intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu nồng độ sắt, ferritin và khả năng gắn sắt toàn phần trong huyết tương ở bệnh nhân bệnh thận mạn tính chưa điều trị thay thế thận

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:163

34
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung chính của luận văn gồm 2 mục tiêu chính: Mô tả đặc điểm thiếu máu, nồng độ sắt, ferritin, khả năng gắn sắt toàn phần trong huyết tương và đánh giá tình trạng dự trữ sắt theo KDIGO ở bệnh nhân bệnh thận mạn tính giai đoạn 3 đến 5 chưa điều trị thay thế thận. Xác định mối liên quan giữa nồng độ sắt, ferritin, TIBC huyết tương và tình trạng dự trữ sắt với một số đặc điểm bệnh nhân bệnh thận mạn tính chưa điều trị thay thế thận.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu nồng độ sắt, ferritin và khả năng gắn sắt toàn phần trong huyết tương ở bệnh nhân bệnh thận mạn tính chưa điều trị thay thế thận

  1. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Bệnh thận mạn tính ngày càng gia tăng trên thế giới cũng như tại Việt  nam do sự gia tăng nhanh chóng các nguyên nhân gây tổn thương thận như  đái tháo đường và tăng huyết áp. Dựa vào thay đổi mức lọc cầu thận, bệnh   nhân bệnh thận mạn tính được phân chia thành 5 giai đoạn, các giai đoạn  tuần tự, kế tiếp nhau. Từ giai đoạn 3 đến giai đoạn 5 của bệnh thận mạn   tính (mức lọc cầu thận 
  2. 2 bình thường cũng giống như   ở  bệnh nhân mắc bệnh thận mạn tính [11],  [12], [13], [14].  Theo khuyến cáo của Tổ  chức quản lý chất lượng điều trị  bệnh thận  quốc gia, để điều trị thiếu máu ở bệnh nhân bệnh thận mạn tính hiệu quả,  bên cạnh việc cung cấp erythropoietin bệnh nhân cần được đánh giá dự trữ  sắt dựa vào hai chỉ số ferritin và độ bão hòa transferrin để bổ sung sắt. Độ  bão hoà transferin là đại lượng không thể  định lượng trực tiếp, mà được  tính toán thông qua nồng độ  sắt huyết tương và khả  năng gắn sắt toàn   phần (Total Iron Binding Capacity – TIBC).  Biggar P. và cộng sự  [5] và  Mercadal L. và cộng sự  [14] đã khẳng định có 3 đại lượng cần thiết nhất   để  đánh giá tình trạng dự  trữ  sắt trong cơ  thể  là sắt, ferritin và khả  năng  gắn sắt toàn phần. Tại Việt Nam, đã có nhiều công trình nghiên cứu về  tình trạng sắt, ferritin  ở  bệnh nhân suy thận mạn tính, tuy nhiên chưa có  nhiều nghiên cứu đề  cập đến khả  năng gắn sắt toàn phần trong huyết   tương và đánh giá tỷ lệ thiếu sắt ở bệnh nhân bệnh thận mạn chưa điều trị  thay thế  thận. Với những lý do trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề  tài  “Nghiên cứu nồng độ sắt, ferritin và khả năng gắn sắt toàn phần trong   huyết tương  ở  bệnh nhân bệnh thận mạn tính chưa điều trị  thay thế   thận” với 2 mục tiêu: 1.  Mô tả đặc điểm thiếu máu, nồng độ sắt, ferritin, khả năng gắn sắt toàn   phần trong huyết tương và đánh giá tình trạng dự trữ sắt theo KDIGO ở   bệnh nhân bệnh thận mạn tính  giai đoạn 3 đến 5 chưa điều trị thay thế   thận. 2.  Xác định mối liên quan giữa nồng độ sắt, ferritin, TIBC huyết tương và   tình trạng dự  trữ  sắt với một số  đặc điểm bệnh nhân bệnh thận mạn   tính  chưa điều trị thay thế thận.  
