intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Y tế công cộng: Kết quả can thiệp tuổi già khỏe mạnh tại tỉnh Hải Dương và Hòa Bình

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:233

12
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án Tiến sĩ Y tế công cộng "Kết quả can thiệp tuổi già khỏe mạnh tại tỉnh Hải Dương và Hòa Bình" trình bày các nội dung chính sau: Mô tả thực trạng sức khỏe và chất lượng cuộc sống người cao tuổi tại thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương và huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình năm 2018; Đánh giá sự thay đổi chất lượng cuộc sống của người cao tuổi thông qua can thiệp “Tuổi già khỏe mạnh” tại tỉnh Hải Dương và tỉnh Hòa Bình; Phân tích mức độ phù hợp của can thiệp “Tuổi già khỏe mạnh” tại tỉnh Hải Dương và tỉnh Hòa Bình.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Y tế công cộng: Kết quả can thiệp tuổi già khỏe mạnh tại tỉnh Hải Dương và Hòa Bình

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG NGUYỄN ĐÌNH ANH KẾT QUẢ CAN THIỆP TUỔI GIÀ KHỎE MẠNH TẠI TỈNH HẢI DƯƠNG VÀ HÒA BÌNH LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG MÃ SỐ CHUYÊN NGÀNH: 97.20.701 HÀ NỘI – 2023
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG NGUYỄN ĐÌNH ANH KẾT QUẢ CAN THIỆP TUỔI GIÀ KHỎE MẠNH TẠI TỈNH HẢI DƯƠNG VÀ HÒA BÌNH LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG MÃ SỐ CHUYÊN NGÀNH: 97.20.701 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. GS.TS Bùi Thị Thu Hà 2. PGS.TS Dương Minh Đức HÀ NỘI – 2023
  3. 3 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi với sự hướng dẫn khoa học của tập thể cán bộ hương dẫn. ́ Các kết quả nêu trên trong luận án là trung thực. Luận án chưa từng được công bố. Nếu có điều gì sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Nghiên cứu sinh Nguyễn Đình Anh
  4. 4 LỜI CẢM ƠN Tôi xin trân trọng cảm ơn tập thể Hội đồng trương, Ban Giám hiệu, Phòng ̀ Quản lý Đào tạo sau đại học, cùng các thầy, cô giáo Trường Đại học Y tế công cộng đã nhiệt tình giảng dạy, truyền đạt kiến thức quý báu, tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập, rèn luyện tại trường. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Thị Thu Hà và Phó Giáo sư, Tiến sĩ Dương Minh Đức đã dành nhiều thời gian trực tiếp hướng dẫn khoa học, luôn quan tâm, hỗ trợ và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận án này. Tôi xin gửi lời cảm ơn đến các đồng chí lãnh đạo Bộ Y tế, lãnh đạo và chuyên viên Vụ Tổ chức cán bộ, Vụ Truyền thông và Thi đua, khen thưởng, Cục Khoa học công nghệ và Đào tạo đã ủng hộ, động viên tôi tham gia khoá học này. Trân trọng cảm ơn các nhà khoa học, các chuyên gia, các đồng nghiệp công tác trong lĩnh vực y tế của Bộ Y tế, các đơn vị của Bộ Y tế, Sở Y tế Hải Dương, Sở Y tế Hoà Bình, Trung tâm Y tế thành phố Chí Linh, Trung tâm Y tế huyện Kim Bôi, Uỷ ban nhân dân phường An Lạc và phường Văn An (thành phố Chí Linh), Uỷ ban nhân dân xã Hạ Bì và xã Vĩnh Tiến (huyện Kim Bôi) đã hỗ trợ, phối hợp và tham gia trong quá trình xây dựng, tổ chức thực hiện can thiệp của nghiên cứu. Tôi xin trân trọng cảm ơn tập thể nhóm nghiên cứu đề tài cấp Bộ "Kết quả mô hình can thiệp tăng cường chăm sóc sức khoẻ người cao tuổi ở một số địa phương của Việt Nam" đã cùng tôi tham gia, triển khai và cho phép tôi sử dụng một phần số liệu của đề tài để phục vụ cho mục đích học tập và hoàn thành luận án. Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến những người thân trong gia đình, bạn bè, đồng nghiệp luôn sát cánh, động viên, chia sẻ để tôi yên tâm công tác, học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận án này. Xin trân trọng cảm ơn! . . Hà Nội, ngày ..... tháng 8 năm 2023 Nghiên cứu sinh MỤC LỤC
