intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN:Bảo hiểm xã hội Thanh Hoá

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:68

140
lượt xem
36
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Chính sách bảo hiểm xã hội là một trong những chính sách quan trọng trong hệ thống chính sách an sinh xã hội của các quốc gia trên thế giới. ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm tới lĩnh vực an sinh xã hội nói chung và lĩnh vực bảo hiểm xã hội nói riêng. Các chính sách bảo hiểm xã hội luôn được đổi mới, phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, góp phần đảm bảo đời sống của người lao động, ổn định xã hội, thúc đẩy...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN:Bảo hiểm xã hội Thanh Hoá

  1. LUẬN VĂN: Bảo hiểm xã hội Thanh Hoá
  2. Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Chính sách bảo hiểm xã hội là một trong những chính sách quan trọng trong hệ thống chính sách an sinh xã hội của các quốc gia trên thế giới. ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm tới lĩnh vực an sinh xã hội nói chung và lĩnh vực bảo hiểm xã hội nói riêng. Các chính sách bảo hiểm xã hội luôn được đổi mới, phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, góp phần đảm bảo đời sống của người lao động, ổn định xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển. Bảo hiểm xã hội Thanh Hoá là một cơ quan thuộc hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Bảo hiểm xã hội Thanh Hoá là cơ quan trực tiếp tổ chức thực hiện chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội đối với người lao động trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công cơ bản, quản lý và phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội ở Thanh Hoá còn có những vấn đề cần quan tâm. Bảo hiểm xã hội cấp huyện được phân cấp quản lý mạnh song họ lại không được cung cấp đầy đủ các điều kiện để thực hiện sự phân cấp đó. Chẳng hạn, biên chế cán bộ, công chức bảo hiểm xã hội còn thiếu, cơ sở vật chất, điều kiện kỹ thuật còn khó kh ăn.... 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đã có nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước liên quan đến đề tài. Có thể gom các công trình đó theo hai nhóm sau: Nhóm đề tài nghiên cứu ở tầm Quốc gia: - Luận án tiến sĩ của tác giả Đỗ Văn Sinh: "Hoàn thiện quản lý quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam" năm 2005. - Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Kim Thái: "Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động bảo hiểm xã hội Việt Nam hiện nay" năm 2005. - Luận văn thạc sĩ của tác giả Trần Quốc Tuý: "Hoàn thiện quản lý thu bảo hiểm xã hội khu vực ngoài quốc doanh ở Việt Nam" năm 2006. Nhóm đề tài nghiên cứu trong phạm vi tỉnh Thanh Hoá
  3. - Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Văn Tám: "Hoàn thiện quản lý bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá" năm 2004 - Đề tài cấp ngành của tác giả Đỗ Quang Hiệu: "Thực trạng và giải pháp quản lý chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa" năm 1999 và "Nghiên cứu mô hình thu chi bảo hiểm xã hội cấp xã, phường và vùng sâu, vùng xa trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá" năm 2000. Những công trình nghiên cứu trên đây đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo hiểm xã hội, nghiên cứu nhiều khía cạnh khác nhau về bảo hiểm xã hội cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Luận án tiến sĩ của tác giả Đỗ Văn Sinh nghiên cứu về vấn đề quản lý quỹ bảo hiểm xã hội. Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Kim Thái nghiên cứu về vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động bảo hiểm xã hội. Luận văn thạc sĩ của tác giả Trần Quốc Tuý nghiên cứu về lĩnh vực quản lý nguồn thu bảo hiểm xã hội khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam. Hai đề tài cấp ngành của tác giả Đỗ Quang Hiệu nghiên cứu ở góc độ quản lý chi trả các chế độ dài hạn và nghiên cứu mô hình thu, chi bảo hiểm xã hội cấp xã, phường và vùng sâu, vùng xa trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá. Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Văn Tám nghiên cứu về vấn đề quản lý bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá giai đoạn 1995-2003. Tuy nhiên, những nghiên cứu này được thực hiện trong điều kiện các chế độ chính sách bảo hiểm xã hội được xây dựng và thực thi theo Điều lệ do Chính phủ ban hành, chưa được bổ sung, sửa đổi theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội hiện hành. Nhiều vấn đề cấp bách đặt ra cho công tác quản lý thu chi BHXH trong thời kỳ mới cũng chưa được giải quyết trong các công trình nói trên. Mặt khác, phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội là vấn đề mới mẻ, liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cấp quản lý trong hệ thống Bảo hiểm xã hội. Song, cho đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu về vấn đề này. Mặc dù vậy, các công trình đó vẫn là những tài liệu tham khảo rất có giá trị trong nghiên cứu đề tài này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn Mục đích của luận văn là góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận của quản lý và phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội. Đánh giá thực trạng vấn đề này tại tỉnh Thanh
  4. Hoá. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp hoàn thiện phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá. Để thực hiện mục đích trên luận văn có nhiệm vụ sau: - Hệ thống hoá và làm rõ thêm cơ sở lý luận về quản lý và phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội. - Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý và phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội của tỉnh Thanh Hóa. - Đề xuất giải pháp hoàn thiện phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội ở tỉnh Thanh Hóa nhằm đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Luận văn nghiên cứu hoạt động phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội. - Phạm vi nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội ở tỉnh Thanh Hoá. Về thời gian, luận v ăn nghiên cứu phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội ở Thanh Hoá trong thời kỳ từ năm 1995 đến nay, trong đó, trọng tâm nghiên cứu trong giai đoạn 2003 - 2007. Các số liệu cập nhật đến năm 2007. - Ngoài các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử là những phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu khoa học nói chung, luận văn còn chú trọng sử dụng các phương pháp nghiên cứu lý thuyết và tổng kết thực tiễn; phương pháp phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp; phương pháp hệ thống, so sánh, điều tra, thống kê trên cơ sở các số liệu tổng hợp, báo cáo, điều tra về tình hình kinh tế xã hội và hoạt động bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. 6. Những đóng góp mới của luận văn - Luận văn góp phần hệ thống hoá và làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý và phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội. - Làm rõ nội dung phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội ở cấp tỉnh. - Đánh giá thực trạng phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội ở tỉnh Thanh Hoá, chỉ rõ các kết quả, hạn chế và những nguyên nhân chủ yếu của thực trạng đó.
