intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Địa lý học: Tiềm năng, thực trạng và giải pháp phát triển du lịch tỉnh Dak Lak theo hướng bền vững

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:94

255
lượt xem
43
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Địa lý học: Tiềm năng, thực trạng và giải pháp phát triển du lịch tỉnh Dak Lak theo hướng bền vững được thực hiện nhằm tìm hiểu về cơ sở lý luận; tiềm năng; thực trạng du lịch tỉnh Dak Lak. Từ đó đưa ra những giải pháp phát triển du lịch tỉnh Dak Lak.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Địa lý học: Tiềm năng, thực trạng và giải pháp phát triển du lịch tỉnh Dak Lak theo hướng bền vững

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Mai Thị Thùy Dung TIỀM NĂNG, THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH TỈNH DAK LAK THEO HƯỚNG BỀN VỮNG Chuyên ngành: Địa lý học Mã số: 60 31 95 LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN KIM HỒNG Thành phố Hồ Chí Minh - 2007
  2. LỜI CẢM ƠN Em xin được bày tỏ lòng kính trọng và cảm ơn sâu sắc đến thầy giáo hướng dẫn khoa học PGS.TS Nguyễn Kim Hồng - Phó Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã nhiệt tình hướng dẫn em trong thời gian thực hiện đề tài. Xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu nhà trường, phòng Khoa học Công nghệ và sau đại học, khoa Địa lý trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu để hoàn thành luận văn. Xin chân thành cảm ơn Tỉnh uỷ, UBND, Sở Thương mại – Du lịch, Sở Văn hoá thông tin, Cục thống kê, Sở Khoa học công nghệ và môi trường tỉnh Dak Lak đã cung cấp cho em nhiều nguồn tư liệu, tài liệu hữu ích phục vụ cho đề tài. Xin cảm ơn sự động viên, hỗ trợ rất lớn từ gia đình, bạn bè trong suốt khoá học và quá trình thực hiện luận văn. Xin nhận nơi em lòng biết ơn sâu sắc. Tác giả luận văn Mai Thị Thùy Dung
  3. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DLBV : Du lịch bền vững GDP : Tổng sản phẩm trong nước IUCN : Tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế TP. HCM : Thành phố Hồ Chí Minh TP. BMT : Thành phố Buôn Ma Thuột UBND : Uỷ ban nhân dân UNEP : Chương trình môi trường Liên hợp quốc UNCED : Hội nghị của Liên hợp quốc về môi trường và phát triển UNESCO : Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hoá của Liên hợp quốc WTO : Tổ chức du lịch thế giới WTTC : Hội đồng Du lịch và Lữ hành quốc tế WWF : Quỹ bảo tồn động vật hoang dã thế giới
  4. DANH MỤC CÁC BẢNG trang 1. Bảng biểu Bảng 2.1. Cơ cấu GDP theo ngành của tỉnh Dak Lak 64 Bảng 2.2. Đóng góp của du lịch Dak Lak vào ngân sách nhà nước 71 Bảng 2.3. Các dự án du lịch trên địa bàn tỉnh Dak Lak 81 2. Biểu đồ Hình 2.1. Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế tỉnh Dak Lak 65 Hình 2.2. Lượt du khách quốc tế đến Dak Lak 67 Hình 2.3. Lượt du khách trong nước đến Dak Lak 68 Hình 2.4. Tổng lượt khách đến Dak Lak 69 Hình 2.5. Tăng trưởng doanh thu của du lịch Dak Lak 70 3. Bản đồ Bản đồ hành chính Dak Lak 29 Bản đồ du lịch Dak Lak 89 Bản đồ các tuyến du lịch Dak Lak 97 4. Hình ảnh 114
  5. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra mạnh mẽ, du lịch đang phát triển không ngừng. Đối với Việt Nam, du lịch không chỉ tạo ra nguồn thu rất lớn cho nền kinh tế quốc dân mà còn góp phần đưa bạn bè quốc tế đến với nước ta, tạo ra mối quan hệ toàn cầu về kinh tế, văn hoá và thúc đẩy việc quảng bá sâu rộng hình ảnh Việt Nam đến các quốc gia trên thế giới. Trong bối cảnh đó, du lịch Dak Lak cũng đang có những bước khởi sắc. Với đặc điểm địa lí của một vùng đất cao nguyên, quy tụ rất nhiều các dân tộc và tài nguyên du lịch đa dạng, Dak Lak được nhiều du khách trong và ngoài nước biết đến như một điểm du lịch hấp dẫn. Tuy