy Sơn…, mặt khác ông cũng cho rằng, tác phẩm của Vi Hồng rất đậm bản sắc văn hóa dân tộc Tày nhưng lối nói ví von truyền thống được sử dụng quá nhiều, làm cho truyện nặng nề, chậm phát triển và có phần đơn điệu. Chính lối nói ví von so sánh làm cho “chất văn xuôi chưa được nổi rõ, các nhân vật thường được xây dựng theo kiểu nhân vật chức năng hoặc nhân vật loại hình như trong các truyện cổ tích, thần thoại hoặc nhân vật cổ mà thiếu chiều sâu phân tích, lí giải để nhân vật có tính cách riêng” [125; tr.146]. Phạm Duy Nghĩa cũng cho rằng tiểu thuyết của các nhà văn DTTS còn rất nhiều hạn chế, chẳng hạn “tư duy dân gian với lối nói hình ảnh, bóng bẩy lặp lại quá nhiều cũng làm nhạt chất tự sự và bão hòa chất thơ trong tiểu thuyết của Vi Hồng. Sự đơn điệu, mòn sáo cũng là hệ quả tất yếu”, ngôn ngữ trong tiểu thuyết của Nông Minh Châu thì “khá trong sáng với những câu đúng ngữ pháp nhưng thiếu đa dạng, linh hoạt”, tiểu thuyết Triều Ân lại “để lộ những chỗ hành văn vụng về, lặp từ và thừa từ, thừa chi tiết khiến văn loãng, chậm và nhàm” [79; tr.201]. Theo Phạm Duy Nghĩa, chính “vốn ngôn ngữ tiếng Việt eo hẹp, nghèo nàn đã cản trở các nhà văn rất nhiều khi viết tiểu thuyết, đó cũng là nguyên nhân tiểu thuyết ít xuất hiện” [79; tr.201]. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu gần đây của các nhà nghiên cứu ở Thái Nguyên lại cho rằng, vẫn cần nhận ra chỗ yếu song phải đánh giá thỏa đáng hơn, bởi “nếu nhìn từ góc độ tiếp nhận với tầm tiếp nhận của độc giả, sự tiếp thu kế thừa các yếu tố văn hóa dân gian là một trong những con đường để tác phẩm của các nhà văn DTTS đi vào công chúng miền núi một cách hiệu quả. Nên chăng, vẫn có thể coi đây là một thế mạnh của các nhà văn miền núi?” [133; tr.157]. Theo Đào Thủy Nguyên – Cao Thị Hảo, gần đây, văn xuôi của các nhà văn DTTS đã có những biến chuyển đáng mừng “Từ những tác phẩm ban đầu đơn giản trong cách cảm nhận hiện thực, thô mộc trong ngôn ngữ thể hiện đến những tác phẩm sau này chau chuốt, chọn lọc trong lời văn nghệ thuật; mới mẻ trong cách nhìn con người và cuộc sống, trong quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người với ý thức tăng cường tư duy tiểu thuyết, nêu cao 13
  18. tinh thần nhân văn, nhân bản… là cả một quá trình gắng gỏi tích lũy tri thức, tìm tòi cách thể hiện và vượt lên chính mình của các cây bút văn xuôi DTTS” [72; tr.75]. Bên cạnh đó, đã có một vài bài viết trực tiếp tìm hiểu phương diện văn hóa trong văn xuôi về MNPB khi nghiên cứu một tác giả, tác phẩm cụ thể: Đào Thủy Nguyên (2010): Cội nguồn văn hóa dân tộc trong truyện ngắn Cao Duy Sơn, Tạp chí Nghiên cứu Văn học số 6 tháng 6 năm 2010; Hỏa Diệu Thúy (2012): Truyện ngắn Cao Duy Sơn từ góc nhìn văn hóa, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật số 340 tháng 10 năm 2012. Các bài viết trên đã đề cập đến phương diện văn hóa như “cội nguồn văn hóa”, “bản sắc văn hóa” trong văn xuôi về MNPB nói chung, trong tiểu thuyết về MNPB nói riêng, có bài viết khai thác từ “góc nhìn văn hóa” nhưng chỉ tập trung vào truyện ngắn của một tác giả và trong khuôn khổ của một bài viết ngắn. 1.2. Tình hình nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa 1.2.1. Trên thế giới Trên thế giới, hướng nghiên cứu văn học từ văn hóa có lịch sử từ thế kỉ XIX, gắn với trường phái Văn hóa – lịch sử và triết học thực chứng ở Pháp mà tên tuổi nổi bật là H.Taine (1828 – 1893). Taine – nhà triết học, nhà sử học, đồng thời là nhà phê bình văn học có ảnh hưởng lớn đối với tư tưởng học thuật của nhân loại - là người đặt vấn đề nghiên cứu văn học trong văn hóa từ rất sớm. Ông coi chủng tộc (gien của tộc người), môi trường (địa lí và xã hội) và thời điểm (sự tiến hóa của lịch sử) là ba động lực đầu tiên để giải thích sự xuất hiện của văn học. Taine đã chỉ ra vai trò của chủ thể sáng tạo văn học với những đặc điểm hình