  5. - Đề xuất các giải pháp hoàn thiện phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội trong thời gian tới, trong đó, có đề xuất thực hiện phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội tới cấp xã, phường, thị trấn ở tỉnh Thanh Hoá. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn gồm 95 trang. Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục. Luận văn được kết cấu thành 03 chương, 07 tiết.
  6. Chương 1 những vấn đề cơ bản về quản lý và phân cấp quản lý bảo hiểm xã hội 1.1. Quản lý bảo hiểm xã hội 1.1.1. Một số khái niệm * Khái niệm quản lý bảo hiểm xã hội. Trước hết nói về khái niệm bảo hiểm xã hội. Luật Bảo hiểm xã hội được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI thông qua ngày 29/6/2006 đã xác định: "Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH" [33, tr.10]. Như vậy, BHXH là một hình thức bảo vệ người lao động trên cơ sở sử dụng nguồn tiền đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và tài trợ của Nhà nước để trợ cấp vật chất cho người đóng BHXH, trong trường hợp họ bị giảm hoặc mất thu nhập, hoặc chết theo quy định của pháp luật. Do vậy, bảo hiểm xã hội có những đặc trưng cơ bản, đó là: Thứ nhất, BHXH là sự bảo hiểm cho người lao động trong và sau quá trình lao động. Thứ hai, các rủi ro của người lao động liên quan đến thu nhập của họ như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất việc làm, già yếu, chết. Do những rủi ro này mà người lao động bị giảm hoặc mất nguồn thu nhập. Họ cần phải có nguồn thu nhập khác bù vào để ổn định cuộc sống. Đây là đặc trưng cơ bản nhất của BHXH. Thứ ba, người lao động muốn được quyền hưởng trợ cấp BHXH phải có nghĩa vụ đóng BHXH. Người sử dụng lao động cũng phải có trách nhiệm đóng BHXH cho người lao động mà họ quản lý, thuê mướn, sử dụng. Sự đóng góp đó gọi là sự đóng góp của các bên tham gia BHXH. Nó hình thành nên một quỹ tài chính gọi là quỹ BHXH. Quỹ này dùng để chi trả các trợ cấp khi có phát sinh các nhu cầu về hưởng chế độ bảo hiểm xã hội.
  7. Thứ tư, các hoạt động về BHXH được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật. Các chế độ BHXH cũng do luật định. Nhà nước bảo trợ các hoạt động của BHXH. BHXH là hình thức bảo hiểm được thực hiện ở tất cả các quốc gia và Nhà n ước ở tất cả các quốc gia đều tham gia quản lý BHXH. Vậy quản lý BHXH là gì? Quản lý BHXH có thể được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Trên cơ sở vận dụng khái niệm quản lý nói chung vào lĩnh vực BHXH, chúng ta có thể xác định khái niệm quản lý BHXH như sau: Quản lý BHXH là sự tác động của cơ quan quản lý tới hoạt động BHXH nhằm thực hiện các mục tiêu xác định trong từng thời kỳ. Cơ quan quản lý (chủ thể quản lý) của quản lý BHXH là cơ quan BHXH Việt Nam từ Trung ương đến địa phương. Theo Nghị định số 19/CP, ngày 16/02/1995 của Chính phủ về việc thành lập BHXH Việt Nam, cơ quan quản lý BHXH ở cấp Trung ương là BHXH Việt Nam. ở địa phương, cơ quan quản lý BHXH có BHXH tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, BHXH huyện quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh. ở cấp xã, phường, thị trấn không có cơ quan quản lý BHXH mà chỉ có Ban đại diện chi trả do cơ quan quản lý BHXH huyện, quận, thị xã, thành phố ký hợp đồng uỷ quyền quản lý kinh phí chi trả các chế độ BHXH cho các đối tượng thụ hưởng các chế độ BHXH trên địa bàn xã, phường, thị trấn. Đối tượng quản lý BHXH là hoạt động BHXH, là các đối tượng tham gia và thụ hưởng các chế độ BHXH. Đó là những người sử dụng lao động và bản thân người lao động. Mục tiêu quản lý BHXH là nhằm bảo vệ người lao động tránh hiểm họa của công việc, góp phần bảo đảm ổn định và phát triển của cả xã hội. Cơ chế quản lý BHXH là các quy định về tổ chức thu, chi BHXH, quy định về kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện chế độ chính sách BHXH. * Phân biệt một số khái niệm. Quản lý nhà nước về BHXH là sự tác động của cơ quan Nhà nước tới lĩnh vực BHXH nhằm thực hiện các mục tiêu mà Nhà nước đặt ra trong từng thời kỳ nhất định. Quản lý BHXH và quản lý nhà nước về BHXH được phân biệt ở năm điểm sau:
  8. Thứ nhất, khác với chủ thể quản lý BHXH, chủ thể quản lý nhà nước về BHXH gồm rất nhiều cơ quan như Quốc hội, Chính phủ, Bộ Lao động TB&XH, các bộ và cơ quan ngang bộ liên quan đến lĩnh vực BHXH, UBND cấp tỉnh, huyện. Chủ thể quản lý BHXH là cơ quan BHXH. ở Trung ương, BHXH Việt Nam đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ; sự quản lý nhà nước của Bộ Lao động TB&XH và các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan, sự giám sát của tổ chức công đoàn. ở địa phương, cơ quan quản lý BHXH chịu sự chỉ đạo trực tiếp theo ngành dọc của BHXH Việt Nam và sự quản lý nhà nước của UBND các cấp (tỉnh, huyện). Thứ hai, đối tượng quản lý nhà nước về BHXH là lĩnh vực BHXH, còn đối tượng quản lý BHXH là hoạt động BHXH, là những người tham gia và thụ hưởng chế độ, chính sách BHXH. Như vậy, có thể thấy rằng đối tượng quản lý nhà nước về BHXH có phạm vi rộng hơn nhiều so với đối tượng quản lý BHXH. Đối tượng quản lý BHXH và cơ quan BHXH cũng thuộc đối tượng quản lý nhà nước về BHXH. Thứ ba, mục tiêu quản lý nhà nước về BHXH là tạo dựng một cơ sở pháp lý vững chắc, tạo lập sự công bằng, bình đẳng để mọi người lao động trong các thành phần kinh tế thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia quan hệ BHXH, thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, an toàn xã hội và ổn định chính trị. Mục tiêu quản lý BHXH là xây dựng và hình thành nguồn quỹ BHXH ổn định, vững chắc trên cơ sở đóng góp của các bên tham gia BHXH, đầu tư tăng trưởng phát triển quỹ BHXH; chi trả kịp thời trợ cấp BHXH cho các đối tượng thụ hưởng BHXH và phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Thứ tư, cơ chế quản lý nhà nước về BHXH gồm các luật liên quan tới BHXH, chiến lược, kế hoạch, chế độ chính sách BHXH. Cơ chế quản lý BHXH là các quy định về tổ chức thu, chi BHXH, quy định về kiểm tra, kiểm soát việc thu, chi BHXH. Thứ năm, nội dung quản lý nhà nước về BHXH gồm bảy nội dung chính: i) Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội; ii) Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội; iii) Tuyên truyền, phổ biến chế độ, chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội;
  9. iv) Thực hiện công tác thống kê, thông tin về bảo hiểm xã hội; v) Tổ chức bộ máy thực hiện bảo hiểm xã hội; đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực làm công tác bảo hiểm xã hội; vi) Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo hiểm xã hội; giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội; vii) Hợp tác quốc tế về bảo hiểm xã hội [33, tr.13]. ở nước ta, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về BHXH. Bộ Lao động TB&XH chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về BHXH. Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện quản lý nhà nước về BHXH. UBND các cấp thực hiện quản lý nhà nước về BHXH trong phạm vi địa phương theo phân cấp của Chính phủ. Nội dung quản lý BHXH gồm: Quy định về tổ chức thu, chi BHXH; thực hiện việc tổ chức triển khai thu, chi BHXH; tổ chức kiểm tra, giám sát thu, chi BHXH; tuyên truyền giải thích chế độ, chính sách BHXH....Nói cách khác, quản lý BHXH có nội dung chủ yếu là quản lý thu, chi BHXH. Như vậy, khái niệm quản lý nhà nước về BHXH là một khái niệm rất rộng, bao trùm lĩnh vực BHXH của một quốc gia. Trong khi đó, khái niệm quản lý BHXH có phạm vi hẹp hơn, chỉ giới hạn trong hoạt động thu, chi BHXH đối với các đối tượng tham gia và thụ hưởng chế độ chính sách BHXH. Cùng với việc phân biệt quản lý BHXH và quản lý nhà nước về BHXH, chúng ta cần phân biệt khái niệm chính sách BHXH và chế độ BHXH. "Chính sách BHXH là những quy định chung của Nhà nước gồm những chủ trương, những định hướng lớn về các vấn đề cơ bản của BHXH, như mục tiêu, đối tượng, phạm vi và chế độ trợ cấp, các nguồn đóng góp, cách thức tổ chức thực hiện các chế độ BHXH" [31, tr.44]. Chế độ BHXH là những quy định cụ thể của pháp luật, về trách nhiệm và quyền lợi của người tham gia BHXH, tuỳ theo tính chất, ý nghĩa của chế độ bảo hiểm cụ thể, hiện áp dụng các chế độ bảo hiểm sau: chế độ ốm đau; chế độ trợ