nhiên, hiệu quả của hoạt động du lịch chưa xứng đáng với tiềm năng vốn có, môi trường tự nhiên đang bị xuống cấp, bản sắc văn hóa của các dân tộc phần nào bị mai một. Đó là vấn đề bức xúc đang đặt ra cho ngành du lịch địa phương. Tài nguyên du lịch của Dak Lak là những gì, ngành du lịch của Dak Lak đang phát triển như thế nào, có thể phát triển theo xu hướng bền vững hay không và chúng ta phải làm gì để du lịch Dak Lak phát triển bền vững? Đề tài “Tiềm năng, thực trạng và giải pháp phát triển du lịch tỉnh Dak Lak theo hướng bền vững” sẽ trả lời các câu hỏi đó. 2. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu tiềm năng, thực trạng và đề xuất các giải pháp phát triển bền vững cho ngành du lịch đang còn non trẻ của tỉnh Dak Lak. Đây là nguồn kiến thức, thông tin tham khảo bổ ích để ngành du lịch tỉnh Dak Lak điều chỉnh các hoạt động du lịch, nhằm thỏa mãn nhu cầu đa dạng của du khách, mang lại hiệu quả kinh tế cao, nâng cao mức sống cộng đồng địa phương, bảo vệ môi trường và đảm bảo sự phát triển theo hướng bền vững. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu - Thu thập và hệ thống các thông tin về du lịch Dak Lak. - Khảo sát, đánh giá tài nguyên du lịch và thực trạng phát triển du lịch tỉnh Dak Lak trên quan điểm phát triển bền vững. - Đề ra giải pháp phát triển du lịch tỉnh Dak Lak theo hướng bền vững.
  6. 4. Phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu vấn đề du lịch trên địa bàn tỉnh Dak Lak trong thời gian từ năm 1996 đến năm 2005. Phân tích tiềm năng và hiện trạng phát triển du lịch của tỉnh Dak Lak trên quan điểm bền vững và đề xuất một số giải pháp phát triển du lịch theo hướng bền vững. Đồng thời có tham khảo hoạt động du lịch của Thái Lan, Trung Quốc và xu hướng du lịch bền vững của thế giới. Luận văn không nghiên cứu hết các nội dung liên quan đến phát triển bền vững, cũng như không đi sâu vào các lĩnh vực chuyên ngành như kiến trúc, sinh học, dân tộc học, môi trường, marketing. 5. Lịch sử nghiên cứu 5.1.Trên thế giới Hơn 842 triệu người du lịch ra nước ngoài năm 2005, hơn 76,7 triệu việc làm được tạo ra từ du lịch, doanh thu của du lịch chiếm 10,3 % GDP cả thế giới. Du lịch đang là hiện tượng toàn cầu. Lợi nhuận khổng lồ thu được từ du lịch đã khiến cho nhiều tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức, môi trường bị ô nhiễm, và nền kinh tế - xã hội của các lãnh thổ đón khách bị ảnh hưởng một cách tiêu cực. Một chiến lược du lịch tôn trọng môi trường và quan tâm đến khả năng đáp ứng các nhu cầu trong tương lai đang được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Từ khi cụm từ “phát triển bền vững” ra đời ở Đức vào năm 1980, nhiều nghiên cứu khoa học đã được tiến hành nhằm phân tích những tác động của du lịch đến sự phát triển bền vững, sự cần thiết phải bảo vệ tính toàn vẹn của môi trường sinh thái trong khi khai thác du lịch. Chuyên gia du lịch người Thuỵ Sĩ Jos Krippendorf (1975) và Jungk (1980) là những nhà khoa học đầu tiên trên thế giới cảnh báo về những suy thoái do hoạt động du lịch gây ra và đưa ra khái niệm về du lịch rắn (hard tourism) - loại hình du lịch ồ ạt, bằng xe hơi, gây ảnh hưởng nhiều nhất đối với môi trường và du lịch mềm (soft toursim/gentle tourism) - loại hình du lịch ít gây ảnh hưởng nhất đến môi trường và có chia sẻ lợi ích kinh tế với cộng đồng địa phương [13]. Năm 1992, trong Hội nghị thượng đỉnh về Trái đất đã diễn ra Hội nghị về môi trường và phát triển của Liên hợp quốc, 182 Chính phủ đã thông qua chương trình Nghị sự 21 nhằm đảm bảo một tương lai bền vững cho nhân loại bước vào thế kỉ XXI. Chương trình Nghị sự đã nêu lên các vấn đề liên quan đến môi trường và phát triển, đề ra chiến lược hướng tới các hoạt động mang tính bền vững hơn.