thành bởi yếu tố có tính quy định là tố chất bên trong của tộc người, đó là “các giới hạn của hình thức đầu tiên” mà ông gọi là “cấu trúc tinh thần của một chủng tộc”, nó chứa đựng các đặc tính di truyền mang tính sinh học. Chủng tộc – trong quan niệm của Taine, không đơn thuần chỉ là các vấn đề về màu da, tiếng nói (ngôn ngữ)... mà còn là vấn đề tâm thức tộc người – cái căn cốt để tạo nên diện mạo, lịch sử và vị thế của một dân tộc, là yếu tố đầu tiên và vô cùng quan trọng làm nên bản sắc văn hóa cho mỗi quốc gia. Đồng thời, H. Taine cũng chỉ ra sự hình thành đặc tính tinh thần của tộc người là môi trường sống của họ (hoàn cảnh địa lí, hoàn cảnh chính trị, các điều kiện tôn giáo, xã hội). Môi trường ở đây bao gồm cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội (môi trường văn hóa). Sự khác biệt về điều kiện tự nhiên sẽ dẫn đến sự hình thành và phát triển của những cộng đồng khác nhau và những cá nhân khác nhau. Bên cạnh đó, Taine đặc biệt chú ý tới thời điểm. Nếu hai yếu tố trên được ông chú ý ở đặc tính sinh học và những tác động ngoại cảnh thì yếu tố thứ ba này Taine chú ý đến bản chất của quá trình kế thừa và sáng tạo văn học. Về thời điểm, ông giải thích quá trình kế thừa và sáng tạo của văn học “đặc điểm dân tộc và hoàn cảnh bên ngoài đặt dấu ấn không phải lên “nền trắng” mà lên một bề mặt đã có hình, tùy từng thời điểm khác nhau mà bức tranh này khác nhau, vì vậy, chúng ta có 14
  19. các kết quả khác nhau” [113; tr.102]. “Như vậy, H. Taine đã đặt văn học trong quan hệ phức tạp ba chiều của đời sống văn hóa con người. Tuy vậy, ông mới chú ý đến sự tác động của hoàn cảnh môi trường chủ yếu về mặt tinh thần (hoàn cảnh chính trị, các điều kiện xã hội, tôn giáo và hoàn cảnh địa lí), chưa đề cập tới mặt cơ bản nhất có ảnh hưởng trực tiếp mạnh mẽ tới đời sống con người đó là cơ sở kinh tế xã hội” [113; tr.71]. Tuy nhiên theo đánh giá của nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy, “trường phái văn hóa – lịch sử vẫn tìm giá trị của văn chương không phải ở bản thân văn chương, mà ở đối tượng đã in dấu vào văn chương, tức là văn hóa, lịch sử. Như vậy nó đã có phần đồng nhất văn chương với thực tại xã hội mà văn chương phản ánh. Bởi vậy, lịch sử văn chương mà Taine muốn tạo dựng thực chất là lịch sử văn minh, lịch sử tư tưởng xã hội. Mối quan hệ biện chứng, chân thực giữa các quá trình xã hội và văn học chưa được giải thích rõ”. [114; tr.107 – 108]. Tuy nhiên, có thể nhận thấy, đóng góp đáng ghi nhận của trường phái này đó là đã chỉ ra mối quan hệ giữa văn học và văn hóa qua chủ thể sáng tạo văn học (tác giả). Một tác giả văn học luôn thuộc về một dân tộc nào đó, chịu ảnh hưởng của văn hóa lịch sử của dân tộc mình để rồi những ảnh hưởng đó ít nhiều được phản chiếu vào tác phẩm của họ bằng con đường kế thừa, kết tinh và sáng tạo. Sang thế kỉ XX, nhà triết học người Đức E. Casirer nghiên cứu văn học từ góc độ huyền thoại học như một kiểu tư duy cổ xưa nhất của con người. Ông phát triển quan niệm coi hoạt động tinh thần của con người (trong đó tiêu biểu nhất là sự sáng tạo huyền thoại với tư cách là dạng cổ xưa nhất của hoạt động ấy) như là một hoạt động mang tính cách biểu trưng. Trong cuốn “Tư duy huyền thoại” (tập thứ hai trong một công trình nghiên cứu ba tập nhan đề “Triết học về các hình thức biểu trưng”) ông đã miêu tả một số đặc điểm cơ bản về dạng thức cũng như về cấu trúc của tư duy huyền thoại, và về tính ẩn dụ biểu trưng của huyền thoại. Ông cho rằng văn hóa là một hệ thống kí hiệu và nghiên cứu văn học là nghiên cứu biểu tượng của nó. Từ góc độ kí hiệu học, Iu.M.Lotman – người sáng lập trường phái nghiên cứu Tartu – Moskva (trường phái nghiên cứu bao trùm nhiều lĩnh vực như văn học, kí hiệu học, văn hóa học, ngôn ngữ học) đã nhận ra sự tương tác của các kênh thông tin như một phạm trù xã hội. Iu.M.Lotman