  3. 3
  4. 4 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN 1.1. Chẩn đoán và điều trị bệnh nhân bệnh thận mạn tính 1.1.1. Chẩn đoán bệnh thận mạn tính  * Bệnh thận mạn tính: Là một khái niệm được dùng trong lâm sàng để  chỉ  những bệnh nhân có bệnh thận cả  nguyên phát và thứ  phát tiến triển   mạn tính. Theo K/DOQI (Kiney Disease Outcomes Quality Initiative) của   hội thận học Hoa Kỳ ­ 2002, bệnh thận được coi là mạn tính khi có 1 trong  2 tiêu chuẩn sau [15]: ­ Tổn thương thận kéo dài ≥ 3 tháng dẫn đến sự  thay đổi về  cấu trúc   và chức năng thận. Những rối loạn này có thể  làm giảm hoặc không làm  giảm mức lọc cầu thận (MLCT), được thể  hiện  ở  các tổn thương về  mô  bệnh học, biến đổi về sinh hóa máu, nước tiểu hoặc hình thái của thận qua  chẩn đoán hình ảnh. ­ Mức lọc cầu thận giảm 
  5. 5 thận mạn tính chỉ đánh giá bệnh nhân khi có suy thận.  1.1.2. Các giai đoạn bệnh thận mạn tính  Hiện nay, có 2 cách phân chia giai đoạn BTMT: cách 1 phân chia chỉ  dựa vào MLCT, cách 2   phân chia dựa cả  vào MLCT và nồng độ  protein  niệu (cách này bao gồm cả giá trị tiên lượng). Khuyến cáo năm 2002 phân loại BTMT dựa vào mức lọc cầu thận  như sau: Bảng 1.1. Phân chia giai đoạn bệnh thận mạn tính theo K/DOQI Giai  Mức lọc cầu thận  Biểu hiện đoạn (ml/phút/1,73m2) Tổn thương thận nhưng mức lọc cầu  1 ≥ 90 thận bình thường hoặc tăng Tổn thương thận làm giảm nhẹ  mức  2 60 ­ 90 lọc cầu thận 3 Giảm mức lọc cầu thận mức độ vừa 30 ­ 59 Giảm   nghiêm   trọng   mức   lọc   cầu  4 15 ­ 29 thận 5 Suy thận
  6. 6 thận học chẩn đoán và theo dõi toàn diện hơn, từ đó tiên lượng bệnh thận   tốt hơn.  Bảng 1.2. Phân chia giai đoạn bệnh thận mạn tính theo K/DIGO                                       *Nguồn:  theo K/DIGO (2012)[16] 1.1.3. Thiếu máu ở bệnh nhân bệnh thận mạn tính 1.1.3.1. Đặc điểm chung về thiếu máu  Thiếu máu là hiện tượng giảm hồng cầu (HC), giảm huyết sắc tố  (HST) và hematocrit trong một đơn vị thể tích máu dẫn đến thiếu oxy cung   cấp cho các mô tế bào trong cơ thể. Trong 3 chỉ số trên thì sự  giảm huyết   sắc tố là quan trọng nhất. Khi thiếu máu có kèm giảm khối lượng máu lưu  hành (do nôn, ỉa chảy, bỏng…) thì có thể hematocrit và số lượng HC không  giảm [11].  Theo tổ chức y tế thế giới (WHO), thi ếu máu là tình trạng giảm Hb  
  7. 7 trung bình lưu hành  ở  máu ngoại vi dưới mức bình thường so với người   cùng giới, cùng lứa tuổi và trong cùng một môi trườ ng sống [17]. Thiếu   máu là khi Hb 
  8. 8 ­ Thiếu máu mức độ vừa: 80 g/l ≤ Hb 
