intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều trị bệnh lý nội mô giác mạc bằng phẫu thuật ghép nội mô DSAEK

Chia sẻ: Co Ti Thanh | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:230

18
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của luận án là đánh giá kết quả điều trị bệnh lý nội mô giác mạc bằng phẫu thuật ghép nội mô DSAEK. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả điều trị bệnh lý nội mô giác mạc bằng phẫu thuật ghép nội mô DSAEK.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều trị bệnh lý nội mô giác mạc bằng phẫu thuật ghép nội mô DSAEK

  1. ĐẶT VẤN ĐỀ Nội mô giác mạc có vai trò đặc biệt quan trọng đối với hình thể  và  chức năng giác mạc. Những bệnh lý gây mất bù nội mô giác mạc làm giác  mạc trở nên mờ đục, gây giảm thị lực  Trong suốt thế  kỷ  19, ghép giác mạc xuyên là phương pháp phẫu   thuật chính trong điều trị  các bệnh lý nội mô giác mạc. Tuy nhiên, bệnh  nhân sau ghép giác mạc xuyên thường chậm phục hồi thị  lực, có thể  gặp  các biến chứng liên quan đến mở  nhãn cầu và chỉ  khâu như  chảy máu,  nhiễm trùng, hở mép mổ, loạn thị nhiều, nguy cơ tăng nhãn áp và thải ghép   cao [1]. Để  hạn chế  các nhược điểm của phẫu thuật ghép giác mạc xuyên,  các tác gỉả  đã nghiên cứu, phát triển phẫu thuật ghép nội mô. Trong đó,   phẫu   thuật   DSAEK   ­   Descemet   Stripping   Automated   Endothelial   Keratoplasty ­ ghép giác mạc nội mô tự động có bóc màng Descemet, là một  trong các phẫu thuật ghép nội mô, được áp dụng cho những tổn thương   thuộc màng Descemet và nội mô, đem lại kết quả  phẫu thuật tốt hơn cho   các bệnh lý nội mô giác mạc.  Tỉ  lệ thành công của phẫu thuật ghép nội mô DSAEK có thể  đạt từ  95% đến 97%, tương đương hoặc có thể  cao hơn so với phẫu thuật ghép   xuyên. Do kích thước mép mổ nhỏ hơn, phần giác mạc “lạ” ghép vào nền   ghép ít hơn, phẫu thuật DSAEK giảm được các biến chứng hay xảy ra  trong phẫu thuật ghép xuyên như: chảy máu, nhiễm trùng, hở mép mổ, thải  ghép [2]. Thêm vào đó, trong phẫu thuật DSAEK, bề mặt nhãn cầu không  bị  tác động nhiều bởi chỉ  khâu và quá trình biểu mô hoá nên thị  lực sau  phẫu thuật  DSAEK phục hồi sớm và nhanh hơn so với ghép giác mạc   xuyên. Trong vòng 3 đến 6 tháng sau mổ, 38% ­ 100% bệnh nhân đạt được 
  2. thị lực từ 20/40 trở lên, trong khi đối với sau mổ ghép giác mạc xuyên, phải   sau mổ 2 đến 8 năm, 47% đến 65% bệnh nhân mới đạt được mức thị lực từ  20/40 trở  lên [3]. Do đó, phẫu thuật ghép nội mô DSAEK ngày càng được  áp dụng rộng rãi trên toàn thế giới[4]. Năm 2010, các bác sỹ khoa Kết giác mạc bệnh viện Mắt trung  ương  đã thực hiện thành công phẫu thuật ghép nội mô DSAEK. Kết quả  phẫu  thuật bước đầu cho thấy phẫu thuật ghép nội mô DSAEK đã làm cải thiện  cơ  bản về  chất lượng ghép, thời gian sống của mảnh ghép, thị  lực của  bệnh nhân được phục hồi nhanh hơn, giảm bớt loạn thị và tỉ  lệ  thải ghép  sau phẫu thuật [5]. Tuy nhiên, đây là kỹ  thuật mới nên cần những nghiên  cứu chuyên sâu và toàn diện hơn để hoàn thiện phương pháp này.  Với mong muốn đóng góp vào quá trình hoàn thiện kỹ  thuật ghép  nội mô DSAEK, chúng tôi tiến hành đề tài  “ Nghiên cứu điều trị bệnh lý  nội mô giác mạc bằng  phẫu thuật ghép nội mô DSAEK” với mục tiêu: 1. Đánh giá kết quả điều trị bệnh lý nội mô giác mạc bằng phẫu thuật   ghép nội mô DSAEK. 2. Phân tích các yếu tố   ảnh hưởng đến kết quả  điều trị  bệnh lý nội   mô giác mạc bằng phẫu thuật ghép nội mô DSAEK.