  5. 5
  6. 6 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BHYT Bảo hiểm y tế BKLN Bệnh không lây nhiễm BYT Bộ Y tế CLB Câu lạc bộ CLCS Chất lượng cuộc sống CSSK Chăm sóc sức khỏe EQ-5D Euro – Quality Of Life – 5 KTC Khoảng tin cậy NCT Người cao tuổi NVYTTB Nhân viên y tế thôn bản PHCN Phục hồi chức năng PVS Phỏng vấn sâu SAGE Scientific Advisory Group for Emmergencies THA Tăng huyết áp THCS Trung học cơ sở THPT Trung học phổ thông TLN Thảo luận nhóm TTBTXH Trung tâm bảo trợ xã hội TT-GDSK Truyền thông – Giáo dục sức khỏe TYT Trạm y tế UBND Ủy ban nhân dân UBTVQH Ủy ban thường vụ quốc hội WHO World Health Organization WHOQOL World Health Organization Quality Of Life WHOQOL-BREF World Health Organization Quality of Life – BREF
  7. 7 DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
  8. 8 DANH MỤC CÁC HÌNH VÀ BIỂU ĐỒ
  9. 9 ĐẶT VẤN ĐỀ Già hóa dân số là một trong những xu hướng quan trọng nhất của những năm cuối thế kỷ 20 và trong thế kỷ 21. Con người sống lâu hơn nhờ các điều kiện tốt hơn về chế độ dinh dưỡng, vệ sinh, tiến bộ y học, chăm sóc y tế, giáo dục và đời sống kinh tế. Trên thế giới, cứ một giây, có hai người tổ chức sinh nhật tròn 60 tuổi – trung bình một năm có gần 58 triệu người tròn 60 tuổi (1). Già hóa dân số gia tăng nhanh nhất ở các nước đang phát triển, bao gồm cả các nước có đông dân số trẻ. Giai đoạn 2010 - 2015, tuổi thọ trung bình của các nước phát triển là 78 và của các nước đang phát triển là 68 tuổi. Đến những năm 2045 - 2050, dự kiến tuổi thọ trung bình sẽ tăng lên đến 83 tuổi ở các nước phát triển và 74 tuổi ở các nước đang phát triển (2,3). Hơn 3 thập kỷ vừa qua, Việt Nam đã có những thay đổi lớn về nhân khẩu học. Từ năm 1989 đến 2021, NCT ở Việt Nam không những tăng nhanh về số lượng với 4,6 triệu (năm 1989), 6,2 triệu (1999) và 8,6 triệu (năm 2011), 12,6 triệu người (năm 2021) mà tỷ lệ NCT cũng tăng lên tương ứng, lần lượt là 7,1%, 8,1%, 10% và 12,6% (4) (17). Việt Nam chính thức bước vào giai đoạn già hóa dân số từ năm 2011, trở thành một trong những quốc gia có tốc độ già hóa nhanh nhất thế giới. Khi tuổi thọ cao thì gánh nặng bệnh tật cũng rất lớn, đặc biệt là đối với NCT càng dễ mắc bệnh, không những một bệnh mà nhiều bệnh. Điều này dẫn đến nhu cầu chăm sóc sức khỏe cho NCT ngày càng cao. Người cao tuổi Việt Nam vẫn chưa thực sự khỏe mạnh như mong muốn. Điều tra về NCT năm 2011 chỉ ra rằng hơn 55% và trên 10% số người đánh giá sức khỏe bản thân là yếu và rất yếu. Nghiên cứu này cũng cho thấy gần 72% NCT gặp ít nhất một loại khó khăn về vận động và 37,6% gặp ít nhất một trở ngại trong sinh hoạt hàng ngày (5). Tỷ lệ mắc các bệnh mạn tính khá cao và thường mắc nhiều bệnh đồng thời, trung bình một người mắc gần 2,7 bệnh (6). Các chính sách chăm sóc NCT ở nước ta trong thời gian qua đã ít nhiều mang tính hệ thống. Tuy nhiên, thực tế cho thấy một số chính sách chăm sóc NCT hiện nay vẫn còn hạn chế và bất cập. Một số văn bản chính sách còn chung chung,