  9. 9 là 90,2% (Hình 1.1). Nghiên cứu này cho thấy, thiếu máu xuất hiện ngay từ  khi bệnh nhân chưa có suy thận [18].  Cũng sử  dụng tiêu chuẩn chẩn đoán thiếu máu của WHO, tác giả  Salman M  . và cộng sự  năm 2016 của Malaysia, nghiên cứu trên 615 bệnh  nhân  BTMT,  có  tuổi   trung  bình  là  64,1  tuổi,  nam  chi ếm  64,1%  và   nữ  chiếm 35,9%, mức lọc c ầu thận trung bình là 27,8 ml/phút. Tỷ  lệ  thiếu  máu trong nghiên cứu là 75,8%, BTMT giai đoạn 3a là 41,9%, giai đoạn  3b là 63,4%, giai đoạn 4 là 85,4% và giai đoạn 5 là 97,4%. Đặc điểm  thiếu máu thiếu sắt chiếm chủ y ếu [19]. Một nghiên cứu mới đây nhất của Ryu S.R. và cộng sự tại Hàn Quốc   năm 2017 trên 2198 bệnh nhân BTMT chưa lọc máu có tỷ  lệ  nữ  chiếm   51,8%   nam   chiếm   40,5%.   Tỷ   lệ   thiếu   máu   trong   nghiên   cứu   là   44,9%  (chuẩn đoán theo WHO 2011), trong đó BTMT giai đoạn 1 là 10,0%, giai  đoạn 2 là 15,9%, giai đoạn 3a là 32,8%, giai đoạn 3b là 46,6%, giai đoạn 4  là 78,9% và giai đoạn 5 là 96,8% (Hình 1.2).   Hình 1.2. Tỷ lệ thiếu máu theo các giai đoạn bệnh thận mạn tính tại Hàn Quốc Nguồn: theo Ryu S.R.  và cộng sự (2017) [20]
  10. 10 Như  vậy, các tác giả  đều thống nhất: chẩn đoán thiếu máu  ở  bệnh   nhân BTMT cũng dựa vào các triệu chứng lâm sàng và xét nghiệm trong đó  chủ  yếu dựa vào chỉ  số  hemoglobin. Theo Hội thận học quốc tế  (Kidney   Disease: Improving Global Outcomes ­ KDIGO), tiêu chuẩn chẩn đoán thiếu   máu ở người lớn BTMT chưa lọc máu là: hemoglobin 
  11. 11 * Giảm sản xuất HC ở tủy xương  ­ Các chất ức chế sản xuất HC ở tủy xương  Hiểu biết về  vai trò của “các chất  ức chế  tủy xương  ở  bệnh nhân  BTMT còn chưa sáng tỏ. Người ta thấy rằng: Có một số bệnh nhân BTMT  với nồng độ Erythropoietin (EPO) huyết thanh cao nhưng vẫn bị thiếu máu  nên đã cho rằng tủy xương  ở  bệnh nhân đã giảm đáp  ứng với EPO lưu  hành trong máu. Có hiện tượng  ức chế  phát triển tế  bào tủy xương trong  môi trường nuôi cấy có huyết tương của bệnh nhân urê máu cao ngay cả  khi   bổ   sung   EPO.   Điều   này   hoàn   toàn   không   phải   do   nồng   độ   urê   và  creatinin cao trong huyết tương vì cả  hai chất này đều không  ức chế  sự  phát triển tế  bào tủy xương trong thực nghiệm. Cho tới nay, một số chất   như polyamine, hormone cận giáp, các cytokine đã được nghiên cứu và cho   thấy có liên quan đến sự   ức chế  sự  phát triển của tế  bào tủy xương [25],  [26]. ­ Vai trò của EPO  EPO được tổng hợp tại thận và bài xuất vào vòng tuần hoàn máu rồi   đi đến tủy xương. Tại đây, các tế bào nguồn dòng HC trong tủy