là người có công lớn trong việc đề xướng giải mã văn bản văn học bằng kí hiệu. Tất cả những công trình về ký hiệu học của ông đều dành vào việc tiếp tục phát triển lý thuyết ký hiệu học văn hoá, hoặc phân tích những tư liệu văn hoá cụ thể từ giác độ ký hiệu học. Văn bản văn học giờ đây đã được xem xét như một văn bản văn hóa. Đời sống của một tác phẩm văn học không chỉ được nhìn nhận bằng ngôn ngữ (kí tự) mà phải được xem xét như một chỉ dấu văn hóa mang tính đặc thù. Quan điểm về ngôn ngữ văn hóa, kí hiệu học văn hóa đã góp phần đưa đến một bước đột phá trong nghiên cứu văn học. Công trình nghiên cứu của Lotman về 15
  20. kí hiệu học văn hóa có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với nghiên cứu văn học. Theo quan điểm của ông, bản thân văn hóa cũng là một đối tượng kí hiệu học và do đó, bất cứ một hiện tượng văn hóa nào cũng đều có những đặc điểm kí hiệu. Đồng thời ông cũng chỉ ra rằng, nghiên cứu kí hiệu không thể phân rã nhỏ lẻ mà phải được nhìn nhận trong một chỉnh thể, một tổ chức nhất định. Kí hiệu phải đặt vào chỉnh thể thì nó mới trở thành kí hiệu đang hoạt động, nói cách khác, đưa kí hiệu ra khỏi chỉnh thể thì nó chỉ là một kí hiệu khô cứng mà thôi. Theo hướng đi của Lotman, nghiên cứu các hình thức của văn học cũng đồng thời là nghiên cứu các hình thức của văn hóa. Bên cạnh ngôn ngữ, các yếu tố như biểu tượng, cổ mẫu, không gian, thời gian, con người (nhân vật)... đều có thể xem như là những kí hiệu văn hóa. Trường phái Phân tâm học mà người đặt nền móng là Sigmund Freud cũng có những đóng góp đáng kể trong việc xác nhận và khẳng định vai trò của văn hóa đối với văn học. Sigmund Freud là người có công lớn trong việc hình thành lí thuyết về vô thức cá nhân với những ham muốn bị lãng quên, dồn nén. Theo ông, sáng tạo nghệ thuật là sự thăng hoa của cái vô thức cá nhân bị dồn nén, cụ thể hơn là sự thăng hoa của bản năng tính dục trong vô thức. Tiếp đó, người học trò của Freud là Card Gustav Jung trên cơ sở vừa kế thừa vừa phê phán lí thuyết của người thầy, đã sáng lập ra tâm lí học phân tích với một phát hiện có giá trị là lí thuyết về vô thức tập thể. Jung là người đầu tiên vẽ ra sơ đồ về con đường di truyền văn hóa trong nghệ thuật: vô thức tập thể là tài sản chung của nhân loại, được cấu trúc hóa thành các archétyphe (dịch là siêu mẫu, cổ mẫu hay mẫu gốc) là những đồ hình vĩnh cửu của kinh nghiệm loài người được thể hiện bằng những hình ảnh tượng trưng tập thể. Sự xuất hiện trở đi trở lại của chúng khiến cho văn hóa được lưu truyền từ đời này qua đời khác. Văn học, theo sự phân loại của Jung gồm 2 loại: Loại hình tâm lí và loại hình ảo giác. Nếu loại hình tâm lí thường viết về những bài học cuộc đời, số phận con người với những niềm vui, nỗi buồn… con người ý thức được và giải thích được thì loại hình ảo giác được khơi nguồn từ vô thức tập thể có nguồn gốc sâu xa từ thời tiền sử. Ông đánh giá cao loại thứ hai vì cho rằng tác phẩm sáng tác từ ý thức hay vô thức cá nhân vẫn là vấn đề trong phạm vi hẹp của cá nhân chứ chưa vươn ra tầm nhân loại. Jung cho rằng, muốn nhận biết hình tượng văn học phải hiểu được con đường hình thành biểu tượng. Trong mỗi con người đều tồn tại vô thức tập thể được kế thừa từ thời xa xưa dưới một dạng thức nhất định của những hình ảnh được ghi nhớ. Siêu mẫu (cổ mẫu, mẫu gốc) được sử dụng lặp lại trong suốt chiều dài lịch sử ở bất kì nơi đâu có trí tưởng tượng sáng tạo tự do hoạt động. Vì vậy, theo ông, quá trình sáng tạo nghệ thuật là phải “hà hơi sống cho siêu mẫu từ trong vô thức, là trải nó ra và tạo hình nó cho đến khi thành một tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh” [116; tr.72]. Bên cạnh vai trò của vô thức cá nhân, Jung đặc biệt nhấn mạnh đến ý nghĩa to lớn của vô thức tập thể trong quá trình sáng tạo nghệ 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1