  7. Về du lịch bền vững, từ những năm 1990, nhiều nghiên cứu về phát triển du lịch bền vững đã được tiến hành. Một số loại hình du lịch mới ra đời, nhấn mạnh khía cạnh môi trường như du lịch sinh thái, du lịch gắn với thiên nhiên, du lịch thay thế hay du lịch khám phá nhằm tuyên truyền, nâng cao ý thức của cộng đồng về hoạt động du lịch có trách nhiệm, đảm bảo sự phát triển bền vững. Năm 1996, “chương trình Nghị sự 21 về du lịch: Hướng tới phát triển bền vững về môi trường” đã được Hội đồng Lữ hành du lịch thế giới, Tổ chức du lịch thế giới và Hội đồng Trái đất xây dựng, nhằm nhấn mạnh sự cần thiết phối hợp hành động giữa các Chính phủ, tổ chức phi Chính phủ và ngành du lịch trong việc xây dựng chiến lược du lịch và nêu bật những lợi ích to lớn của việc phát triển du lịch bền vững. Các nhà Địa lý học bắt đầu quan tâm đến lĩnh vực du lịch từ những năm 30 (Mc Murray 1930; Jones 1935; Selke 1936) và đặc biệt là sau chiến tranh thế giới thứ II. Nhiều nhà Địa lý học người Mỹ, Anh, Canađa đã tiến hành các nghiên cứu về du lịch ở góc độ địa lý như Gilbert (1949), Wolfe (1951), Coppock (1977). Về sau, khi du lịch ngày càng phát triển và cụm từ du lịch bền vững được nhắc đến nhiều hơn thì những nghiên cứu của các nhà địa lý học về du lịch cũng đã tăng lên rất nhiều, bởi khó có thể tìm thấy một khía cạnh của du lịch mà không dính dáng đến địa lý và rất ít các ngành của địa lý mà không có ít nhiều đóng góp cho việc nghiên cứu hiện tượng du lịch. 5.2. Việt Nam Cùng với sự phát triển của ngành du lịch, các nghiên cứu về du lịch ở nước ta cũng ngày một nhiều hơn. Có thể điểm qua một số công trình như: Tổ chức lãnh thổ du lịch Việt Nam, Quy hoạch tổng thể du lịch Việt Nam 1995 - 2000, Quy hoạch tổng thể du lịch Việt Nam đến năm 2010, Cơ sở Địa lý du lịch, Địa lý du lịch, Tổng quan du lịch, nghiên cứu cả lý luận và thực tiễn, ở những quy mô và phạm vi khác nhau. Tất cả đều phục vụ cho du lịch và cũng cho thấy sự quan tâm sâu sắc đến môi trường, đến khía cạnh bền vững trong du lịch Việt Nam. Năm 1997, Tổng cục du lịch Việt Nam kết hợp với Quỹ Hanns Seiden (Đức) tổ chức Hội thảo về Phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam tại Huế, sau đó các hội thảo khác về du lịch bền vững cũng được tổ chức như Hội thảo về du lịch sinh thái với phát triển bền vững ở Việt Nam tại Hà Nội năm 1998, Hội thảo về Nâng cao nhận thức và năng lực phát triển du lịch bền vững trong thời đại toàn cầu hoá tại Hà Nội năm 2006 thu hút nhiều nghiên cứu, đóng góp của các nhà khoa học, các cán bộ du lịch trong và ngoài nước tham gia.