xương là  những mục tiêu chính của EPO. Với nồng độ  EPO bình thường  ở  mức   thấp, chỉ một phần nhỏ của các tế bào này tồn tại và sản sinh trong khi các   tế  bào còn lại trải qua quá trình chết theo chương trình. Khi nồng độ  của   EPO tăng lên trong máu, hoặc do nội sinh hoặc do tiêm   rHu­EPO, nhiều  BFU­Es và CFU­Es tránh được quá trình chết tế bào và chúng sẽ  sản sinh,  phát triển hình thái cấu trúc để  trở  thành tiền nguyên HC, nguyên HC rồi  HC lưới [27], [28]. Thời gian từ khi CFU­E s trở thành HC lưới là khoảng 7  ngày và phải trải qua 4­6 lần phân chia tế bào. Sau 3­4 ngày nồng độ  EPO   huyết thanh tăng lên thì tỷ lệ phần trăm HC lưới máu ngoại vi sẽ  tăng lên 
  12. 12 [29], [30]. Ở  người trưởng thành, 90% EPO được sản xuất tại tế bào cạnh cầu   thận, chỉ  có một lượng nhỏ  (10%) được sản xuất tại gan. Với người có  chức năng thận còn nguyên vẹn, EPO huyết thanh tăng theo cấp số nhân khi   nồng độ  Hb máu giảm. Nồng độ  EPO có thể  tăng lên đến 10.000 mU / ml  so với  giá trị  bình thường khoảng 15 mU/ml. Việc trình diện gen EPO  không chỉ  được kích thích khi lượng oxy (nồng độ  hemoglobin) của máu   giảm mà còn được kích thích khi áp lực oxy động mạch giảm [31], [32]. ­ Bài tiết EPO ở bệnh nhân BTMT EPO là một hormon có vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất HC  ở tủy xương. EPO giúp cho quá trình phát triển từ HC non thành HC trưởng  thành.   Nguyên   nhân   của   sự   giảm   sinh   tế   bào   tủy   xương   ở   bệnh   nhân  BTMT chủ  yếu là do giảm tổng hợp và bài tiết EPO  ở  tế  bào nội mạc  quanh  ống thận.   Với hầu hết các nguyên nhân BTMT, các tế  bào này bị  mất dần vì vậy khả năng đáp ứng của thận với tình trạng thiếu máu giảm   dần [33], [34], [35]. Hiện tượng này gây ra giảm sinh và biệt hóa tế bào tủy  và giảm số lượng tế bào HC lưu hành trong máu [36], [37], [38].  * Thiếu nguyên liệu sản xuất HC ­ Thiếu sắt  Sắt có vai trò quan trọng trong cơ  thể  đặc biệt là tham gia tổng hợp   Hem và hemoglobin – thành phần không thể  thiếu trong  HC, thiếu sắt sẽ  dẫn đến thiếu máu.  Ở  bệnh nhân BTMT, thiếu sắt rất thường gặp và do  nhiều nguyên nhân như: giảm lượng sắt ăn vào, giảm hấp thu sắt ở đường  tiêu hóa, mất sắt do mất máu, viêm nhiễm, tăng vận chuyển sắt đến tủy 
  13. 13 xương do điều trị  rHu­EPO [39], [40]. Khi cơ thể thiếu sắt (lượng sắt dự  trữ  và hoặc lượng sắt sẵn sàng vận chuyển đến tủy xương giảm) sẽ  góp   phần gây thiếu máu ở bệnh nhân BTMT đặc biệt làm giảm hiệu quả điều   trị thiếu máu bằng rHu­EPO [41], [42].