  3. CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN  1. Bệnh lý nội mô giác mạc  1.1.1. Giải phẫu, sinh lý nội mô  Nội mô là lớp trong cùng của giác mạc, tiếp xúc trực tiếp với thủy   dịch, có vai trò đặc biệt quan trọng đối với hình thể và chức năng giác mạc,  duy trì sự trong suốt của giác mạc nhờ hệ thống bơm nội mô và phức hợp  liên kết đỉnh.  Nội mô giác mạc bao gồm một lớp tế bào, hầu hết có hình lục giác,   che phủ  mặt sau của màng Descemet. Các tế  bào nội mô người dày 5µm,  rộng 20µm với diện tích che phủ  khoảng 250µm2. Trong giai đoạn sớm  trước sinh, số  lượng tế  bào nội mô tăng lên rất nhanh nhờ  quá trình phân   bào. Sau đó, các tế  bào giãn rộng ra, che phủ  bề  mặt giác mạc mà không  làm thay đổi mật độ  tế  bào. Mật độ  tế  bào nội mô cao nhất trong những   tuần đầu của thời kỳ bào thai, sau đó giảm dần: khoảng 16000 TB/mm 2 vào  tuần 12 của thai kỳ, 6000 TB/mm2 vào tuần thứ 40 và trong suốt giai đoạn 1  tháng sau sinh, 3500 TB/mm2  ở  người trẻ  và còn khoảng 2300 TB/mm 2 ở  tuổi 85, tốc độ giảm khoảng 3%/năm ở trẻ dưới 14 tuổi  0,6%/năm sau tuổi  14 [6]. Các tê bào n ́ ội mô tiêt ra màng đáy ­ màng Descemet vào khoang tháng ́ ̉   thứ 3 cua thai ky. Lúc m ̉ ̀ ơi sinh, màng Descemet dây khoang 4µm. Sau đó ́ ̀ ̉   khác vơi các mô khác cua nhãn câu, đat s ́ ̉ ̀ ̣ ự  ôn đinh vê kích thu ̉ ̣ ̀ ̛ c cung nhu ơ ́ ̃ chưc na ́ ̆ng vào năm thư 2 sau sinh, màng Descemet tiêp tuc dây lên trong suôt ́ ́ ̣ ̀ ́  quãng đời còn lai v ̣ ơi tôc đ ́ ́ ộ khoang 1μm đ ̉ ến 2μm trong vòng 10 năm và đaṭ  
  4. ̀ ̀ ́ ̉ ́ ̉ ̉ ơi nhu chiêu dây tôi đa khoang 10 – 15μm. Màng Descemet găn khá long leo v ́   mô  ở  phía truơ ̛ ́c và găn kêt v ́ ́ ới nội  mô  ở  phía sau, chia làm 2 phân: phân ̀ ̀  phía trước có vach – hình thành t ̣ ừ lúc mơi sinh, dây khoang khoang 4μm và ́ ̀ ̉ ̉   ̣ ̉ phía sau là vùng không có vach, hình thành sau này, dày khoang 6 ­ 11μm.   Màng Descemet có tính chât dai, không ngâm nu ́ ́ ̛ c, hoat đ ơ ́ ̣ ộng như  1 lơṕ   ̉ ệ, ngăn can thuy dich ng màng bao v ̉ ̉ ̣ ấm vào nhu mô, đam bao s ̉ ̉ ự  trong suôt́  ̣ ̉ ́ ̣ cho giác mac. Quá trình san xuât mang lu ̛ i ngoai bào cua n ớ ̣ ̉ ội mô tăng theo  ̉ ̣ tuôi, trong loan du ̛ ng Fuchs, sau chân thu ỡ ́ ̛ơng, viêm nhiêm…làm dày màng ̃   Descemet. Nhưng tôn thu ̃ ̉ ̛ơng màng Descemet nho se đu ̉ ̃ ợ ̛ c nội  mô hàn găn, ́   nhưng tôn hai l ̃ ̉ ̣ ơn cân phai có các nguyên bào xo ́ ̀ ̉ ̛  cho quá trình hôi phuc. ̀ ̣   ̉ ̣ Rách màng Descemet se dân đên phù nhu mô, biêu mô giác mac [7]. ̃ ̃ ́ Tế  bào nội mô gần như  không có khả  năng phân chia trong điều   kiện tự  nhiên. Do đó, khi tế  bào nội mô bị  tổn thương, các tế  bào nội mô   lành còn lại sẽ giãn rộng, di cư về phía vùng tổn thương để  che phủ  vùng  giác mạc bị bộc lộ với thuỷ dịch [8].  1.1.2. Nguyên nhân gây tổn thương nội mô giác mạc  Tế bào nội mô có thể bị tổn thương nguyên phát từ trong thời kỳ bào  thai, hoặc thứ phát do bệnh lý và các tác động từ bên ngoài. Khi mật độ  tế  bào nội mô giảm chỉ  còn 300 ­ 500 TB/mm2, các tế  bào nội mô không còn  khả  năng bù trừ, nhu mô giác mạc ngấm nước, thuỷ  dịch  ứ  đọng trong   khoang màng đáy của biểu mô, kéo giãn gây đứt gẫy liên kết giữa các tế  bào biểu mô, tách biểu mô khỏi màng đáy, lan rộng, hình thành các bọng  biểu mô[9]... Bệnh giác mạc bọng là bệnh cảnh giai đoạn muộn của tình  trạng mất bù nội mô giác mạc [14]. 1.1.2.1. Tổn thương nội mô nguyên phát 