  8. Các hội thảo và các công trình nghiên cứu đều hướng đến sự phát triển bền vững cho ngành du lịch Việt Nam, bằng nhiều cách khác nhau. Đó là dấu hiệu tốt cho định hướng chiến lược phát triển du lịch của nước ta trong thời gian tới. Tuy nhiên, có thể thấy rằng ngành du lịch Việt Nam đang còn non trẻ và những đóng góp của các nhà khoa học về du lịch bền vững vẫn đang là bước khởi đầu và du lịch bền vững chưa thực sự đi vào thực tiễn ở nhiều địa phương. Du lịch bền vững đã được Tỉnh uỷ, UBND và Sở Thương mại - Du lịch Dak Lak đánh giá cao, tuy vậy, tỉnh hiện chưa có nghiên cứu nào về du lịch bền vững. Vì vậy, luận văn này có thể là sự đóng góp đầu tiên cho du lịch bền vững của tỉnh Dak Lak. 6. Các quan điểm và phương pháp nghiên cứu 6.1. Các quan điểm 6.1.1. Quan điểm hệ thống tổng hợp Hệ thống lãnh thổ du lịch là một hệ thống mở, gồm các thành phần tự nhiên, kinh tế, xã hội, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và chịu sự chi phối của nhiều quy luật cơ bản. Nghiên cứu du lịch không thể tách rời hệ thống kinh tế - xã hội của địa phương và cả nước. Quan điểm hệ thống giúp chúng ta có cái nhìn tổng thể, khái quát của toàn bộ hệ thống du lịch trong khi vẫn bao quát được hoạt động của mỗi phân hệ trong hệ thống đó. Du lịch Dak Lak cần được nghiên cứu trong mối quan hệ tương hỗ: kinh tế - xã hội - môi trường không chỉ riêng Dak Lak mà của cả nước. Quan điểm này được áp dụng trong suốt quá trình thực hiện luận văn. 6.1.2. Quan điểm lịch sử, viễn cảnh Mọi sự vật, hiện tượng đều có quá trình phát sinh, vận động và biến đổi. Quá trình ấy có thể bắt đầu từ trong quá khứ, hiện tại vẫn tiếp diễn và kéo dài đến tương lai. Đứng trên quan điểm lịch sử, phân tích nguồn gốc phát sinh, đánh giá đúng đắn hiện tại sẽ là cơ sở để đưa ra các dự báo xác thực về xu hướng phát triển trong thời gian sắp tới. Quan điểm này được vận dụng trong khi phân tích các giai đoạn chủ yếu của quá trình phát triển hệ thống du lịch và dự báo xu hướng phát triển của hệ thống lãnh thổ. 6.1.3. Quan điểm lãnh thổ
  9. Lãnh thổ du lịch được tổ chức như là một hệ thống liên kết không gian của các đối tượng du lịch trên cơ sở các nguồn tài nguyên và dịch vụ cho du lịch. Việc nghiên cứu du lịch bền vững của tỉnh Dak Lak không thể tách rời với hiện trạng và xu hướng du lịch của Việt Nam. Quá trình phát triển du lịch bền vững của tỉnh Dak Lak là một phần trong quá trình phát triển du lịch bền vững của Tây Nguyên và của cả nước. 6.1.4. Quan điểm sinh thái Phát triển du lịch phải gắn liền với bảo vệ môi trường sinh thái. Quan điểm sinh thái cho thấy sự cần thiết phải bảo vệ tính toàn vẹn của hệ sinh thái, đánh giá tác động của du lịch đến môi trường và khả năng chịu đựng của môi trường trước sự phát triển của kinh tế nói chung, du lịch nói riêng. 6.1.5. Quan điểm du lịch bền vững Mục tiêu của du lịch bền vững là bảo vệ tài nguyên và môi trường, tăng cường bảo tồn và chia sẻ lợi ích cho cộng đồng, đảm bảo sự phát triển kinh tế một cách bền vững. Kết hợp hài hoà nhu cầu của hiện tại và tương lai trên cả hai góc độ sản xuất và tiêu dùng du lịch nhằm đạt đến sự cân bằng giữa các yếu tố kinh tế, xã hội và môi trường. Luận văn quán triệt quan điểm này trong suốt quá trình đánh giá tiềm năng, phân tích hiện trạng và đề xuất giải pháp. 6.2. Phương pháp nghiên cứu 6.2.1. Thu thập, xử lí thông tin Thu thập những tài liệu có liên quan ở các nguồn tin cậy, sắp xếp và xử lí tài liệu một cách có hệ thống, phân tích từng nội dung đưa ra những kết luận đúng đắn nhất. 6.2.2. Phân tích, tổng hợp, so sánh Thông tin, số liệu sau khi thu thập sẽ được so sánh, phân tích, tổng hợp cho phù hợp với mục đích của từng phần. Quá trình tổng hợp sẽ có được cái nhìn bao quát về du lịch Dak Lak. Qua phân tích, các thông tin được chắt lọc với độ tin cậy và mang lại hiệu quả cao nhất. 6.2.3. Thực địa