  10. cấp thai sản; chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; chế độ hưu trí; chế độ tử tuất. Các chế độ trợ cấp nằm trong hệ thống pháp luật BHXH [15, tr 45]. Ngoài các chế độ trên, hiện nay ở Việt Nam đang thực hiện một loại chế độ trợ cấp BHXH gần giống như dạng trợ cấp tàn tật theo quy định tại Công ước 102 của Tổ chức Lao động Quốc tế. Đó là chế độ trợ cấp mất sức lao động theo Nghị định số 236/HĐBT ngày 18/9/1985 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ). 1.1.2. Nội dung quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội 1.1.2.1. Quy định về thu, chi bảo hiểm xã hội * Quy định về thu bảo hiểm xã hội Các đối tượng phải tham gia đóng BHXH bắt buộc bao gồm cả người sử dụng lao động và bản thân người lao động. Người lao động tham gia BHXH bắt buộc là công dân Việt Nam, bao gồm: người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên; cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức; công nhân quốc phòng, công nhân công an làm việc trong các doanh nghiệp thuộc lực lượng vũ trang; sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân đội nhân dân, công an nhân dân; hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân dân phục vụ có thời hạn; người lao động làm việc có thời hạn ở nước ngoài mà trước đó đã đóng BHXH bắt buộc; phu nhân, phu quân trong thời gian hưởng chế độ phu nhân, phu quân tại các c ơ quan Việt Nam ở nước ngoài mà trước đó đã tham gia BHXH bắt buộc; người lao động là xã viên, kể cả cán bộ quản lý làm việc và hưởng tiền công theo hợp đồng lao động từ đủ ba tháng trở lên trong hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành lập, hoạt động theo Luật Hợp tác xã. Người sử dụng lao động tham gia BHXH bắt buộc bao gồm: cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, cơ sở ngoài công lập hoạt động trong các lĩnh vực giáo dục
  11. đào tạo, văn hoá thể dục thể thao, khoa học công nghệ, môi trường, xã hội, dân số gia đình, bảo vệ chăm sóc trẻ em và các đơn vị sự nghiệp khác, đơn vị vũ trang nhân dân, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác; cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam có sử dụng lao động là người Việt Nam; doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng và trả công cho người lao động. Việc quản lý đối tượng tham gia BHXH được thực hiện thông qua danh sách đăng ký đóng BHXH của các đơn vị sử dụng lao động. Người lao động đã đóng BHXH sẽ được cơ quan BHXH ghi nhận vào sổ BHXH để quản lý theo dõi diễn biến quá trình đóng BHXH và xét duyệt, giải quyết các chế độ BHXH cho người lao động khi có yêu cầu. Mức đóng BHXH hàng tháng đối với người sử dụng lao động bằng 15% tổng quỹ tiền lương tháng của những người lao động trong đơn vị tham gia BHXH, trong đó: đóng cho cơ quan BHXH là 13%, được giữ lại đơn vị 2% để chi trả hai chế độ ốm đau, thai sản cho người lao động trong đơn vị. Người lao động đóng 5% tiền lương, tiền công tháng. Riêng đối với hạ sỹ quan, binh sỹ quân đội nhân nhân, hạ sỹ quan, chiến sỹ công an nhân nhân phục vụ có thời hạn thì mức đóng BHXH bằng 17% mức tiền lương tối thiểu do người sử dụng lao động đóng. Mức đóng BHXH hàng tháng bằng 16% mức tiền lương, tiền công tháng đối với người lao động là phu nhân, phu quân hưởng lương từ NSNN. Trong đó, người lao động đóng 5%, người sử dụng lao động đóng 11%. Trường hợp phu quân, phu nhân không phải là cán bộ công chức Nhà nước nhưng đã có quá trình tham gia BHXH bắt buộc thì hàng tháng họ đóng 16% mức tiền lương đã đóng BHXH trước khi đi nước ngoài. Tiền đóng BHXH của người lao động và quỹ lương được dùng để đóng BHXH của cơ quan, đơn vị được xác định trên cơ sở mức lương của từng người lao động ở từng lĩnh vực công tác khác nhau. Tiền lương tháng của người lao động và quỹ tiền lương của các đơn vị sử dụng lao động để tính đóng BHXH tại các cơ quan hành chính sự nghiệp, lực lượng vũ trang, tổ chức Đảng, đoàn thể, hội quần chúng là tiền lương theo ngạch, bậc được xác định theo các quy định tại Nghị quyết số 730/2004/NQ-UBTVQH11 ngày 30/9/2004 của Uỷ ban