  10. 10 thiếu tính thực tế. Những chính sách trợ giúp mới chỉ tập trung vào một số chế độ trợ cấp xã hội thường xuyên cho những NCT có hoàn cảnh đặc biệt, khó khăn; một số ưu đãi khác cho NCT còn hạn hẹp, chỉ mới ưu tiên trong khám chữa bệnh, đi lại bằng phương tiện giao thông công cộng, giảm phí tham quan, quà chúc thọ hoặc phí mai táng). Năm 2016, Bộ Y tế ban hành Quyết định số 7618/QĐ-BYT về việc phê duyệt đề án chăm sóc sức khỏe người cao tuổi giai đoạn 2017-2025 (7). Quyết định nhằm thích ứng với giai đoạn già hóa dân số góp phần thực hiện Chương trình hành động quốc gia về NCT. Một trong những mục tiêu quan trọng của đề án là xây dựng và phổ biến mô hình chăm sóc sức khỏe (CSSK) dài hạn cho NCT. Trên cơ sở này, đề tài cấp Bộ Y tế “Nghiên cứu thực trạng và đánh giá hiệu quả mô hình can thiệp tăng cường chăm sóc sức khỏe người cao tuổi ở một số địa phương của Việt Nam” do nghiên cứu sinh làm chủ nhiệm đã được xây dựng và triển khai. Đề tài đã được phê duyệt hoàn thành vào năm 2021. Địa bàn nghiên cứu được lựa chọn là tỉnh Hải Dương và tỉnh Hoà Bình. Tỉnh Hải Dương là một trong 10 tỉnh có chỉ số già hoá cao nhất toàn quốc với tỷ lệ NCT khá cao (13,5%) với tuổi thọ trung bình tăng từ 71,9 tuổi năm 1999 lên 74,5 tuổi năm 2014 (8). Còn ở tỉnh Hòa Bình, tỷ lệ NCT thấp hơn trung bình cả nước (8,9%) (8). Dựa vào đề tài cấp Bộ này, nghiên cứu sinh đã sử dụng một số kết quả để xây dựng và hoàn thiện luận án “Kết quả can thiệp tuổi già khỏe mạnh tại tỉnh Hải Dương và Hòa Bình giai đoạn 2018 - 2021”. Luận án này thực hiện thêm các phân tích thống kê chuyên sâu cũng như phân tích bổ sung thêm những kết quả từ đề tài cấp Bộ để trả lời các câu hỏi nghiên cứu sau: Trước can thiệp, thực trạng sức khỏe và chất lượng cuộc sống (CLCS) của NCT tại địa bàn nghiên cứu như thế nào? Can thiệp “Tuổi già khỏe mạnh” tại tỉnh Hải Dương và tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2018 - 2021 đã làm thay đổi thay đổi CLCS của NCT ra sao? Mức độ phù hợp của can thiệp “Tuổi già khỏe mạnh” giai đoạn 2018 - 2021 tại 2 tỉnh Hải Dương và tỉnh Hòa Bình như thế nào?. Điểm mới của đề tài là xây dựng và đánh giá hiệu quả của mô hình can thiệp “Tuổi già khỏe mạnh” thông qua đánh giá thay đổi chất lượng cuộc sống, đặc biệt là thay đổi về khía cạnh sức khỏe tinh thần, với cách tổ chức các hoạt động dựa trên vào cộng đồng, có sự tham
  11. 11 gia của NCT - nhóm đối tượng trung tâm của mô hình – trong tự tổ chức, tham gia và duy trì các hoạt động với hình thức đa dạng và phù hợp với bối cảnh và địa bàn can thiệp. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 1. Mô tả thực trạng sức khỏe và chất lượng cuộc sống người cao tuổi tại thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương và huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình năm 2018. 2. Đánh giá sự thay đổi chất lượng cuộc sống của người cao tuổi thông qua can thiệp “Tuổi già khỏe mạnh” tại tỉnh Hải Dương và tỉnh Hòa Bình. 3. Phân tích mức độ phù hợp của can thiệp “Tuổi già khỏe mạnh” tại tỉnh Hải Dương và tỉnh Hòa Bình.