  5. Tế  bào nội mô có thể  bị  tổn thương nguyên phát từ  trong thời kỳ  bào thai, liên quan đến đột biến gen, nhiễm sắc thể, tạo các dòng tế  bào   nội mô bất thường.  ­ Loạn dưỡng nội mô Fuchs. Trong loạn dưỡng nội mô Fuchs, tế  bào nội mô chuyển dạng sang  tế bào giống  nguyên  bào xơ, dẫn đến lắng đọng sợi collagen và màng đáy,  làm màng Descemet dày lên, tạo các “guttata”, gây giảm chức năng của các  tế bào nội mô, làm thủy dịch ngấm vào nhu mô gây phù nhu mô [10]. ­ Hội chứng mống mắt – nội mô – giác mạc. Hội chứng này bao gồm: bất thường mống mắt, bất thường nội mô   giác mạc dẫn đến phù giác mạc, dính mống mắt chu biên. Cơ  chế  của   bệnh liên quan đến sự  xuất hiện của một dòng tế  bào nội mô bất thường,   thay thế  dần các tế  bào nội mô lành. Các tế  bào bất thường tạo ra màng   đáy bất thường kéo ra vùng bè và mống mắt, lâu ngày gây teo mống mắt,   lệch đồng tử. dính mống mắt chu biên dẫn đến glôcôm góc đóng, phù giác  mạc [11]. ­ Loạn dưỡng nội mô giác mạc bẩm sinh di truyền. Loạn dưỡng nội mô giác mạc bẩm sinh di truyền là một bệnh hiếm   gặp, biểu hiện tương xứng  ở  cả  2 mắt, lần đầu tiên được Maumenee mô  tả trong y văn năm 1960. Bệnh hình thành trong quá trình phát triển của bào   thai, do bất thường xảy ra trong giai đoạn biệt hóa của trung mô tạo tế bào  nội mô giác mạc, dẫn đến thoái hóa và rối loạn chức năng của tế  bào nội   mô, làm tăng tính thấm, tăng tiết tạo màng Descemet, phù nhu mô, biểu mô  giác mạc lan từ trung tâm ra chu biên [10]. 1.1.2.2. Tổn thương nội mô thứ phát
  6. Tế bào nội mô có thể bị tổn thương thứ phát, chủ yếu do các sang   chấn cơ  học, vật lý, hoá học liên quan đến phẫu thuật nội nhãn. Ngoài  ra, quá trình viêm nhiễm, do lắng đọng sắc tố, thuốc, hoặc bi ến đổi hình  dạng và chức năng do dùng kính tiếp xúc kéo dài…có thể làm tổn hại nội  mô giác mạc. ­ Tổn thương nội mô do phẫu thuật nội nhãn. Phẫu thuật nội nhãn có thể gây tổn hại nội mô do các sang chấn cơ  học liên quan các thao tác trong tiền phòng và các thành phần đặt trong tiền  phòng (van tiền phòng, thể  thuỷ  tinh nhân tạo, tình trạng xẹp tiền phòng)  hoặc do phá vỡ tính hằng định của nội môi của nhãn cầu liên quan đến yếu   tố vật lý (nhiệt độ, áp lực thẩm thấu của dịch rửa tiền phòng), hoá học (pH  dịch rửa, thành phần dịch rửa, các hoá chất tẩy rửa dụng cụ  phẫu thuật,   thuốc đưa vào tiền phòng), sinh học (nội độc tố  của vi khuẩn sinh ra sau   khi dụng cụ  phẫu thuật được khử  trùng, nhiễm trùng nội nhãn sau mổ)  [12]. ­ Tổn thương nội mô thứ phát do các nguyên nhân khác Nội mô giác mạc có thể bị tổn hại do phản ứng viêm của tiền phòng  trong viêm màng bồ  đào trước và phản  ứng thải ghép, hoặc bị  tổn hại do   các tác nhân cơ  học: nhãn áp cao, chấn thương đụng giập. Các rối loạn  trong chuyển hoá của tế bào nội mô như  thiếu oxy (sử dụng kính tiếp xúc  kéo dài, bệnh glôcôm), tích tụ glucose nội bào (trong bệnh đái tháo đường),  có thể  dẫn đến đứt gãy các liên kết giữa các tế  bào nội mô, giảm hoạt  động của bơm nội mô. Ngoài ra, sự  tích tụ  các gốc tự  do (trong các chất   bảo quản thuốc tra mắt), quá trình lắng đọng sắt nội bào và các sản phẩm  thoái hoá hemoglobin (trong xuất huyết tiền phòng)…có thể  làm đảo lộn 
  7. cấu trúc lipid màng tế bào dẫn đến thay đổi tính thấm màng tế bào, ly giải   các thành phần của tế bào chất, gây tan bào [13]. 1.1.3. Lâm sàng  1.1.3.1. Triệu chứng cơ năng ­ Giảm thị lực: Ban đầu, giảm thị lực không kèm đau nhức, rõ rệt khi   vừa thức dậy và giảm dần trong ngày.  ­ Chói, cộm, đau nhức, sợ ánh sáng, chảy nước mắt:  ở giai đoạn sau,  do vỡ các bọng biểu mô.  ­ Giai đoạn hình thành sẹo, triệu chứng đau nhức giảm, thị lực giảm   nhiều, cảm giác giác mạc giảm hoặc mất hoàn toàn.  1.1.3.2. Dấu hiệu thực thể ­ Sử  dụng đèn khe, sinh hiển vi phản gương hoặc kính hiển vi đồng  trục (trong trường hợp giác mạc phù, không quan sát được bằng sinh hiển  vi phản gương) có thể thấy:  + Nhu mô và biểu mô phù lan toả các mức độ từ nặng đến nhẹ, với  các bọng biểu mô nhỏ hoặc lớn, tăng độ dày giác mạc.    + Dày màng Descemet, nếp gấp màng Descemet, các guttae (loạn  dưỡng nội mô Fuchs), mật độ nội mô giảm, tăng kích thước nội mô, giảm   tỉ lệ tế bào sáu cạnh, tăng hệ số biến thiên.  +  Ở  giai đoạn muộn, có thể  quan sát thấy sẹo dưới biểu mô, sẹo   toàn bộ nhu mô. 1.1.4. Tổn thương mô bệnh học Trong hầu hết bệnh cảnh của bệnh giác mạc bọng do các nguyên  nhân khác nhau, có thể  thấy các hình  ảnh biến đổi của biểu mô như  tróc   biểu mô, đứt gẫy màng Bowman, hình ảnh biến đổi của  nhu mô giác mạc   như  xơ  hoá nhu mô giác mạc, tăng sinh lớp collagen, lắng đọng các chất  dạng sợi, thoái hoá các giác mạc bào, thoái hoá giác mạc dạng lipid, dày 