  12. Thường vụ Quốc hội khoá XI; Quyết định số 128-QĐ/TW ngày 14/12/2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng và Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ. Tiền lương tháng của người lao động và quỹ lương của đơn vị sử dụng lao động để tính đóng BHXH tại các công ty Nhà nước, được xác định theo thang bảng lương của Nhà nước quy định tại Nghị định số 205/2004/NĐ-CP và Nghị định số 207/2004/NĐ-CP, ngày 14/12/2004 của Chính phủ. Tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH của người lao động làm việc trong các hợp tác xã là mức tiền lương, tiền công được Đại hội xã viên xác định thông qua và phải đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về lao động. Tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH của người lao động thuộc các hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác và cá nhân do người sử dụng lao động quản lý nhưng phải đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về lao động. Tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH của người quản lý doanh nghiệp là chủ sở hữu, giám đốc các doanh nghiệp tư nhân, chủ tịch hội đồng thành viên, chủ tịch công ty, thành viên hội đồng quản trị, tổng giám đốc, phó tổng giám đốc, giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng, kiểm soát viên là mức tiền lương do điều lệ công ty quy định nhưng phải đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về lao động. Đối với nguồn thu BHXH, Nhà nước quản lý tập trung thống nhất theo chế độ tài chính của Nhà nước. Tất cả mọi đóng góp của từng cá nhân, từng cơ quan, đơn vị đều phải chuyển hết về BHXH Việt Nam để hình thành quỹ BHXH tập trung. Để thực hiện thu nộp BHXH, BHXH tỉnh, huyện có nhiệm vụ hướng dẫn các đơn vị sử dụng lao động lập danh sách số lao động đăng ký đóng BHXH, đăng ký quỹ lương và số tiền đóng BHXH. Định kỳ hàng tháng có trách nhiệm kiểm tra, đối chiếu, xác nhận việc đóng BHXH của từng lao động trong đơn vị và tiến hành ghi sổ BHXH. Thực hiện việc tính lãi nộp chậm nếu đơn vị không đóng BHXH đúng thời gian. Để thu nhận và quản lý số tiền thu nộp BHXH của các cơ quan, đơn vị, cơ quan BHXH tỉnh, huyện được mở hai tài khoản. Một là, tài khoản chuyên thu tại hệ thống Kho bạc Nhà nước tỉnh, huyện để giao dịch tiền thu nộp BHXH của các đơn vị hành chính sự
  13. nghiệp và một số đơn vị doanh nghiệp có mở tài khoản thanh toán tại Kho bạc tỉnh, huyện. Hai là, tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nông nghiệp &PTNT tỉnh, huyện để thanh toán giao dịch tiền thu BHXH của các doanh nghiệp và các đơn vị khác. Vào các ngày 10, 25 hàng tháng và 31/12 hàng năm, BHXH cấp huyện phải chuyển hết số tiền có trong hai tài khoản chuyên thu về tài khoản chuyên thu của BHXH tỉnh. Định kỳ hàng tháng, vào các ngày 10, 20 và ngày cuối tháng, BHXH tỉnh phải chuyển hết số tiền có trong hai tài khoản chuyên thu về tài khoản chuyên thu của BHXH Việt Nam, không được sử dụng tiền thu để chi cho bất cứ công việc gì. Do tính chất đặc thù trong tổ chức hoạt động, các cơ quan thuộc lực lượng vũ trang đóng trên địa bàn tỉnh, huyện như Quân đội (Ban Chỉ huy Quân sự), Công an sẽ do Bộ Quốc phòng và Bộ Công an thực hiện việc thu nộp BHXH tập trung và chuyển cho cơ quan BHXH Việt Nam. Các đơn vị này có trách nhiệm ghi sổ BHXH về thời gian, mức đóng góp để làm căn cứ giải quyết các chế độ BHXH cho người lao động. * Quy định về chi bảo hiểm xã hội Đối tượng chi BHXH có thể là chính bản thân người lao động, cũng có thể là những thân nhân ruột thịt của người lao động (bố, mẹ, vợ chồng, con) trực tiếp phải nuôi dưỡng. Đối tượng có thể được hưởng trợ cấp một lần hoặc trợ cấp hàng tháng nhiều hay ít, tuỳ thuộc mức độ đóng góp (thời gian đóng góp và tiền lương làm căn cứ đóng góp), các điều kiện lao động và biến cố rủi ro mà người lao động mắc phải. Về kinh phí chi trả các chế độ BHXH, các đối tượng đã hưởng BHXH từ 01/01/1995 trở về trước được chi trả chế độ từ nguồn ngân sách nhà nước. Các đối tượng thụ hưởng BHXH được xét duyệt sau ngày 01/01/1995 được chi trả chế độ từ nguồn quỹ BHXH. Cơ quan BHXH quản lý kinh phí và thực hiện chi trả các chế độ BHXH hàng tháng cho các đối tượng hưởng chế độ hưu trí, trợ cấp mất sức lao động, trợ cấp công nhân cao su, trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, trợ cấp phục vụ người bị tai nạn lao động, trợ cấp tuất, trợ cấp theo Quyết định 91/2000/QĐ-TTg, ngày 04/8/2000 của Thủ tướng Chính phủ; thực hiện trả các chế độ một lần, bao gồm: trợ cấp tuất một lần trong các trường hợp khi người hưởng lương hưu, hưởng trợ cấp mất sức lao động, người hưởng trợ cấp hàng tháng đã nghỉ việc chết; trợ cấp mai táng khi người hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động, trợ cấp theo Quyết định