  10. Đây là phương pháp không thể thiếu nhằm tích luỹ tài liệu thực tế về sự hình thành, phát triển và đặc điểm của tổ chức lãnh thổ du lịch. Trong quá trình thực hiện luận văn, phương pháp này rất được coi trọng vì nó phản ánh thực tiễn khách quan của đề tài mà luận văn nghiên cứu. 6.2.4. Khai thác phần mềm hệ thống thông tin Các thông tin, số liệu và dự báo trong luận văn được xử lý bởi phần mềm MS Word, Excel, AutoCad, Mapinfo để thể hiện các phân tích, đánh giá, so sánh và xu hướng du lịch của tỉnh Dak Lak. 6.2.5. Bản đồ, biểu đồ Đây là phương pháp đặc trưng của địa lý. Sử dụng các bản đồ, biểu đồ làm tăng tính trực quan của đề tài, không chỉ cho biết đặc điểm, phân bố, mạng lưới mà còn thể hiện một số kết quả của công trình nghiên cứu. 6.2.6. Phương pháp thống kê Sau khi thu thập thông tin, số liệu, tiến hành thống kê, sắp xếp chúng lại cho phù hợp với cấu trúc của đề tài, trình tự thời gian và lập ra các bảng biểu về quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh cũng như ngành du lịch Dak Lak. 7. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của luận văn được trình bày qua 3 chương: Chương 1. Cơ sở lý luận về phát triển du lịch bền vững. Chương 2. Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch tỉnh Dak Lak theo hướng bền vững. Chương 3. Định hướng và giải pháp phát triển du lịch tỉnh Daklak theo hướng bền vững.
  11. CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG 1.1. Quan niệm về du lịch bền vững 1.1.1. Quan niệm về du lịch Ở mỗi thời đại, quan niệm về du lịch có sự thay đổi bắt đầu ngay từ thời kì đồ đá, khi mà con người phải “đi” vì lí do sinh tồn trước cái đói và sự sợ hãi. Đến thời kì cường thịnh của đế quốc La Mã, các chuyến du ngoạn bằng ngựa đã mang mục đích tiêu khiển của tầng lớp thống trị. Khi tàu hoả ra đời vào thế kỉ XIX, nó tạo động lực cho du lịch phát triển hơn. Rồi lần lượt đến tàu thuỷ, ô tô, máy bay, chúng ngày càng làm cho du lịch gắn bó mật thiết với con người. Năm 1925, Hiệp hội quốc tế các tổ chức du lịch được thành lập tại Hà Lan, đánh dấu bước ngoặt trong việc thay đổi, phát triển các khái niệm về du lịch. Đầu tiên, du lịch được hiểu là việc đi lại của từng cá nhân hoặc một nhóm người rời khỏi chỗ ở của mình trong khoảng thời gian ngắn đến các vùng xung quanh để nghỉ ngơi, giải trí hay chữa bệnh. Năm 1985, I.I.Pirogionic đưa ra khái niệm: “Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư trong thời gian rỗi liên quan tới sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi cư trú thường xuyên nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức – văn hoá hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế và văn hoá”. Ở Việt Nam, theo luật du lịch ban hành từ tháng 6 thăm 2005 và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2006: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong khoảng thời gian nhất định”. WTO định nghĩa: “ Du lịch theo nghĩa hành động được định nghĩa là một hoạt động di chuyển vì mục đích giải trí, tiêu khiển và tổ chức các dịch vụ xung quanh hoạt động này. Người đi du lịch là người đi ra khỏi nơi mình cư trú một quãng đường tối thiểu là 80 km trong khoảng thời gian hơn 24 giờ với mục đích giải trí tiêu khiển”. Còn nhiều quan niệm khác về du lịch. Trong luận văn này, tôi sử dụng định nghĩa về du lịch do Tổng cục du lịch Việt Nam ban hành trong luật Du lịch năm 2005. 1.1.2. Quan niệm về du lịch bền vững