  8. màng Descemet, xuất hiện màng sau giác mạc, cũng như  có thể  thấy hình  ảnh teo, thiếu hụt các tế bào nội mô, các tế bào ICE (trong hội chứng mống   mắt nội mô giác mạc), hoặc các guttae (trong loạn dưỡng nội mô Fuchs)  [13]. 1.2.  Các phương pháp điều trị bệnh lý nội mô giác mạc mất bù. Các phương pháp như: dùng thuốc tra mắt  ưu trương, kính tiếp xúc  mềm ưa nước…chỉ có tác dụng hỗ trợ, giảm nhẹ các triệu chứng phù giác  mạc, đau nhức, cộm chói, chảy nước mắt gây ra do bọng biểu mô và phòng  bội nhiễm. Các phương pháp điều trị  này chỉ  mang lại hiệu quả  tạm thời   do tổn thương nội mô vẫn tồn tại, giác mạc sẽ  vẫn tiếp tục phù, bọng   biểu mô có thể tái phát [15]. Điều trị  phục hồi cấu trúc giải phẫu giác mạc giải quyết được cơ  chế  bệnh sinh của bệnh, được áp dụng trong điều trị  triệt để  bệnh lý nội   mô giác mạc mất bù. Có hai phương pháp phẫu thuật chính trong điều trị  phục hồi cấu trúc giải phẫu giác mạc: ghép giác mạc xuyên ­ thay thế toàn  bộ  chiều dày giác mạc bệnh nhân bằng giác mạc lành và ghép nội mô ­  thay thế chọn lọc phần nội mô bị tổn thương.  1.2.1. Các phương pháp điều trị tạm thời  ­ Dùng dung dịch ưu trương Dung dịch  ưu trương làm  ưu trương màng phim nước mắt, do đó  giúp kéo nước từ  trong giác mạc, làm giảm phù giác mạc, được sử  dụng   trong các bệnh lý nội mô mất bù gây phù nhu mô đơn thuần, chưa xuất   hiện  bọng   biểu   mô   có   chiều   dày   giác  mạc   trong   khoảng  từ   613  –  694   micron (trung tâm) và 633 – 728 micron (chu biên) trở xuống. Các dung dịch  ưu trương thường được sử  dụng trên lâm sàng là:  muối   5%,   glucose   10%,   Adsorbonac,   SalineX,   Ak­NaCl,   Hyperton­5   và  Muro­128 nồng độ 2­5%, với liều dùng 4 – 6 lần/ngày, mỗi lần 1 – 2 giọt.
  9. Tuy nhiên sử  dụng dung dịch  ưu trương gặp hạn chế  do gây cảm   giác cộm xót khó chịu cho bệnh nhân cũng như  tần suất tra cao trong ngày  [16].  ­ Dùng kính tiếp xúc Kính tiếp xúc mềm được chỉ  định điều trị  tổn hại nội mô mất bù,  phù giác mạc có bọng biểu mô, có tác dụng làm giảm sang chấn cơ  học   của mi mắt lên bề mặt giác mạc, làm hạn chế vỡ các bọng biểu mô, giảm   triệu chứng đau nhức, chói cộm, kích thích. Sử dụng kính tiếp xúc trong bệnh giác mạc bọng có thể gây loét giác  mạc, tân   mạch giác mạc, phù giác mạc do đó, trên lâm sàng, các kính tiếp  xúc mỏng, có tính thấm với ôxy cao được sử dụng đồng thời với tra kháng  sinh phòng bội nhiễm và bệnh nhân cần được theo dõi thường xuyên [17]. ­ Ghép màng ối Màng ối có tác dụng như màng đáy, làm giá đỡ để biểu mô giác mạc   bò lên trên, tăng cường quá trình biểu mô hoá đồng thời hoạt động như một  rào chắn ngăn sự  hình thành bọng biểu mô. Màng  ối cũng có thể  được sử  dụng để ghép che phủ toàn bộ giác mạc, hoạt động như một kính tiếp xúc,  giúp quá trình biểu mô hoá được thực hiện dưới màng ối. Ghép màng ối tuy  không cải thiện được thị lực, nhưng có thể làm giảm các triệu chứng chói,  cộm do bọng biểu mô gây ra, được chỉ  định trong các bệnh lý nội mô giác  mạc bọng cần phẫu thuật nhưng bệnh nhân không đủ  điều kiện ghép giác  mạc [18]. 1.2.2. Điều trị phục hồi cấu trúc giải phẫu giác mạc Có hai phương pháp phẫu thuật chính trong điều trị  phục hồi cấu  trúc giải phẫu giác mạc: ghép giác mạc xuyên ­ thay thế toàn bộ chiều dày  