  14. 91/2000/QĐ-TTg, công nhân cao su, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp hàng tháng chết; thực hiện quản lý kinh phí chi trả các chế độ ốm đau, thai sản, phục hồi sức khoẻ sau khi ốm đau cho người lao động đang làm việc tại các đơn vị sử dụng lao động có tham gia BHXH. Để quản lý, điều hành và kiểm soát chặt chẽ nguồn kinh phí, BHXH tỉnh được mở tài khoản chuyên chi tại Ngân hàng Nông nghiệp &PTNT tỉnh, tiếp nhận kinh phí do BHXH Việt Nam cấp để chi trả cho đối tượng do BHXH tỉnh trực tiếp quản lý và cấp cho BHXH cấp huyện chi trả cho các đối tượng hưởng BHXH do BHXH cấp huyện trực tiếp quản lý. BHXH cấp huyện cũng được mở tài khoản chuyên chi tại Ngân hàng Nông nghiệp &PTNT cấp huyện để tiếp nhận kinh phí do BHXH tỉnh chuyển về và để chi trả cho đối tượng mà mình quản lý. Khoản kinh phí trong tài khoản trên không được sử dụng vào bất cứ mục đích nào khác, ngoài việc chi trả các chế độ BHXH. Những quy định này giúp các đơn vị dự toán cấp trên kiểm tra việc sử dụng nguồn kinh phí trong tài khoản của đơn vị cấp dưới thuận lợi hơn. Để đảm bảo việc sử dụng hiệu quả nguồn quỹ BHXH, chi trả đầy đủ, kịp thời cho các đối tượng thụ hưởng chế độ BHXH, đồng thời không gây tồn đọng quỹ quá lớn tại các đơn vị dự toán cấp 2 (BHXH tỉnh) và cấp 3 (BHXH cấp huyện), việc dự toán phải được thực hiện tốt, sát với nhu cầu chi cho đối tượng ở địa phương. Về phương thức chi trả các chế độ BHXH, các đơn vị dự toán cấp 2 và cấp 3 lựa chọn các phương thức chi trả cho phù hợp với đặc điểm cụ thể của từng địa phương nhằm đảm bảo được nguyên tắc chi trả đúng chế độ, đầy đủ, kịp thời, chính xác và an toàn. Hiện nay, có hai phương thức chi trả đang được áp dụng là chi trả trực tiếp và chi trả gián tiếp. Phương thức chi trả trực tiếp là việc cán bộ, công chức, viên chức của hệ thống BHXH chi trả trực tiếp cho người được hưởng các chế độ BHXH. Phương thức chi trả gián tiếp là việc cơ quan BHXH các cấp uỷ quyền cho các đơn vị sử dụng lao động, các Ban đại diện chi trả phường, xã, thị trấn (sau đây gọi chung là Ban đại diện chi trả xã, phường) hoặc hệ thống Ngân hàng cung ứng dịch vụ tài khoản thẻ (ATM) chi trả cho người được hưởng các chế độ BHXH.
  15. 1.1.2.2. Tổ chức thực hiện thu, chi bảo hiểm xã hội Theo quy định hiện hành, Luật Bảo hiểm xã hội được Quốc hội thông qua quy định về chế độ, chính sách BHXH; quyền và trách nhiệm của người lao động, của cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia BHXH; tổ chức BHXH; quỹ BHXH; thủ tục thực hiện BHXH và quản lý nhà nước về BHXH. BHXH Việt Nam ban hành các mẫu hồ sơ hưởng BHXH, giấy chứng nhận hưu trí, giấy chứng nhận trợ cấp BHXH hàng tháng; ban hành quy định về hồ sơ và quy trình giải quyết các chế độ BHXH; ban hành các quy định quản lý nội bộ; đảm bảo các điều kiện vật chất thiết yếu phục vụ cho hoạt động bộ máy, đồng thời hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra BHXH cấp dưới tổ chức thực hiện. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao, BHXH tỉnh có tránh nhiệm tổ chức hướng dẫn các đơn vị sử dụng lao động tổ chức thực hiện thu, chi BHXH theo phân cấp quản lý; chỉ đạo, hướng dẫn BHXH cấp huyện tổ chức thu BHXH và thực hiện các chế độ BHXH cho người lao động trên địa bàn, thông qua việc ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể; ban hành các quy định phân cấp quản lý cho các cơ quan đơn vị trực thuộc; quy định cụ thể, giao trách nhiệm rõ ràng trong việc quản lý thu, chi BHXH cho các đơn vị trực thuộc; tích cực cải cách thủ tục hành chính; ứng dụng công nghệ tin học trong các hoạt động nghiệp vụ; phối hợp chặt chẽ với UBND các cấp, các sở, ngành, đơn vị liên quan để chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện chế độ chính sách BHXH trên địa bàn tỉnh. BHXH cấp huyện căn cứ vào chức năng nhiệm vụ và hướng dẫn của BHXH tỉnh, hướng dẫn các đơn vị sử dụng lao động thu nộp BHXH và thực hiện các chế độ chính sách cho người lao động trên địa bàn; phối hợp chặt chẽ với UBND xã, phường để thu BHXH của cán bộ chuyên trách và công chức cấp xã; chỉ đạo, kiểm tra các Ban đại diện chi trả xã, phường trong việc cấp phát lương hưu và trợ cấp BHXH cho các đối tượng trên địa bàn xã, phường. Để đảm bảo chế độ, chính sách BHXH được thực hiện theo quy định của pháp luật, BHXH Việt Nam, BHXH tỉnh, huyện có trách nhiệm tuyên truyền chế độ, chính sách BHXH nhằm nâng cao nhận thức của chủ sử dụng lao động và người lao động về quyền lợi và trách nhiệm của mình về BHXH.