  12. Cụm từ “ phát triển bền vững” có nguồn gốc từ thực tiễn quản lí rừng ở Đức vào thế kỉ XIX, nhưng mãi đến thập kỉ 80 của thế kỉ XX mới được phổ biến rộng rãi. Năm 1980, IUCN cho rằng “phát triển bền vững” phải cân nhắc đến hiện tượng khai thác đến các nguồn tài nguyên tái tạo và không tái tạo, đến các điều kiện thuận lợi cũng như khó khăn trong việc tổ chức các kế hoạch hành động ngắn hạn và dài hạn đan xen nhau. Đến năm 1987, Uỷ ban môi trường và phát triển thế giới WCED do bà GroHarlem Brundtland thành lập đã công bố thuật ngữ “phát triển bền vững” trong báo cáo “ tương lai của chúng ta” như sau: “ Phát triển bền vững được hiểu là sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau” [5]. Theo Hội nghị thượng đỉnh về Trái đất năm 1992, được tổ chức ở Rio - de - Janeiro, “phát triển bền vững được hình thành trong sự hoà nhập, xen cài và thoả hiệp giữa ba hệ thống là hệ tự nhiên, hệ kinh tế và hệ xã hội”. Ngày nay, tất cả các quốc gia đều đề cập đến “phát triển bền vững” trong quá trình hoạch định chính sách và quản lí phát triển kinh tế, với ý muốn nhấn mạnh phương thức và việc sử dụng có trách nhiệm các nguồn lực của sự phát triển. Xu thế phát triển du lịch thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang đứng trước sự bắt buộc phải sử dụng có trách nhiệm các nguồn lực của mình, đặc biệt là tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn. Khái niệm phát triển du lịch bền vững xuất hiện khoảng 10 năm trở lại đây, trên cơ sở cải thiện và nâng cấp khái niệm du lịch mềm (soft tourism), được nhiều quốc gia và hiệp hội du lịch lớn trên thế giới ủng hộ. Tuy nhiên, một khái niệm “du lịch bền vững” hoàn chỉnh được tất cả mọi người sử dụng đến nay vẫn chưa có.
  13. Năm 1992, WTO định nghĩa: “Du lịch bền vững là việc phát triển các hoạt động du lịch nhằm đáp ứng các nhu cầu hiện tại của du khách và người dân bản địa trong khi vẫn quan tâm đến việc bảo tồn và tôn tạo các nguồn tài nguyên cho việc phát triển hoạt động du lịch trong tương lai. Du lịch bền vững sẽ có kế hoạch quản lí các nguồn tài nguyên nhằm thoả mãn các nhu cầu về kinh tế, xã hội, thẩm mĩ của con người trong khi đó vẫn duy trì được sự toàn vẹn về văn hoá, đa dạng sinh học, sự phát triển của các hệ sinh thái và các hệ thống hỗ trợ cho cuộc sống của con người”. Năm 1996, WTTC đưa ra khái niệm: “Du lịch bền vững là sự đáp ứng nhu cầu hiện tại của du khách và vùng du lịch mà vẫn đảm bảo khả năng đáp ứng nhu cầu cho các thế hệ du lịch mai sau”. Du lịch bền vững đòi hỏi các cấp và đơn vị kinh doanh du lịch quản lí tất cả các dạng tài nguyên du lịch theo một cách nào đó để một mặt đáp ứng được các nhu cầu kinh tế, xã hội và thẩm mỹ, mặt khác vẫn duy trì được bản sắc văn hoá, các quá trình sinh thái cơ bản, sự đa dạng sinh học và các hệ sinh thái đảm bảo sự sống (theo Hens L. 1998). Đối với Việt Nam, “phát triển bền vững” được thể hiện trong chỉ thị 36/CT của Bộ chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng ngày 25/06/1998: Mục tiêu và các quan điểm cơ bản cho phát triển bền vững chủ yếu dựa vào hoạt động bảo vệ môi trường, bảo vệ môi trường sinh thái, sử dụng hợp lí tài nguyên như một cấu thành không thể tách rời của phát triển bền vững. Theo quan điểm của Tổng cục du lịch Việt Nam, phát triển du lịch phải được định hướng và quản lí theo phương châm: Kết hợp hài hoà nhu cầu của hiện tại và tương lai trên cả hai góc độ sản xuất và tiêu dùng du lịch, khai thác, sử dụng hợp lí và phát triển tài nguyên du lịch tự nhiên, chú trọng bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị của tài nguyên du lịch nhân văn, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, tránh hiện đại hoá hoặc làm biến dạng môi trường, cảnh quan di tích, xây dựng và giữ gìn môi trường xã hội lành mạnh, đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, đặc biệt là ở các đô thị du lịch và các điểm tham quan du lịch. Điều 5, luật du lịch Việt Nam: “Phát triển du lịch bền vững, theo quy hoạch, kế hoạch, đảm bảo hài hoà giữa kinh tế - xã hội – môi trường, phát triển có trọng tâm, trọng điểm theo hướng du lịch văn hoá – lịch sử, du lịch sinh thái, bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị của tài nguyên du lịch. Bảo đảm chủ quyền quốc gia, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