  10. giác mạc bệnh nhân bằng giác mạc lành và ghép nội mô ­ thay thế chọn lọc   phần nội mô bị tổn thương. ­ Ghép giác mạc xuyên Ghép giác mạc xuyên là phẫu thuật thay thế  toàn bộ  chiều dày giác  mạc. Phẫu thuật có tỉ  lệ thành công cao, là phương pháp điều trị  hiệu quả  các bệnh lý nội mô giác mạc nói riêng và bệnh lý giác mạc nói chung. Phẫu  thuật này áp dụng được cho tổn thương nội mô mất bù, kể  cả  khi đã hình  thành sẹo nhu mô, những trường hợp dính mống mắt chu biên rộng, ghép  nội mô thất bại nhiều lần[19]. Tuy nhiên, do phải mở  rộng nhãn cầu nên trong phẫu thuật ghép   xuyên có thể  gặp các biến chứng như: xuất huyết tống khứ, nhiễm trùng,  hở  mép mổ, tổn hại biểu mô kéo dài, chậm phục hồi thị  lực, độ  loạn thị  cao [19]... ­ Ghép giác mạc nội mô Ghép giác mạc nội mô là phẫu thuật ghép giác mạc có chọn lọc, chỉ  thay thế phần nội mô bệnh lý, giữ lại gần như toàn bộ phần giác mạc lành  phía trước.  Lịch sử  của phẫu thuật ghép nội mô được đánh dấu từ  những ca  ghép lớp sau sơ  khai đầu tiên của Tillet (1956) và Melles (1998), trong đó  lớp giác mạc phía sau bệnh lý của bệnh nhân được phẫu tích và cắt bỏ, sử  dụng bóng khí để kết dính mảnh ghép vào nền ghép mà không cần dùng chỉ  khâu. Từ đó đến nay, phẫu thuật ghép lớp nội mô giác mạc tiếp tục được  nghiên cứu, hoàn thiện, bao gồm các loại phẫu thuật sau: Ghép   giác   mạc   nội   mô   lớp   sâu   (Deep   Lamellar   Endothelial  Keratoplasty – DLEK):  được Terry và Ousley (2001) thực hiện lần đầu  tiên. Trong phẫu thuật này, phần giác mạc lấy đi của bệnh nhân bao gồm 
  11. phần lớn nhu mô sau, màng Descemet và lớp nội mô, được tách và cắt bỏ.  Phần giác mạc lành thay thế bao gồm các lớp tương ứng được đưa vào nền   ghép. Hạn chế  của phẫu thuật DLEK là phần giác mạc lấy đi của bệnh   nhân và phần mảnh giác mạc người hiến ghép vào nền ghép đều dầy, thao   tác thủ công nên giao diện ghép còn xù xì, thị  lực sau mổ  còn hạn chế, do   đó ngày nay ít được áp dụng [20]. Ghép giác mạc nội mô có bóc màng Descemet (Descemet Stripping   Endothelial Keratoplasty ­ DSEK):  phần giác mạc phía sau được lấy đi  của bệnh nhân chỉ  gồm màng Descemet và lớp nội mô, phần nhu mô của  bệnh nhân gần như  còn nguyên vẹn. Phần giác mạc thay thế  gồm một  phần nhu mô sau, màng Descemet và lớp nội mô bình thường. Do phần nhu  mô trước giác mạc của người hiến được cắt thủ công bằng dao và spatula  nên không phẳng, tạo sẹo  ở  giao diện ghép gây giảm thị  lực. Phẫu thuật   này càng ngày càng ít được áp dụng [20]. Ghép   giác   mạc   nội   mô   “tự   động”   có   bóc   màng   Descemet  (Descemet   Stripping   Automated   Endothelial   Keratoplasty   ­   DSAEK):  Cũng như  trong phẫu thuật DSEK, phần giác mạc lấy đi của bệnh nhân   gồm màng Descemet và lớp nội mô. Phần giác mạc lành ghép vào nền ghép   cũng   gồm   một   phần   nhu   mô   sau,   màng   Descemet   và   lớp   nội   mô   bình  thường. Tuy nhiên, phần nhu mô trước của giác mạc người hiến được cắt  bỏ  bằng dao tạo vạt giác mạc microkeratome hoặc laser femtosecond nên  giao diện ghép phẳng, nhẵn hơn, thị  lực phục hồi tốt hơn. Phẫu thuật   DSAEK hiện nay được áp dụng phổ  biến nhất trong các phẫu thuật ghép  nội mô [20]. Ghép giác mạc nội mô và màng Descemet (Descemet Membrane   Endothalial Keratoplasty ­ DMEK): Màng Descemet và nội mô cũng được 
  12. lấy đi như  trong phẫu thuật DSEK và DSAEK. Tuy nhiên, phần giác mạc   ghép chỉ gồm màng Descemet và lớp nội mô bình thường, không có nhu mô.   Do đó, thị lực sau mổ phục hồi nhanh và nhiều hơn. Tuy nhiên, phẫu thuật  này đòi hỏi thao tác khó hơn, tỉ  lệ  bong mảnh ghép cao. Phẫu thuật này   hiện vẫn đang tiếp tục được nghiên cứu để  ứng dụng rộng rãi trong điều  trị [21]. 1.3. Phẫu thuật ghép giác mạc nội mô DSAEK Phẫu thuật ghép giác mạc nội mô “tự  động” có bóc màng Descemet   (DSAEK) ra đời từ  năm 2006, hiện nay là phẫu thuật đang được áp dụng   rộng rãi nhất trong các phẫu thuật ghép nội mô. Tại Mỹ, năm 2001, chỉ  có   8% số  ca ghép nội mô. Đến năm 2016, số  ca ghép nội mô trên toàn nước   Mỹ  là 28327 ca trên tổng số  48499 ca ghép giác mạc, chiếm 58,4%, trong  đó kỹ thuật DSAEK chiếm 21868 ca, chiếm 77,2% [4]. 