  16. Hiện nay, Báo BHXH, Tạp chí BHXH là cơ quan ngôn luận của BHXH Việt Nam, là phương tiện thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền về chính sách BHXH, đưa chính sách BHXH của Đảng, Nhà nước đi vào thực tế cuộc sống. 1.1.2.3. Kiểm tra, kiểm soát thu, chi bảo hiểm xã hội Kiểm tra, kiểm soát thu, chi BHXH là một trong những nội dung quan trọng của quản lý BHXH. Kiểm tra, kiểm soát trong quản lý BHXH gồm: thanh tra, kiểm tra của các cơ quan chức năng như Thanh tra Nhà nước, Kiểm toán Nhà nước, Thanh tra lao động, kiểm tra của tổ chức Đảng, tổ chức công đoàn, hoạt động kiểm tra giám sát của các Đoàn Đại biểu quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, kiểm tra của cơ quan BHXH và kiểm tra liên ngành. Đối tượng kiểm tra, kiểm soát bao gồm việc trích nộp BHXH của các đơn vị sử dụng lao động, hồ sơ tài liệu liên quan đến quá trình đóng và thụ hưởng BHXH của người lao động; việc chi trả các chế độ BHXH tại các xã, phường của các Ban đại diện chi trả các xã, phường; việc quản lý và các hoạt động nghiệp vụ trong nội bộ ngành BHXH (BHXH cấp trên kiểm tra BHXH cấp dưới). Hàng năm, BHXH tỉnh thực hiện các cuộc kiểm tra tại BHXH cấp huyện và các đơn vị sử dụng lao động, các Ban đại diện chi trả xã, phường trong việc thực hiện các quyền và trách nhiệm của cơ quan BHXH cấp dưới. Quyền và trách nhiệm của đơn vị sử dụng lao động; quyền và trách nhiệm của người lao động trong quá trình tham gia và hưởng BHXH theo quy định của pháp luật. Quyền của người lao động khi tham gia BHXH là được cấp sổ BHXH; được nhận lương hưu và trợ cấp BHXH đầy đủ, kịp thời khi có yêu cầu; được yêu cầu người sử dụng lao động và tổ chức BHXH cung cấp thông tin về BHXH theo quy định của Luật BHXH; thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo về BHXH.... Đồng thời, người lao động phải thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình khi tham gia BHXH: đóng BHXH đầy đủ, kịp thời; thực hiện nghiêm túc quy định về việc lập hồ sơ BHXH và bảo quản sổ BHXH theo đúng quy định...
  17. Quyền của người sử dụng lao động là từ chối thực hiện những yêu cầu không đúng quy định của pháp luật về BHXH và có quyền khiếu nại, tố cáo về BHXH... Mặt khác, đơn vị sử dụng lao động phải thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình là đóng BHXH cho người lao động theo quy định của Luật BHXH; bảo quản sổ BHXH của người lao động trong thời gian người lao động làm việc; lập hồ sơ để người lao động được cấp sổ, đóng và hưởng BHXH; trả trợ cấp BHXH cho người lao động; cung cấp tài liệu, thông tin liên quan theo yêu cầu của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền...[ 33, tr.17-18]. Việc xử lý vi phạm pháp luật về BHXH trước đây được thực hiện căn cứ vào Nghị định 113/2004/NĐ-CP và hiện nay thực hiện theo Nghị định 135/2007/NĐ-CP, ngày16/8/2007 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH. Các hành vi vi phạm pháp luật về BHXH của chủ sử dụng lao động được quy định trong Nghị định này đó là hành vi không đóng BHXH cho toàn bộ số người lao động thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc; đóng BHXH không đủ số người thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc; đóng BHXH không đúng thời gian quy định; đóng BHXH không đúng mức quy định; xác nhận không đúng thời gian và mức đóng BHXH cho người lao động. Hành vi xác nhận, lập danh sách không đúng thực tế để người lao động hưởng chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản; không lập hồ sơ hoặc không làm thủ tục để người lao động hưởng BHXH trong thời hạn 30 ngày; không trả trợ cấp BHXH cho người lao động; không nộp hồ sơ để cơ quan BHXH cấp sổ BHXH cho người lao động; không bảo quản tốt sổ BHXH của người lao động dẫn đến sổ mất mát, hư hỏng, sữa chữa, tẩy xoá; không cung cấp thông tin hoặc báo cáo sai về BHXH cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi có yêu cầu... Các hành vi vi phạm pháp luật về BHXH của người lao động là không đóng, chậm đóng BHXH bắt buộc hoặc thoả thuận với chủ sử dụng lao động không nộp BHXH bắt buộc; kê khai không đúng sự thật hoặc sửa chữa, tẩy xoá trong tài liệu hồ sơ liên quan đến việc hưởng BHXH; không cung cấp thông tin hoặc cung cấp thông tin sai lệch cho chủ sử dụng lao động và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền; làm giả hồ sơ để hưởng BHXH. 1.1.2.4. Tổ chức bộ máy quản lý bảo hiểm xã hội Để triển khai thực hiện chính sách BHXH theo Điều lệ BHXH, ngày 16/2/1995, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 19/CP thành lập BHXH Việt Nam trên cơ sở thống
  18. nhất các tổ chức BHXH ở Trung ương và địa phương do ngành Lao động-Thương binh & Xã hội và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đang quản lý. Thực hiện Quyết định số 20/2002/QĐ-TTg, ngày 24/01/2002 của Thủ tướng Chính phủ về việc chuyển Bảo hiểm y tế Việt Nam về BHXH Việt Nam, ngày 06/12/2002, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 100/2002/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam. Chính phủ thành lập Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam bao gồm đại diện của Bộ Lao động-TBXH, Bộ Tài chính, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Bộ Y tế, Phòng Thương mại công nghiệp Việt Nam, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam và BHXH Việt Nam để giúp Thủ tướng Chính phủ quản lý, chỉ đạo giám sát hoạt động của tổ chức BHXH. Hội đồng quản lý Bảo hiểm xã hội Việt Nam có nhiệm vụ như sau - Thẩm định kế hoạch hoạt động hàng năm, giám sát, kiểm tra thực hiện kế hoạch của tổ chức BHXH. - Quyết định hình thức đầu tư quỹ BHXH theo đề nghị của tổ chức BHXH. - Kiến nghị với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xây dựng, bổ sung chế độ, chính sách, pháp luật về BHXH, chiến lược phát triển của ngành, kiện toàn hệ thống tổ chức của BHXH, cơ chế quản lý và sử dụng quỹ BHXH. - Đề nghị Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh lãnh đạo của tổ chức BHXH [33, tr.66]. Bảo hiểm xã hội Việt Nam, là đơn vị sự nghiệp thuộc Chính phủ có chức năng thực hiện các chế độ chính sách BHXH và quản lý sử dụng các quỹ BHXH theo quy định của pháp luật. BHXH Việt Nam được tổ chức và quản lý theo hệ thống dọc, tập trung, thống nhất từ Trung ương đến địa phương. ở Trung ương là BHXH Việt Nam; ở tỉnh, thành phố là BHXH tỉnh, thành phố; ở huyện, thị xã, thành phố là BHXH huyện, thị xã, thành phố. Nhiệm vụ và quyền hạn của Bảo hiểm xã hội Việt Nam như sau - Xây dựng trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược phát triển ngành BHXH và kế hoạch năm năm về thực hiện chính sách BHXH; đề án bảo tồn và tăng trưởng quỹ BHXH.