  14. Bảo đảm lợi ích quốc gia, lợi ích cộng đồng, lợi ích chính đáng và an ninh, an toàn cho khách du lịch, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch. Bảo đảm sự tham gia của mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư trong phát triển du lịch. Góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại và giao lưu quốc tế để quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam. Phát triển đồng thời du lịch trong nước và du lịch quốc tế, tăng cường thu hút ngày càng nhiều khách du lịch nước ngoài vào Việt Nam”. Như vậy, có thể nói đối với cả Việt Nam và thế giới, du lịch bền vững không phải là một loại hình hay trào lưu du lịch mà đó là cương lĩnh phát triển du lịch của thời đại. 1.2. Những nguyên tắc đảm bảo phát triển du lịch bền vững 1.2.1. Khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên một cách hợp lí Phát triển bền vững chủ trương ủng hộ việc lưu lại cho các thế hệ tương lai một nguồn tài nguyên thiên nhiên không kém hơn so với cái mà các thế hệ trước được hưởng. Ngăn ngừa trước những thay đổi không thể tránh được đối với những tài sản môi trường không có khả năng thay thế, tính vào chi phí hoạt động kinh tế các dịch vụ được môi trường thiên nhiên cung cấp, những dịch vụ này không phải là “hàng hoá cho không”. Các nguyên tắc như vậy cũng được áp dụng đối với các tài nguyên nhân văn. Cần trân trọng các nền văn hoá địa phương, truyền thống dân tộc, kế sinh nhai và đất đai mà người ta dựa vào để sống. Việc sử dụng bền vững, bảo tồn và bảo vệ các nguồn lực này đang ngày càng được nhìn nhận như là vấn đề sống còn đối với việc quản lí hợp lí mang tính toàn cầu và nó cũng khiến cho kinh doanh phát triển lâu dài. 1.2.2. Hạn chế sử dụng quá mức tài nguyên và giảm thiểu chất thải Sự tiêu thụ quá mức các nguồn tài nguyên sẽ dẫn đến sự huỷ hoại môi trường trên toàn cầu của chúng ta và đi ngược lại với sự phát triển bền vững lâu dài của du lịch. Kiểu tiêu thụ này là một đặc trưng của các nước có nền công nghiệp phát triển nhưng lại lan rộng rất nhanh trên toàn cầu như là phong cách sống phương Tây. Các dự án du lịch được triển khai mà không có đánh giá tác động môi trường hoặc không thực thi những kiến nghị về đánh giá tác động của môi trường đã dẫn đến sự tiêu dùng tài nguyên môi trường và các tài
  15. nguyên khác một cách lãng phí và không cần thiết. Chính điều này gây ra sự ô nhiễm và xáo trộn về văn hoá và xã hội. Khai thác, sử dụng quá mức tài nguyên và không kiểm soát lượng chất thải từ du lịch góp phần dẫn đến suy thoái môi trường mà hậu quả của nó là sự phát triển không bền vững của du lịch nói riêng và kinh tế xã hội nói chung. Việc giảm tiêu thụ quá mức và giảm chất thải sẽ tránh được những chi phí tốn kém cho việc phục hồi tổn hại về môi trường và đóng góp cho chất lượng của du lịch. 1.2.3. Phát triển du lịch phải gắn với bảo tồn tính đa dạng Tính đa dạng về thiên nhiên, văn hoá và xã hội là thế mạnh của mỗi quốc gia nhằm thoả mãn nhu cầu đa dạng của du khách cũng như sản phẩm của du lịch. Đa dạng cũng là sự sống còn để tránh việc quá phụ thuộc vào một hay một vài nguồn hỗ trợ sinh tồn. Phát triển bền vững chủ trương ủng hộ việc để lại cho thế hệ mai sau sự đa dạng cả về thiên nhiên và nhân văn không ít hơn những