  14. 14 ­ Thiếu acid amin Bệnh nhân BTMT thường kèm theo suy dinh dưỡng do ăn kiêng và rối  loạn hấp thu bởi tổn thương tiêu hoá. Ở bệnh nhân suy thận mạn có tới 30­ 60% bệnh nhân giảm albumin máu, thiếu các acid amin [43], [44].  ­ Thiếu acid folic, vitamin B12  Acid folic và vitamin B12 có vai trò tham gia sản xuất HC  ở tủy xương  nên khi thiếu các chất này sẽ  gây thiếu máu. Tuy nhiên, thiếu acid folic và   vitamin B12  không thường gặp  ở  bệnh nhân BTMT. Tỷ  lệ  thiếu các chất   này ở bệnh nhân BTMT giai đoạn cuối lọc máu chu kỳ là khoảng 10% [44]. * Thiếu máu do chảy và mất máu ­  Tăng phá hủy HC Đời sống tế  bào HC  ở  bệnh nhân BTMT giảm đi gần 50% so với  người bình thường và chỉ còn khoảng 60­70 ngày. Ở bệnh nhân BTMT giai   đoạn cuối lọc máu chu kỳ, đời sống HC đã cải thiện hơn nhờ  hiệu quả  điều trị  lọc máu nhưng vẫn giảm khoảng 20% so với người khỏe mạnh.   Nguyên nhân giảm đời sống HC  ở  bệnh nhân BTMT còn chưa hiểu hết.  Khi truyền HC người bình thường vào bệnh nhân BTMT thì đời sống HC  này cũng bị  giảm và khi truyền HC  ở  bệnh nhân BTMT vào người bình  thường thì đời sống của HC lại được phục hồi như   ở  người không suy  thận. Người ta cho rằng, có thể  một số  chất bị  tích lũy lại trong huyết  tương bệnh nhân BTMT đã tác động lên màng HC làm thay đổi quá trình  vận chuyển lượng natri từ trong tế bào ra ngoài và là nguyên nhân gây giảm  đời sống HC. Những giải pháp nhằm cải thiện đời sống HC như  điều trị  rHu­EPO hoặc lọc máu với điều kiện tối  ưu đều chưa mang lại kết quả  đáng kể. Đời sống HC giảm dẫn đến tăng phá hủy HC của đại thực bào ở  tổ  chức võng nội mô [45], [46]. Mặc dù, sự  tăng thực bào HC chỉ  mức độ 
  15. 15 nhẹ mà hệ thống tạo máu bình thường có thể sản xuất HC bù lại nhưng ở  bệnh nhân BTMT, sự  giảm bài tiết EPO và sự  hiện diện của một số chất   ức chế tủy xương đã làm cho tủy xương không sản xuất đủ  HC bù lại số  lượng HC bị thực bào và dẫn đến thiếu máu [47], [48]. ­ Mất máu Nguyên nhân gây chảy máu và mất máu chủ yếu là do giảm chất lượng  tiểu cầu ở bệnh nhân ure máu cao. Ở bệnh nhân BTMT lọc máu chu kỳ, máu  mất còn do lấy máu xét nghiệm định kỳ, chảy máu tại nơi chọc kim fistula,   dùng thuốc chống đông trong buổi lọc máu và máu đọng lại  ở  vòng tuần   hoàn ngoài cơ thể sau mỗi lần lọc [49], [50], [51]. 1.1.4. Điều trị thiếu máu ở bệnh nhân bệnh thận mạn tính * Mục tiêu điều trị Duy trì Hemoglobin mức 110 g/l – 120 g/l với bệnh nhân nữ, 120 g/l –  130 g/l với bệnh nhân nam, tối thiểu hemoglobin 100 g/l được cho là đạt   mức yếu cầu. Với Hb 110 g/l (tương đương Hct khoảng 33%) đến 120 g/l  (Hct khoảng 36%) và Hb 130 g/l (Hct 39%) là những mức bệnh nhân suy  thận cho thấy có chất lượng cuộc sống tốt [15], [21].  * Phương pháp điều trị ­ Sử dụng erythropoietin (EPO) Sử dụng EPO tái tổ hợp người theo công nghệ gen với liều ban đầu là   từ 80 ­ 120 UI/kg BW/ tuần (thường là 6000UI/tuần), tiêm dưới da, chia 2­3   lần/tuần.   Với   bệnh   nhân   BTMT   giai   đoạn   cuối  lọc   máu  liều   ban   đầu  thường là 120­180 UI/kg BW/tuần (thường là 9000 UI/tuần), tiêm TM, chia  3 lần. Khi bệnh nhân đạt được Hb/Hct mục tiêu từ 110 – 130 g/l/33%­39%  thì duy trì liều EPO bằng 1/2 liều ban đầu [21].  ­ Sử dụng sắt 