1.3.1. Chỉ định  ­ Các bệnh lý nội mô của giác mạc, có nhu mô chưa sẹo hóa như:  loạn dưỡng giác mạc Fuchs, loạn dưỡng giác mạc bẩm sinh di truyền, loạn  dưỡng giác mạc trong hội chứng ICE, bệnh giác mạc bọng sau phẫu thuật  thể thủy tinh, phẫu thuật cắt bè, sau laser mống mắt chu biên… ­ Bệnh lý nội mô giác mạc đã có sẹo nhu mô, bệnh nhân không đủ  điều kiện phẫu thuật và theo dõi sau mổ  đều không được tiến hành phẫu  thuật DSAEK. 1.3.2. Kỹ thuật Phẫu thuật ghép nội mô giác mạc DSAEK có các đặc điểm kỹ thuật  chính như sau: ­ Chuẩn bị nền ghép
  13. + Bóc lớp biểu mô: Thực hiện khi biểu mô phù bọng nhiều. Việc  bóc lớp biểu mô phù bọng sẽ  giúp phẫu thuật viên quan sát phía sau dễ  dàng hơn, thao tác chính xác hơn. + Đánh dấu diện ghép: Dùng khoan hoặc thước đánh dấu chu vi diện  ghép từ phía biểu mô. Đây là cơ sở giúp việc bóc màng Descemet và định vị  mảnh ghép vào nền ghép.  + Tạo đường rạch: Đường rạch để  đưa mảnh ghép vào tiền phòng  được thực hiện qua đường rạch hầm củng mạc cách rìa 1 ­ 2mm hoặc giác   mạc trong. Kích thước đường rạch trung bình 4 – 5mm, tuỳ  theo đường  kính mảnh ghép và kỹ thuật đưa mảnh ghép vào tiền phòng. + Tạo nền ghép:  Phần màng Descemet và lớp nội mô bệnh lý của   bệnh nhân được đánh dấu và lấy bỏ  bằng hook ngược với diện tích nhỏ  hơn hoặc bằng diện tích mảnh ghép được đưa vào [22]. ­ Chuẩn bị mảnh ghép +   Tách   lớp   nhu   mô   trước:  Dao   tạo   vạt   giác   mạc   tự   động  microkeratome hoặc laser femtosecond được sử  dụng để  tách lớp nhu mô  trước của giác mạc người hiến. Mảnh ghép được sử  dụng là phần giác   mạc phía sau bao gồm một phần nhu mô, màng Descemet và nội mô, dày  khoảng 150 – 200µm. Mảnh ghép có thể được ngân hàng mắt cắt sẵn, hoặc  được phẫu thuật viên cắt ngay trước khi ghép lớp nội mô giác mạc [23]. + Khoan lấy mảnh ghép: Đường kính mảnh ghép được lựa chọn theo  đường kính giác mạc bệnh nhân. Mảnh ghép càng lớn thì số lượng tế bào nội  mô được ghép càng nhiều, nhưng quá lớn sẽ khó thao tác, dễ  gây sang chấn  mảnh ghép, dính góc tiền phòng. Thông thường đường kính mảnh ghép từ 
  14. 8mm đến 9mm, tuỳ đường kính giác mạc người được ghép sao cho từ chu vi   mảnh ghép tới rìa giác mạc còn ít nhất 1mm đến 1,5mm. Sau đó, dùng khoan  lấy mảnh ghép theo đường kính đã lựa chọn, từ phía nội mô của mảnh ghép   [23]. ­ Đưa mảnh ghép vào tiền phòng Tuỳ vào điều kiện, trang thiết bị của bệnh viện và kinh nghiệm của  phẫu thuật viên, mảnh ghép có thể  được đưa vào tiền phòng theo nhiều   cách khác nhau. Mảnh ghép có thể  được gập lại rồi đẩy vào tiền phòng  bằng kim hoặc forceps chuyên dụng (Ogawa – Moria, Charlie II ­ Bausch +   Lomb/Storz   Ophthalmics),  hoặc  dùng  chỉ   treo   10.0  (2  kim  thẳng  hoặc  1   thẳng – 1 cong) với 1 đầu xuyên qua tiền phòng sang giác mạc bên đối diện   mép mổ, 1 đầu xuyên qua 2 bờ mảnh ghép đã gập đôi. Mảnh ghép cũng có  thể  không gập và được đưa vào tiền phòng bằng tấm trượt nhựa (sheet   glide), bằng máng Busin, hay được “bơm” vào tiền phòng giống như  bơm  thể thuỷ tinh nhân tạo bằng dụng cụ bơm mảnh ghép [23]. ­  Mở và cố định mảnh ghép vào nền ghép Mảnh ghép có thể tự mở ra trong tiền phòng khi dùng tấm trượt hoặc   dụng cụ  bơm mảnh ghép. Nếu đưa mảnh ghép vào tiền phòng bằng kim  hoặc forceps, mảnh ghép có thể được mở ra bằng kim. Sau khi mảnh ghép  được mở  ra, một bóng hơi lớn được bơm vào tiền phòng giúp mảnh ghép  áp vào nền ghép (nhãn áp sau bơm đạt mức 40 – 50 mmHg). Khoảng 10 –   15 phút sau, hơi tiền phòng được tháo bớt, thay thế bằng dung dịch sinh lý   để tránh nghẽn đồng tử và duy trì nhãn áp bình thường sau phẫu thuật. Các  vết rạch giác mạc hoặc củng mạc được khâu kín [23].