  12. 12 Chương 1 TỔNG QUAN 1 1.1. Một số khái niệm Người cao tuổi (NCT): Khái niệm người cao tuổi giữa nước ta và thế giới khác nhau, như Quỹ Dân số Liên hợp quốc định nghĩa người cao tuổi là những người từ 65 tuổi trở lên. Trong đề tài này, chúng tôi sử dụng khái niệm người cao tuổi theo Luật Người cao tuổi năm 2009 là từ 60 tuổi trở lên, tính cả đối với nam và nữ (Điều 2, Luật NCT Việt Nam) (9). Già hoá dân số hay còn gọi là giai đoạn “dân số đang già” là khi tỷ lệ người từ 65 tuổi trở lên chiếm từ 7% tổng dân số trở lên; hoặc khi tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên chiếm từ 10% tổng dân số trở lên. Giai đoạn “dân số già” còn gọi là giai đoạn “dân số đã già” là khi dân số từ 65 tuổi trở lên chiếm từ 14% tổng dân số trở lên. Đây là một quá trình diễn ra khi tỷ lệ người lớn và NCT tăng lên, còn tỷ lệ trẻ em và vị thành niên giảm đi, cũng là lúc mức sinh giảm xuống và tuổi thọ trung bình không thay đổi hoặc tăng lên (10). Cơ cấu dân số vàng là cứ có 2 người trong độ tuổi lao động thì có 1 người trong độ tuổi phụ thuộc (10). Tại Việt Nam, độ tuổi lao động là từ 15 đến 59 tuổi, độ tuổi phụ thuộc trẻ là dưới 15 tuổi, độ tuổi phụ thuộc già là từ trên 60 tuổi. Tuổi già khỏe mạnh là một quá trình phát triển và duy trì khả năng thực hiện các chức năng để tạo nên cuộc sống thoải mái trong giai đoạn tuổi già. Già hóa tích cực là một quá trình tối đa hóa các cơ hội liên quan đến y tế, sự tham gia và đảm bảo an sinh từ đó tăng cường chất lượng cuộc sống cho NCT (10). Chất lượng cuộc sống: Theo WHO, chất lượng cuộc sống (CLCS) là “Quan niệm của cá nhân về vị trí xã hội của họ trong bối cảnh văn hóa và hệ thống giá trị mà họ sống; và trong mối quan hệ với các mục tiêu, kỳ vọng, chuẩn mực và những mối quan tâm của họ” (11). Chất lượng cuộc sống của người cao tuổi là sự hiểu biết của cá nhân về vị trí xã hội của họ trong bối cảnh văn hóa và hệ thống các giá trị, và trong mối quan hệ với các mục tiêu, kỳ vọng, chuẩn mực và mối quan tâm của họ (11).
  13. 13 Năng lực cung cấp dịch vụ sức khỏe cho người cao tuổi tại cơ sở y tế tuyến cơ sở được đánh giá dựa vào sự sẵn có và sẵn sàng đáp ứng các yếu tố như: i) nhân lực, ii) thuốc, trang thiết bị và kỹ thuật; iii) hoạt động/dịch vụ; iv) thông tin, báo cáo; và vi) tài chính. Yếu tố chính sách, quản lý và điều hành cũng ảnh hưởng đến những năng lực này (12). Mức độ phù hợp: Một can thiệp khi triển khai cần phải phù hợp với nhu cầu, ở cả phía đối tượng đích (giải quyết các vấn đề của đối tượng đích) và cũng phải phù hợp với các đặc thù của chủ đề nghiên cứu (13). Tính phù hợp có ý nghĩa quan trọng trong thiết kế nghiên cứu, lập kế hoạch hoạt động của can thiệp và cả tổng chi phí của can thiệp. Mức độ phù hợp là đánh giá về sự phù hợp của can thiệp ở một địa bàn cụ thể hoặc cho một đối tượng đích cụ thể (ví dụ: người cung cấp dịch vụ y tế hoặc khách hàng) hoặc vấn đề cụ thể (13). 2 1.2. Thực trạng sức khỏe người cao tuổi trên thế giới và tại Việt Nam 3 1.2.1. Khái quát sức khỏe của người cao tuổi Khi tuổi cao, đồng nghĩa với việc sức khỏe giảm sút và mắc các bệnh người già. Các bệnh thường gặp ở NCT bao gồm mất thính giác, đục thủy tinh thể và các tật khúc xạ, đau lưng và cổ, viêm khớp mãn tính, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính, tiểu đường, trầm cảm và chứng sa sút trí tuệ. Người cao tuổi gặp phải một số vấn đề liên quan đến sức khỏe sinh sản như ảnh hưởng của mãn kinh, ung thư sinh dục, sa sinh dục v.v… Đáng lưu ý là, NCT cùng