  16. 16 Theo khuyến cáo cần đánh giá dự  trữ  sắt để  lựa chọn loại sắt, liều   điều trị và thời gian điều trị cho bệnh nhân để tăng hiệu quả điều trị, giảm  liều EPO. Khi bệnh nhân thiếu máu với dự trữ sắt thiếu tuyệt đối, khuyến   cáo nên sử dụng sắt đường tĩnh mạch, khi nồng độ hemoglobin đạt yêu cầu  giảm liều EPO và chuyển sang sắt đường uống [21].  Cách dùng sắt truyền: khi thiếu sắt có thể  truyền sắt TM (CosmoFe,  VenoFe 100 mg), pha 100 mg với 100 ml HTM 0,9% truyền TM 20­30   giọt/phút x 3 lần/tuần. Sắt uống: viên ferrivit 0,3; viên Tardyferon B9; lọ  Ferlatum 800 mg. Liều dùng khoảng 200 mg sắt nguyên tố/24 giờ chia 2­3   lần. Uống sắt vào lúc đói để tăng khả năng hấp thụ sắt qua ruột.  ­ Các acid amin và nguyên tố vi lượng Khuyến cáo của Hội thận học quốc tế  [21] cho thấy ngoài việc sử  dụng đủ liều EPO, đúng loại và đủ liều sắt, bệnh nhân cần đồng thời được  bổ  sung thêm các acid amin và các nguyên tố  vi lượng. Các acid amin cần  thiết cho thận được lựa chọn như: kidmin, amiju, nephosterin... ­ Điều trị bệnh thận mạn Trên bệnh nhân BTMT điều trị các biến chứng và rối loạn các cơ quan  làm tăng hiệu quả điều trị thiếu máu. Điều trị nguyên nhân bệnh thận mạn   như  kiểm soát glucose máu  ở  bệnh nhân đái tháo đường, sử  dụng kháng  sinh  ở  bệnh nhân viêm thận bể  thận mạn..., kiểm soát huyết áp đạt mục   tiêu, kiểm soát tình trạng viêm...cũng làm tăng hiệu quả điều trị thiếu máu  [21].  1.2. Đánh giá tình trạng sắt ở bệnh nhân bệnh thận mạn tính 1.2.1. Vai trò của sắt trong quá trình tạo máu Nguồn cung cấp sắt hàng ngày cho cơ  thể chủ  yếu từ  các thức ăn có  nguồn gốc động vật và thực vật như: gan, tim, trứng, thịt nạc, giá đậu, rau  
  17. 17 quả.   Ở   người   bình   thường   nhu   cầu   sắt   hàng   ngày   khoảng   0,5­1mg,   ở  người hành kinh hoặc có thai nhu cầu sắt cao hơn khoảng 1­2 mg/24 giờ.   Sắt là thành phần quan trọng của Hb, myoglobin, cytocrom…Toàn bộ  sắt  trong cơ  thể  vào khoảng 4g, trong đó 65% là trong Hb do đó các nguyên  nhân nào gây mất máu sẽ gây mất sắt, 15­30% dự trữ trong hệ thống võng  nội mô và các tế bào nhu mô của gan dưới dạng ferritin [12], [52], [53].  Ở dạ dày: Sắt từ nguồn thức ăn có thể ở dạng ion Fe 2+ hoặc Fe3+..  