  15. 1.3.3. Kết quả sau phẫu thuật 1.3.3.1. Tỉ lệ thành công và thất bại của phẫu thuật DSAEK Phẫu thuật DSAEK được coi là thành công khi mảnh ghép trong, áp  tốt, giác mạc chủ  hết phù, hết bọng biểu mô trong vòng 4 tuần sau mổ.   Phẫu thuật ghép nội mô giác mạc DSAEK có tỉ  lệ  thành công cao. Theo  một nghiên cứu Price M.O và cộng sự (2010) trên 167 mắt, tỉ lệ thành công   của phẫu thuật DSAEK sau ghép 12 tháng là 97% [2]. Tỉ  lệ  thành công sau ghép DSAEK theo các nghiên cứu của các tác  giả khác cũng khá cao: Ugo de Sanctis sau ghép DSAEK 1 năm là 95% [24],  Ang M (2012): 94% ­ sau 1 năm, 88% sau 2 năm, 87% sau 3 năm [25]. Các nghiên cứu nhận thấy tỉ  lệ  thành công của phẫu thuật DSAEK  tương đương với phẫu thuật ghép giác mạc xuyên. Theo Price M.O và cộng   sự, trong một nghiên cứu kéo dài trong 5 năm, tỉ  lệ  thành công sau phẫu   thuật DSAEK và ghép xuyên trên nhóm loạn dưỡng nội mô Fuchs tương  ứng là 95% và 93%, trên nhóm loạn dưỡng nội mô do các nguyên nhân khác  là 76% và 73%, khác biệt không có ý nghĩa thống kê [26]. Phẫu thuật ghép nội mô giác mạc DSAEK có thể thất bại dẫn đến  phù giác mạc không hồi phục. Dựa vào thời điểm xuất hiện thất bại ghép,   sự tồn tại của các tác nhân có thể dẫn đến thất bại ghép người ta chia thất  bại ghép làm loại: thất bại ghép nguyên phát và thất bại ghép thứ phát. ­ Thất bại ghép nguyên phát:  xuất hiện ngay sau m ổ. Giác mạc  chủ  phù, còn bọng biểu mô, mảnh ghép phù, đục, và/ hoặc lệch, bong   khỏi nền ghép, không áp vào nền ghép dù đã bơm hơi lại, bệnh nhân  còn các triệu chứng c ơ  năng, tình trạng này không phục hồi sau 4 tu ần  điều trị. Thất bại ghép nguyên phát là hậu quả  của mất bù tế  bào nội  mô   giác   mạc.   Thất   b ại   ghép   nguyên   phát   sau   ghép   DSAEK   chiếm  
  16. khoảng 5% các biến chứng sau ph ẫu thu ật (dao động từ 0­29%), thườ ng   xuất hiện sớm trong tu ần đầu sau mổ [27]. Thất bại ghép nguyên phát có thể do chất lượng mảnh ghép không   tốt hoặc do các thao tác trong quá trình phẫu thuật cũng như phản ứng viêm   âm  ỉ  của tiền phòng sau ghép làm tổn hại nội mô mảnh ghép. Theo phần  lớn các nghiên cứu, thất bại ghép nguyên phát liên quan nhiều nhất đến các  thao tác trong phẫu thuật. Các thao tác trong quá trình phẫu thuật làm phá   vỡ  hàng rào máu – mắt, kéo theo phản  ứng viêm sau đó, làm gia tăng âm  ỉ  các tiền chất gây viêm, huy động tập trung các tế  bào hình sao, tạo môi  trường thuận lợi cho tế  bào nội mô “chết theo chương trình”. Trên mô  bệnh học, teo tế bào nội mô (75%) và mất tế bào nội mô (84%) là hình ảnh  điển hình nhất trong thất bại ghép nguyên phát [28]. ­ Thất bại ghép thứ  phát: sau mổ, mảnh ghép áp tốt vào nền ghép,  giác mạc chủ  trong, hết bọng biểu mô, nhưng sau đó giác mạc chủ  phù  dầy, bọng biểu mô, các triệu chứng cơ  năng lại xuất hiện Thất bại ghép  thứ phát có thể là hậu quả của bong mảnh ghép (chủ yếu), hoặc có thể do   nhiễm trùng giao diện ghép, tăng nhãn áp, thải ghép...  Theo   nghiên   cứu   của   Samar   Basak   và   cộng   sự   trên   430   mắt   ghép  DSAEK, tỉ  lệ  thất bại ghép nguyên phát là 2/430 mắt (0,5%), thất bại ghép   thứ  phát là 29/430 mắt (6,7%) trong đó chủ  yếu do mất bù nội mô muộn   (14/430 mắt, 3,2%), sau đó là thất bại ghép do bong mảnh ghép (6/430 mắt,  1,4%), còn lại là do glôcôm (1,2%), thải ghép (0,5%), viêm nội nhãn (0,25%)  [29]. 1.3.3.2. Kết quả thị lực Thị  lực phục hồi nhanh sau phẫu thuật DSAEK. Sau mổ DSAEK 6   tháng, thị lực chỉnh kính tối ưu trung bình trên những mắt không có bệnh lý   phối hợp như glôcôm hoặc tổn hại đáy mắt là 20/38. Theo một nghiên cứu  
  17. kéo dài 3 năm trên 108 mắt, Jennifer và cộng sự  (2012) nhận thấy, thị  lực  đạt mức 20/40 đã tăng từ  49,1% ­ trước phẫu thuật DSAEK lên 94,4% sau  mổ 6 tháng và tại thời điểm 36 tháng sau mổ; 98,1% mắt đạt thị lực từ mức  20/40 trở lên, trong đó có 47,2% mắt đạt mức thị lực 20/20 [30]. Các nghiên cứu nhận thấy thị  lực sau mổ  phục hồi nhanh hơn sau   phẫu thuật DSAEK so với phẫu thuật ghép giác mạc xuyên. Trong một  nghiên cứu của Anshu và cộng sự, 38% ­ 100% bệnh nhân đạt được thị lực  từ mức 20/40 trở lên trong vòng 3 đến 6 tháng sau mổ trong khi đó, sau mổ  ghép giác mạc xuyên, mức thị  lực từ  20/40 trở  lên sau mổ  2 đến 8 năm,  47% đến 65% bệnh nhân mới đạt được [3]. Trong nghiên cứu của Jesper Hjortdal (2009), thị lực chỉnh kính tối ưu  tại thời điểm 12 tháng sau mổ  DSAEK là 0,56 ± 0,04, tốt hơn so với sau   ghép xuyên: 0,33 ± 0,06, đồng thời, mức thị lực từ 20/40 trở lên đạt được ở  70% mắt ghép DSAEK so với 25% mắt ghép xuyên[31]. Thị  lực phục hồi  nhanh và rõ rệt hơn sau mổ DSAEK so với DLEK. Thị lực 20/40 đạt được  sau mổ  6 tháng  ở  nhóm DLEK là 60%,  ở  nhóm sau mổ  DSAEK là 94,4%.   Do đó, phẫu thuật ghép nội mô giác mạc DSAEK ngày càng được áp dụng   rộng rãi trong điều trị các bệnh lý nội mô giác mạc [32]. 1.3.3.3. Kết quả khúc xạ Sau ghép giác mạc nội mô DSAEK, sự  biến đổi của khúc xạ  giác  mạc đã dẫn đến sự thay đổi của khúc xạ nhãn cầu. Theo Terry M.A và cộng sự (2009), sau mổ DSAEK 6 tháng, khúc xạ  cầu tương đương là +0,55 ± 1,26D, so với trước mổ: ­0,21 ± 1,64D, đã viễn  thị hoá +0,76D. Sau mổ 12 tháng, mức độ viễn thị hóa tính theo khúc xạ cầu  tương đương là +0,82D, khác biệt không có ý nghĩa thống kê so với thời  điểm 6 tháng sau mổ. Điều này cho thấy, khúc xạ nhãn cầu sau mổ DSAEK  bị viễn thị hóa so với trước mổ và khúc xạ ổn định kể từ 6 tháng sau phẫu 
  18. thuật [33]. Phần   lớn   các   tác   tác   giả   nhận   thấy   mức   độ   viễn   thị   hoá   sau   mổ  DSAEK không đáng kể và chủ yếu thay đổi từ 0,8D đến 1,5D, trung bình là   1,1D [3]. Độ  loạn thị  sau ghép DSAEK không đáng kể. Theo Price và cộng sự  (2005), sau mổ  DSAEK 6 tháng,  độ  loạn thị  trung bình là 1,5  ±  0,94D,   không có sự khác biệt rõ rệt so với trước mổ: 1,5 ± 1,0D[34].Nhiều nghiên  cứu của các tác giả khác cũng nhận thấy, sau cắt chỉ, độ loạn thị sau phẫu   thuật DSAEK chỉ  dao động trong khoảng 1D so với trước mổ, thấp hơn   nhiều so với sau phẫu thuật ghép xuyên [35]. 1.3.3.4. Độ dày giác mạc sau mổ Sau mổ, độ  dày giác mạc chủ  cũng như  độ  dày của mảnh ghép nội  mô giảm dần và ổn định trong khoảng 6 đến 9 tháng sau phẫu thuật[36]. Theo Terry M.A và cộng sự (2009), sau m ổ DSAEK 6 tháng, độ dày  giác mạc (cả  mảnh ghép và giác mạc chủ) trung bình là 670 ± 50µm, so  với trước mổ, là 690 ± 90µm. Sau một năm, độ  dày giác mạc trung bình  là 674 ± 74µm. Sự  khác biệt về độ  dày giác mạc trước và sau mổ  không  có ý nghĩa thống kê. Tuy độ  dày của giác mạc sau mổ  có giảm đi so với   trướ c mổ  nhưng vẫn dày hơn so với giác mạc bình thườ ng vì có thêm  phần nhu mô của mảnh ghép [37]. Sau khi cắt, mảnh ghép người cho thường có độ  dày từ  88­257µm,  trung bình 150µm. Độ dày trung bình ở trung tâm mảnh ghép, ngày đầu sau   phẫu thuật là 243,3 ± 92µm. Bề  dày giác mạc ghép giảm dần theo thời   gian. Đến giai đoạn ổn định (khoảng 6 đến 9 tháng sau mổ), độ  dày mảnh   ghép  ở   trung  tâm  trung bình  là 126,3µm.  Ở  vùng  ngoại  vi (đường  kính  7mm), sau phẫu thuật ngày đầu độ dày mảnh ghép là 318,5 ± 99µm, độ dày  ngoại vi mảnh ghép ổn định ở tháng thứ 9 là 196,7 ± 50µm. So sánh với độ 
  19. dày mảnh ghép trung tâm, độ  dày mảnh ghép vùng ngoại vi  ở  giai đoạn 9   tháng dày hơn khoảng 70µm. Sự  khác biệt này tạo ra cho mảnh ghép có  hình dạng một thấu kính phân kì, ở trung tâm thì mỏng, ở ngoại vi dày hơn   [36]. Độ dày mảnh ghép là chỉ số được sử dụng để theo dõi kết quả ghép  DSAEK. Carolyn và cộng sự  (2008) nhận thấy: độ  dày mảnh ghép trung  bình sau mổ  1 ngày  ở  nhóm phẫu thuật thất bại là 532 ± 259µm,  ở  nhóm  phẫu thuật thành công là 314 ± 128µm. Tất cả các mắt thất bại đều có độ  dày trung tâm giác mạc ghép trên 350µm  ở  thời điểm 1 tuần sau mổ  [38].   Như vậy, mảnh ghép dày nguy cơ thất bại cao.  Một số tác giả nhận thấy có mối tương quan giữa giữa khúc xạ nhãn  cầu sau ghép DSAEK với độ  dày trung tâm mảnh ghép. Theo nghiên cứu   của Richard Y. Hwang và cộng sự, sau ghép DSAEK, xu hướng viễn thị hoá  của nhãn cầu tăng khi độ dày trung tâm mảnh ghép tăng[39]. Tuy nhiên một  số tác giả khác không tìm thấy mối tương quan giữa khúc xạ nhãn cầu với   độ dày trung tâm mảnh ghép giác mạc [40]. Một số nghiên cứu nhận thấy có mối tương quan giữa thị lực và độ  dày mảnh ghép[41]. Tuy nhiên một số  tác giả  khác nhận thấy thị  lực sau   ghép liên quan nhiều hơn đến chất lượng của giao diện ghép [40]. 1.3.3.5. Biến chứng trong và sau mổ        ­ Biến chứng trong mổ +   Lật   mảnh   ghép,  mở   ngược:  trong  phẫu   thuật   ghép  nội   mô   nói  chung và DSAEK nói riêng, mặt nhu mô của mảnh ghép được quay lên trên,  tiếp xúc với mặt nội mô của nền ghép, mặt nội mô mảnh ghép quay xuống  dưới, tiếp xúc với thuỷ dịch, tiền phòng. Biến chứng lật mảnh ghép hoặc 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2