lúc có thể mắc nhiều chứng bệnh khác nhau. Hơn nữa, NCT còn phải chịu nhiều bệnh do lão hóa gây ra (14). Khi tuổi càng cao, NCT gặp nhiều tình trạng sức khoẻ phức tạp, không thuộc bất cứ một phân loại bệnh cụ thể nào, gọi là hội chứng lão khoa như suy giảm sức khỏe, tiểu không tự chủ, ngã, mê sảng và viêm loét do tỳ đè. Hội chứng lão khoa là một chỉ báo thường được sử dụng cho tình trạng sức khỏe và tử vong của NCT chứ không chỉ là loại hoặc số lượng bệnh cụ thể hiện mắc. Khi tuổi càng cao, NCT thường mắc các bệnh không lây nhiễm, là nguyên nhân chính gây tử vong ở người cao tuổi, đồng thời cũng là gánh nặng bệnh tật lớn nhất ở các nước phát triển, thậm chí ở cả những nước đang phát triển. Năm 2004, tỷ lệ tử vong do các bệnh không lây nhiễm trên phạm vi toàn cầu chiếm tới 86% trong
  14. 14 tổng số các trường hợp tử vong ở nhóm NCT (77% ở các nước thu nhập thấp và 91% ở các nước thu nhập cao (15). Nhiều quốc gia đang đối mặt với gánh nặng “bệnh tật kép” do có sự thay đổi nhanh về mô hình bệnh tật và nguyên nhân ốm đau ở NCT. Trừ những nước phát triển, phần lớn NCT trên thế giới không được tiếp cận và chăm sóc y tế đầy đủ. Đào tạo về lão khoa thường không đáp ứng đủ so với nhu cầu đối với loại hình chăm sóc đặc biệt này. Thêm vào đó, nhu cầu về các dịch vụ chăm sóc lâu dài cho NCT ngày càng gia tăng trên toàn thế giới. Nếu như trước đây, những dịch vụ này thường được các thành viên gia đình đảm nhận thì hiện nay công việc chăm sóc NCT ngày càng được đảm nhận bởi các chuyên gia y tế. 4 1.2.2. Thực trạng sức khoẻ người cao tuổi trên thế giới Già hóa dân số là một trong những xu hướng quan trọng nhất của thế kỷ 21. Hiện nay, cứ chín người thì có một người từ 60 tuổi trở lên, ước đến năm 2050 cứ năm người đã có một người từ 60 tuổi trở lên (1). Năm 2014, có 34 quốc gia đạt được tuổi thọ trung bình trên 80 tuổi; trong khi đó năm 2007 chỉ có 19 quốc gia đạt con số này. Hiện nay, Nhật Bản là quốc gia duy nhất có trên 30% dân số già; nhưng đến năm 2050, ước tính có 64 nước có trên 30% dân số già như Nhật Bản. Giai đoạn 2015 - 2020, tuổi thọ trung bình của các nước phát triển là 80 và của các nước đang phát triển là 71 tuổi, nhưng đến năm 2045 - 2050, dự kiến tuổi thọ trung bình ở các nước phát triển là 83 và các nước đang phát triển là 74 (2). Năm 1950, thế giới có 205 triệu người từ 60 tuổi trở lên. Đến năm 2020, số NCT từ 65 tuổi trở lên tăng lên đến khoảng 727 triệu người, chiếm 9,3% tổng số dân số. Dự tính sẽ đã 1 tỷ người trong vòng gần 10 năm nữa và đến năm 2050 sẽ đạt 1,5 tỷ người, chiếm 16% tổng số dân số (3). Có sự khác biệt lớn về người cao tuổi giữa các quốc gia và khu vực. Ví dụ, năm 2012, Châu Phi có 6% dân số tuổi là NCT, trong khi ở Châu Mỹ La tinh và vùng biển Caribe là 10%, ở Châu Á là 11%, Châu Đại dương là 15%, Nam Mỹ là 19% và Châu Âu là 22%. Đến năm 2050, dự báo số người cao tuổi ở Châu Phi chiếm 10% tổng dân số, so với 24% ở Châu Á, 24% ở Châu Đại dương, 25% ở Châu Mỹ La Tinh và vùng biển Caribe, 27% ở Nam Mỹ và 34% ở Châu Âu (3).