  19. - Chỉ đạo và tổ chức thực hiện chính sách BHXH; thu các khoản đóng BHXH bắt buộc và tự nguyện; chi các khoản trợ cấp về BHXH cho đối tượng tham gia BHXH đầy đủ, thuận tiện, đúng thời hạn theo quy định. - Cấp các loại sổ, thẻ BHXH. - Quản lý quỹ BHXH theo nguyên tắc tập trung, thống nhất theo chế độ tài chính của Nhà nước, hạch toán độc lập và được Nhà nước bảo hộ. - Kiến nghị với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các cơ quan nhà nước có liên quan về sửa đổi, bổ sung chính sách BHXH, cơ chế quản lý quỹ, cơ chế tài chính và tổ chức thực hiện sau khi được phê duyệt. - Ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện việc giải quyết chế độ BHXH và nghiệp vụ thu, chi BHXH theo thẩm quyền. - Kiểm tra việc thu chi BHXH đối với các cơ quan đơn vị, kiến nghị với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và cơ quan quản lý cấp trên của đơn vị sử dụng lao động để xử lý những hành vi vi phạm pháp luật về BHXH. - Từ chối việc chi trả các chế độ BHXH khi đối tượng tham gia BHXH không đủ điều kiện hưởng hoặc khi không có căn cứ pháp lý về các hành vi giả mạo, khai man hồ sơ để hưởng BHXH. - Bồi thường mọi khoản thu, chi sai quy định của pháp luật về chế độ BHXH cho đối tượng tham gia BHXH. - Giải quyết khiếu nại tố cáo của tổ chức và cá nhân về việc thực hiện chính sách BHXH. - Lưu trữ hồ sơ đối tượng tham gia và hưởng BHXH. - Tổ chức nghiên cứu ứng dụng khoa học; ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành hoạt động BHXH. - Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách về BHXH. - Thực hiện hợp tác quốc tế về BHXH.
  20. - Chủ trì, phối hợp với các cơ quan Nhà nước có liên quan, các tổ chức chính trị xã hội ở Trung ương và địa phương, các bên tham gia BHXH để giải quyết các vấn đề có liên quan đến việc thực hiện chế độ chính sách BHXH. - Quản lý công chức viên chức, tài chính, tài sản và thực hiện chế độ báo cáo với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. - Nhiệm vụ, quyền hạn của Bảo hiểm xã hội tỉnh như sau + Tổ chức xét duyệt hồ sơ, giải quyết chính sách chế độ BHXH, cấp các loại sổ, thẻ BHXH. +Tổ chức thực hiện các khoản đóng góp BHXH bắt buộc và tự nguyện. +Tổ chức quản lý và phát triển đối tượng tham gia BHXH. + Tổ chức quản lý, lưu giữ hồ sơ các đối tượng hưởng BHXH. + Tổ chức thực hiện chi trả các chế độ BHXH cho các đối tượng đúng quy định. + Thực hiện quản lý, sử dụng các nguồn kinh phí, chế độ kế toán thống kê theo quy định của Nhà nước và BHXH Việt Nam. + Kiểm tra thực hiện chế độ thu, chi BHXH đối với các tổ chức sử dụng lao động, cá nhân. Kiến nghị cơ quan quản lý nhà nước cấp trên, cơ quan pháp luật để xử lý những hành vi vi phạm pháp luật về BHXH. + Giải quyết khiếu nại tố cáo của tổ chức và cá nhân theo thẩm quyền. + Tổ chức bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ BHXH trên địa bàn. + Tổ chức thông tin, tuyên truyền về BHXH. + Tổ chức ứng dụng khoa học; ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành hoạt động. + Quản lý tổ chức, biên chế, cán bộ, công chức, viên chức tài chính và tài sản thuộc BHXH tỉnh theo phân cấp quản lý của BHXH Việt Nam. - Nhiệm vụ, quyền hạn của Bảo hiểm xã hội huyện, thị xã, thành phố như sau + Xây dựng chương trình kế hoạch công tác năm trình Giám đốc BHXH tỉnh phê duyệt và tổ chức thực hiện.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2