Fe2+  được hấp thu dễ dàng qua niêm mạc dạ dày, ruột. Fe3+ muốn hấp thu được  phải chuyển thành Fe2+ nhờ  tác dụng của acid hydrochloric  ở  dạ  dày. Tại  ruột: Fe2+  được gắn với một albumin  ở tế bào niêm mạc ruột là apoferritin  để tạo thành ferritin đi vào máu. Apoferritin là chất mang sắt, có nhiệm vụ  đưa sắt vào trong máu xong quay trở lại niêm mạc ruột để vận chuyển tiếp   sắt. Khi cơ  thể thiếu sắt thì số  lượng apoferritin tăng lên để  tăng hấp thu   sắt và ngược lại. Thức ăn trung bình chứa 15mg Fe thì 0,5­1mg (5%­10%)  được hấp thu, khi thiếu sắt ruột có thể tăng hấp thu đến 30%. Một số chất   như  vitamin C, protein có chứa nhóm –SH làm Fe3+   chuyển thành Fe2+  dễ  hấp thu, các phytat, phosphat cản trở hấp thu sắt [54], [55], [56].  Trong máu: Sắt được gắn với  β­glycoprotein, chất vận chuyển sắt  đặc   hiệu   gọi   là   Transferrin   (TRF).   TRF   có   trọng   lượng   phân   tử   80000   dalton, được tổng hợp tại gan và có nửa đời sống khoảng 8­10 ngày, 1 phân   tử  TRF có thể gắn với 2 phân tử sắt. Sau khi sắt tách ra TRF tiếp tục gắn   với những nguyên tử sắt mới, bình thường có khoảng 1/3 TRF bão hoà sắt.  Tỷ lệ này có thể thay đổi khi thiếu hoặc quá tải sắt. TRF chủ yếu lấy sắt  từ  các đại thực bào của hệ  liên võng nội mô, chỉ  có một lượng nhỏ  sắt   được lấy từ sắt hấp thu qua đường tiêu hoá hàng ngày. Thông qua TRF, sắt  được chuyển đến các mô như  tuỷ  xương, có một phần ở dạng dự  trữ  còn   một phần để tạo ra HC và các enzyme [12], [44], [57]. Ở  mô: Sắt đi vào trong các tế  bào được phải thông qua transferritin  
  18. 18 receptor  ở  màng tế  bào. Nhờ  quá trình nhập bào, phức hợp transferritin   receptor đi vào trong tế bào giải phóng ra ion sắt. Sau khi giải phóng sắt vào  trong nội bào, TRF lại tiếp tục thực hiện vận chuyển các phân tử sắt khác.  Các nguyên HC rất giàu các receptor với TRF. Khi thiếu hụt sắt thì số  lượng TRF receptor tăng và giảm ferritin (giảm dự  trữ  sắt) và ngược lại,   khi lượng sắt trong cơ thể tăng cao, thì số lượng TRF receptor giảm xuống  và tăng dự trữ sắt lên và tăng thải trừ sắt qua phân, mồ hôi và nước tiểu, tế  bào biểu mô bị bong ra [12], [57]. Dự  trữ  sắt: Bình thường các HC chết bị  thực bào tại các tế  bào đại  thực bào của hệ liên võng nội mô [12], [58]. Một phần nhỏ sắt giải phóng   ra từ sự phân huỷ Hb sẽ đi vào huyết tương và phần lớn được dự trữ trong   các đại thực bào dưới dạng ferritin và hemosiderin. Ferritin là một protein  tan trong nước có trọng lượng phân tử 465.000 dalton. Vỏ protein khi chưa   liên kết với sắt gọi là apoferritin. Sau khi apoferritin liên kết với sắt tạo   thành ferritin. Mỗi phân tử apoferritin có thể liên kết với 4000­5000 nguyên  tử  sắt. Hemosiderin là một tổ  hợp có chứa sắt không hoà tan trong nước.  Sắt chứa trong ferritin và hemosiderin là Fe3+. Muốn sử  dụng được trong  quá trình tổng hợp hemoglobin sắt cần được khử thành dạng Fe2+. Quá trình  khử này có sự tham gia của vitamin C. Ferritin giảm trong thiếu máu do thiếu  sắt. Một số bệnh lý có nồng độ  ferritin huyết tương tăng cao như: bệnh lý   gan do ngộ độc rượu, xơ gan, viêm gan mạn, thiếu máu do tan máu, ung thư  tiến triển ...