  15. 15 Phụ nữ chiếm đa số dân số cao tuổi trên thế giới, cứ 100 phụ nữ từ 60 tuổi trở lên thì chỉ có 84 nam giới (3), tuổi càng cao thì phụ nữ chiếm đa số (3). Mối quan hệ về giới tác động tới toàn bộ quá trình sống, ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận các nguồn lực và cơ hội một cách liên tục cũng như tích lũy. Già hóa dân số cũng tạo ra những thách thức về mặt kinh tế, văn hóa và xã hội cho các cá nhân, gia đình, xã hội và cộng đồng trên phạm vi toàn cầu. Các nước thu nhập thấp không những phải đối mặt với tuổi thọ trung bình thấp mà còn phải đối mặt với tình trạng sức khỏe kém. Vì vậy, mỗi quốc gia cần có các chính sách phù hợp để giải quyết các thách thức cũng như tận dụng tối đa các cơ hội mà NCT mang lại nhằm xác định liệu xã hội có được hưởng lợi hay không từ già hóa dân số. 5 1.2.3. Thực trạng sức khoẻ người cao tuổi ở Việt Nam Sau hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những tiến bộ ấn tượng trong phát triển kinh tế và xã hội. Tính đến năm 2019, Việt Nam đứng thứ 117/189 quốc gia về chỉ số phát triển con người (16). Từ năm 1989 đến 2021, không những số NCT ở Việt Nam đang tăng lên nhanh với 4,6 triệu (năm 1989), 6,2 triệu (1999) và 8,6 triệu (năm 2011), 12,6 triệu người (năm 2021) mà tỷ lệ NCT cũng tăng lên tương ứng, lần lượt là 7,1%, 8,1%, 10% và 12,6% (17). Việt Nam chính thức bước vào giai đoạn già hóa dân số năm 2011 và trở thành một trong năm quốc gia có tốc độ già hóa nhanh nhất thế giới. Tuổi thọ trung bình của Việt Nam tăng, năm 2020 là 73,6 tuổi, mục tiêu đặt ra tại Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá XII về công tác dân số trong tình hình mới, đến năm 2030 là 75 tuổi. Tuổi thọ trung bình của nam thấp hơn nữ, theo số liệu của Tổng cục Thống kê tuổi thọ của nam và nữ chênh lệch khoảng 5 tuổi (Kết quả Tổng điều tra dân số năm 2019, tuổi thọ bình quân của nữ là 76,3 tuổi, nam là 71,0 tuổi) (18). Tổng hợp báo cáo từ Tổng cục thống kê, Tổng điều tra dân số & nhà ở các năm 1979, 1989, 2009 và Điều tra Biến động dân số - kế hoạch hóa gia đình (DS– KHHGD) năm 2015 và Tổng điều tra Dân số năm 2019 (4,19,20) cho thấy có sự gia cả về số lượng NCT trên 60 tuổi (từ 3,71 triệu người năm 1979 tăng lên 11,5 triệu người năm 2019) và tỷ lệ % số NCT nhóm này trên tổng dân số (từ 6,9% năm 1979
  16. 16 lên 11,9% năm 2019), trong đó, tỷ lệ NCT trên 65 tuổi trên tổng số dân cũng có chiều hướng gia tăng dần qua các năm từ 4,7% năm 1979 lên 7,7% năm 2019 (Bảng 1.1). Bảng 1.. Số lượng và tỷ lệ người cao tuổi ở Việt Nam Năm Tổng dân số NCT 60+ Tỷ lệ 60+ (%) Tỷ lệ 65+ (%) (triệu người) (triệu người) 1979 53,7 3,71 6,9 4,7 1989 64,3 4,64 7,2 4,7 1999 76,3 6,19 8,1 5,8 2009 85,8 7,54 8,7 6,4 2010 86,8 8,15 9,4 6,8 2015 91,5 10,3 11,3 7,6 2019 96,2 11,5 11,9 7,7 Nguồn: Tổng cục thống kê, Tổng điều tra dân số & nhà ở 1979, 1989, 2009 và Điều tra Biến động DS–KHHGD 2015 và Tổng điều tra Dân số năm 2019 (4,19,20) Mặc dù tuổi thọ người Việt Nam được nâng lên, nhưng số năm sống khỏe mạnh, không ốm đau bệnh tật rất thấp (khoảng 66 năm), trong khi số năm ốm đau trung bình khoảng 7,3 năm (11% tổng tuổi thọ). Theo báo cáo của Chương trình phát triển của Liên hợp quốc năm 2015, số năm ốm đau của Việt Nam là 11 năm cao hơn nhiều Thái Lan (5 tuổi) và Trung Quốc (7 tuổi) và tương đương với Malaysia và Philippines (16). Tuổi thọ cao thì gánh nặng bệnh tật cũng rất lớn, đặc biệt là đối với NCT càng dễ mắc bệnh, khó hồi phục. Điều này làm cho nhu cầu chăm sóc ý tế tăng cao và tỷ lệ phụ thuộc NCT tăng, gây áp lực lên nhóm dân số lao động, chính phủ và hệ
  17. 17 thống bảo hiểm xã hội. Từ tất cả các thực trạng nêu trên, có thể thấy Việt Nam đang đối diện với “sự già hóa” nhanh chóng. Việt Nam đã trở thành một nước “già trước khi giàu”, trong khi ở những nước phát triển, quá trình già hóa diễn ra chậm, khi đó nền kinh tế đã có nhiều tích lũy. Do vậy, ngay từ bây giờ cần đẩy mạnh các nghiên cứu và có can thiệp cho NCT để làm cơ sở cho việc xây dựng các chính sách nhằm đối phó với già hóa dân số. Đặc biệt, nhằm nâng cao chất lượng sống của NCT cũng như ổn định nền kinh tế trong trung và dài hạn. 6 1.3. Công tác Chăm sóc sức khỏe người cao tuổi ở Việt Nam 7 1.3.1. Các vấn đề sức khoẻ của người cao tuổi ở Việt Nam Người cao tuổi Việt Nam vẫn chưa thực sự khỏe mạnh như mong muốn. Điều tra về NCT năm 2011 chỉ ra rằng hơn 55% và trên 10% số người đánh giá sức khỏe bản thân là yếu và rất yếu. Nghiên cứu này cũng cho thấy tỷ lệ NCT gặp ít nhất một loại khó khăn về vận động là gần 72% và gặp ít nhất một trở ngại trong sinh hoạt hàng ngày là 37,6% (5). Tỷ lệ mắc các bệnh mạn tính khá cao và thường mắc nhiều bệnh đồng thời với tỷ lệ trung bình một người mắc gần 2,7 bệnh. Tăng huyết áp là bệnh phổ biến với tỷ lệ mắc lên tới 45,6%, (trong đó những người từ 60 tuổi đến 74 tuổi là 42,0% và những người từ 75 tuổi trở lên là 54,6%), tỷ lệ mắc bệnh mạch vành là gần 10% (6). Những bệnh lý tim mạch này thực sự là những bệnh đe dọa nghiêm trọng đến sức khỏe, tính mạng của người bệnh. Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (vốn có nguyên nhân từ các bệnh về đường hô hấp kéo dài), cũng xuất hiện ở 12,6% NCT và tuổi càng cao thì tỷ lệ này càng lớn, từ 10,8% ở nhóm tuổi từ 60 đến 74, lên tới 17,2% ở nhóm tuổi trên 75 (6). Một số loại bệnh khác thể hiện sự thoái hóa chức năng ở cơ thể người già gây ảnh hưởng đến sức khỏe và chất lượng cuộc sống như bệnh về xương khớp, thị giác, thính giác. Bệnh về xương khớp phổ biến là thoái hóa khớp (33,9%), thấp khớp (9%) và loãng xương (10,4%). Có tới 76,7% NCT có dấu hiệu giảm thị lực, 70,3% ở nhóm tuổi 60 - 74 tăng lên tới 93% ở nhóm tuổi trên 75; gần 58% số người mắc bệnh đục thuỷ tinh thể và đặc biệt cao ở người trên 75 tuổi (79,6%) (6). Tương tự, tỷ lệ người bị giảm thính lực là trên 40% (6). Về tinh thần, những thay đổi về xã hội, tâm lý, sức khỏe suy giảm, bệnh tật và
  18. 18 những lo toan trong cuộc sống, sự cô đơn khi mất đi người bạn đời, người thân làm cho NCT bị sự suy sụp về tinh thần và mắc các bệnh lý tâm thần trầm trọng. Theo nghiên cứu tại một số địa phương, tỷ lệ NCT gặp phải tình trạng khó ngủ là 67%, lo lắng về cuộc sống là 51%, buồn rầu là 40%, chán nản là 42% và mệt mỏi thường xuyên là 34% . Tỷ lệ NCT sa sút trí tuệ là 4,9% (trong đó, người trên 75 tuổi có tỷ lệ là 9,8%, cao hơn hẳn so với tỷ lệ 3,9 % ở nhóm người từ 60 đến 74 tuổi) (21). 8 1.3.2. Khám sức khỏe và chữa bệnh Khi dân số già đi, một trong những thách thức lớn của chính sách chăm sóc NCT là cân đối giữa tự chăm sóc (NCT tự chăm sóc mình), chăm sóc không chính thức (người nhà và bạn bè) và chăm sóc chính thức (các dịch vụ y tế và xã hội). Chăm sóc chính thức bao gồm cả CSSK ban đầu, chủ yếu tại cộng đồng và chăm sóc tại các cơ sở y tế hoặc nhà dưỡng lão. Nhu cầu chăm sóc y tế và xã hội của NCT Việt Nam là rất lớn trong khi những điều kiện tự thân của NCT Việt Nam có những đặc trưng rất hạn chế. Tỷ lệ NCT sống độc thân tương đối cao ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam (14,2%) dẫn đến hạn chế cả về hỗ trợ kinh tế, tinh thần từ phía gia đình, người thân và không có người trợ giúp trong sinh hoạt hàng ngày. Về tình trạng kinh tế, thu nhập của NCT còn rất thấp, hầu như không có nguồn tiết kiệm tích lũy từ lúc còn trẻ khỏe, đặc biệt ở vùng nông thôn và miền núi. Theo điều tra tại Hà Nội, Thừa Thiên Huế và Bà Rịa - Vũng Tàu, trong nhiều lý do khiến NCT không được khám chữa bệnh, lý do chính là không đủ khả năng kinh tế chi trả (45,3%), điều kiện đi lại khó khăn 17,3%, điều kiện y tế địa phương không đáp ứng được 16,5%, các lý do khác 20,9%. Bệnh tật ảnh hưởng tới sinh hoạt hàng ngày chiếm một tỷ lệ rất cao, từ 53,5% đến 73,5%. Tỷ lệ này khác nhau giữa các lứa tuổi, giữa nam và nữ, giữa các nghiên cứu. Số ngày ốm trung bình của một cụ già trong tháng là 2,04 ngày (6) Theo một khảo sát, có tới 95% NCT có nhu cầu chữa bệnh, nhưng chưa hoàn toàn được đáp ứng (22). Điều tra năm 2009 tại Hà Nội, Thừa Thiên - Huế và Bà Rịa - Vũng Tàu chỉ có 75,8% NCT cho rằng, họ cần được khám chữa bệnh tốt hơn so với hiện tại (6). Theo Báo cáo chung tổng quan ngành y tế năm 2016, tỷ lệ
  19. 19 NCT bị đau ốm trong vòng 12 tháng qua cần nhưng không được điều trị là gần 54,9% trong đó nguyên nhân không đủ tiền để chi trả là 52,% và nguyên nhân không có người đưa đi bệnh viện là 11,5% (23). 9 1.3.3. Hệ thống Chăm sóc sức khoẻ cho người cao tuổi ở Việt Nam Mạng lưới y tế của Việt Nam từ trung ương đến địa phương đã và đang tiếp tục được củng cố và phát triển. Việc CSSK ban đầu và khám, điều trị cho NCT hiện nay chủ yếu dựa vào hệ thống y tế công với bốn bệnh viện lão khoa với khoảng 2.000 giường bệnh. Bệnh viện Lão khoa Trung ương chuyên sâu về khám, chữa bệnh lão khoa, chỉ đạo chuyên môn kĩ thuật trong CSSK NCT trên phạm vi toàn quốc. Tuyến tỉnh, các bệnh viện thành lập khoa lão hoặc dành riêng một số giường ưu tiên cho NCT. Cả nước có hơn 400 trung tâm bảo trợ xã hội cho đối tượng chính sách, NCT cô đơn không nơi nương tựa. Nhiều bệnh viện tuyến Trung ương, tỉnh phối hợp với các cơ sở y tế tại địa phương tổ chức CSSK, khám chữa bệnh và cấp thuốc miễn phí cho NCT nghèo, cô đơn, tàn tật, vùng sâu, vùng xa. Tính đến hết năm 2020, cả nước có 3,1 triệu NCT hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng; 12,1 triệu NCT có thẻ bảo hiểm y tế; 1,8 triệu NCT nhận trợ cấp hàng tháng và hơn 1,4 triệu NCT hưởng trợ cấp người có công với cách mạng (24). Tính đến năm 2019, tất cả các tỉnh, thành phố và các quận, huyện, thị xã đều có Ban chấp hành Hội NCT. Gần 100% xã, phường, thị trấn có Hội NCT cơ sở và các chi hội, tổ hội tại các làng, xóm, khu dân cư, tổ dân phố. Cả nước năm 2019 có 9,83 triệu NCT, trong đó hơn 9,4 triệu hội viên của Hội NCT; 10.966 Hội cơ sở, 98.976 chi hội (25). Nhìn chung, tình hình CSSK cho NCT còn thiếu và yếu. Mạng lưới y tế phục vụ NCT chưa được phát triển; số nhân viên y tế phục vụ tại cộng đồng vừa thiếu về số lượng vừa yếu về nghiệp vụ và kỹ năng trong khi nhu cầu chăm sóc y tế lại rất lớn. Các địa phương đều thiếu bác sĩ, điều dưỡng chuyên ngành về lão khoa, việc chăm sóc người già tại gia đình và cộng đồng chủ yếu dựa vào người nhà và những người chăm sóc không được đào tạo. Nhiều bệnh viện tỉnh chưa có Khoa Lão mà đa phần ghép với các khoa khác. Cả nước mới có 5 cơ sở chuyên chăm sóc y tế lâu dài cho NCT, hơn một
  20. 20 nửa số tỉnh có cơ sở lưu trú cho đối tượng chính sách, NCT neo đơn không nơi nương tựa (Trung tâm Bảo trợ xã hội thuộc Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội). Đào tạo chuyên ngành Lão khoa chỉ có 2 bộ môn Lão khoa, số lượng các hình thức đào tạo chuyên đề, ngắn hạn, các nghiên cứu cũng như các ấn phẩm chuyên ngành hầu như còn rất ít. Chăm sóc NCT là lĩnh vực liên ngành, nhưng hiểu biết của nhân viên y tế về các khía cạnh chính sách, chương trình và sự phối hợp giữa các tổ chức y tế và xã hội là còn hạn chế.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2