[59], [60], [61]. Như  vậy sắt muốn được hấp thu và vận chuyển đến cho tế  bào sử  dụng đều phải thông qua các chất mang, các chất mang sắt đó đều có bản   chất là protein do đó các nguyên nhân làm cho người bệnh thiếu protid cũng   đều dẫn đến thiếu sắt. Tỷ lệ của thiếu sắt phụ thuộc vào giai đoạn bệnh  
  19. 19 thận. Thiếu sắt ở bệnh nhân BTMT là do: Ở bệnh nhân BTMT đặc biệt là  bệnh nhân lọc máu chu kỳ, chu trình chuyển hóa sắt hàng ngày không còn  đặc tính “chu trình khép kín” như   ở  người bình thường. Những đặc điểm  thay đổi chuyển hóa sắt ở bệnh nhân BTMT so với người bình thường bao   gồm: tăng lượng sắt đưa vào cơ  thể; tăng lượng sắt vận chuyển đến tủy  xương và lượng sắt giải phóng vào máu từ quá trình thực bào HC; mất sắt  do mất máu tăng và ảnh hưởng của các yếu tố  đến chuyển hóa sắt. Tỷ  lệ  thiếu sắt  ở  bệnh nhân BTMT thường cao hơn thời kỳ  trước khi sản xuất   được rHu­EPO và có thể lên tới 25­37,5% [62], [63], [64]. 1.2.2. Các chỉ số đánh giá tình trạng dự trữ sắt ở bệnh nhân bệnh thận mạn   tính Trên lâm sàng, có nhiều chỉ số đánh giá chức năng sắt của người khoẻ  mạnh và của bệnh nhân BTMT nói chung, bệnh nhân suy thận mạn tính nói  riêng. Theo KDOQI và KDIGO, một số chỉ số thường được sử  dụng trong  lâm   sàng,   trong   đó   sắt,   ferritin,   TRF,   TIBC   và   tính   toán   độ   bão   hoà  transferrin (TSAT) [60], [65].   1.2.2.1. Sắt huyết tương Sắt huyết tương là một chỉ  số  đánh giá tình trạng sắt trong cơ  thể,   được chỉ định xét nghiệm ở những bệnh nhân nghi ngờ thiếu máu thiếu sắt  và trên bệnh nhân BTMT hoặc trên phụ nữ có thai [12], [41], [66], [67].  Sắt  được cung cấp cho cơ thể duy nhất theo đường ăn uống. Trong điều kiện  bình thường, sắt được hấp thu rất ít, lượng sắt đào thải ra nước tiểu cũng   ít, nên luôn tồn tại trạng thái cơ  thể  có chứa lượng sắt rất cao. Ăn uống  bình thường một ngày 10­20 mg thì chỉ dưới 10% sắt được hấp thu. Vai trò   của sắt tập trung hầu hết ở quá trình hô hấp tế bào, các nhóm Fe porphyrin  
  20. 20 (Hem) là cấu tử  cần thiết của hemoglobin, myoglobin, các cytocrom, các  enzym catalase, peroxydase và các Fe không phải Hem. Trong đó bao gồm   các   flavoprotein   có   sắt   nội   tế   bào   (NADH   dehydrogenase,   succinat  dehydrogenase) và các protein Fe­S vận chuyển và dự  trữ  chất vô cơ. Nhu  cầu về  sắt thay đổi theo lứa tuổi, theo nhu cầu của sự phát triển tổ  chức,  sự tổng hợp hemoglobin, sự mất sắt qua nước tiểu, phân và mồ  hôi. Riêng  với nữ thì thêm sự  mất sắt qua kinh nguyệt, nhu cầu sắt khi thai nghén và   nuôi con bú.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2