gì thế hệ trước được thừa hưởng. Chiến lược bảo tồn thế giới nhấn mạnh sự cần thiết bảo tồn đa dạng nguồn gen. Từ đó, mục đích đã được mở rộng, trong đó có sự đa dạng cơ cấu chính trị, kinh tế - xã hội và các nền văn hoá. Việc duy trì và phát triển tính đa dạng của thiên nhiên, văn hoá và xã hội là rất quan trọng đối với du lịch bền vững, là chỗ dựa sinh tồn của ngành công nghiệp du lịch. 1.2.4. Phát triển phải phù hợp với quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp có tính liên ngành, liên vùng cao, vì vậy mọi phương án khai thác tài nguyên để phát triển phải phù hợp với các quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội. Du lịch được lập kế hoạch đúng đắn sẽ tăng cường giá trị về tài sản môi trường, bảo vệ các loài quý hiếm và mang lại sự cải thiện đối với cộng đồng địa phương. Những nơi mà du lịch không phối hợp với các ngành khai thác thông qua quy hoạch có chiến lược thì du lịch sẽ bung ra một cách nhanh chóng và khó kiểm soát được nền kinh tế địa phương mỏng manh. Hợp nhất phát triển du lịch vào trong khuôn khổ hoạch định chiến lược cấp quốc gia và địa phương, tiến hành đánh giá tác động môi trường làm tăng khả năng tồn tại lâu dài của ngành du lịch. 1.2.5. Chia sẻ lợi ích đối với cộng đồng địa phương
  16. Để phát triển kinh tế - xã hội nói chung và từng ngành kinh tế nói riêng, việc khai thác các tài nguyên là tất yếu. Tuy nhiên, thực tế cho thấy trên một địa bàn lãnh thổ nếu mỗi ngành chỉ biết đến lợi ích của mình mà không có sự hỗ trợ đối với sự phát triển kinh tế và chia sẻ quyền lợi đối với cộng đồng địa phương thì sẽ làm cho kinh tế và cuộc sống của người dân địa phương gặp nhiều khó khăn. Điều này buộc cộng đồng địa phương phải khai thác tối đa các tài nguyên của mình, làm đẩy nhanh quá trình cạn kiệt tài nguyên và tổn hại đến môi trường sinh thái. Kết quả là những tác động tiêu cực đến sự phát triển bền vững của ngành du lịch nói chung và kinh tế - xã hội nói riêng. Do đó, du lịch phải làm nền cho sự đa dạng hoá kinh tế bằng hoạt động trong nhiều lĩnh vực. Sự đầu tư có kế hoạch đúng đắn về hạ tầng cơ sở như đường sá, điện, nước, thông tin liên lạc có thể phục vụ cho sự phát triển không phải là phát triển du lịch nhưng vẫn củng cố và thúc đẩy công nghiệp du lịch. Du lịch cần lưu tâm đến các chức năng kinh tế có tính chất quan trọng và hợp nhất các giá trị môi trường trong các quyết định đầu tư. Ngành du lịch hỗ trợ được các hoạt động kinh tế địa phương và có tính đến các giá trị và chi phí về mặt môi trường thì mới bảo vệ được các nền kinh tế địa phương và tránh được sự tổn thất về môi trường. 1.2.6. Khuyến khích tham gia của cộng đồng địa phương Sự tham gia của địa phương là cần thiết cho ngành du lịch. Người dân địa phương, nền văn hoá, môi trường, lối sống và truyền thống của họ là những nhân tố quan trọng thu hút khách du lịch đến một điểm du lịch. Nó đáp ứng nhu cầu của người dân bản địa, bảo vệ môi trường thiên nhiên và văn hoá của họ. Ngược lại, sự tham gia thực sự của cộng đồng có thể làm phong phú thêm loại hình và sản phẩm du lịch. Hơn thế nữa khi cộng đồng địa phương được tham gia chỉ đạo phát triển du lịch thì sẽ tạo ra được những điều kiện đặc biệt thuận lợi cho du lịch bởi cộng đồng sở tại là chủ nhân và là người có trách nhiệm chính với tài nguyên và môi trường khu vực. Điều này sẽ tạo ra khả năng phát triển lâu dài của du lịch. Sự tham gia của cộng đồng địa phương vào hoạt động du lịch được thực hiện thông qua việc khuyến khích họ sử dụng các phương tiện, các cơ sở vật chất của mình để phục vụ khách du lịch như chuyên chở, thuyết minh hướng dẫn du khách, cho thuê nhà để ở, nấu ăn cho khách, sản xuất các hàng thủ công mỹ nghệ làm đồ lưu niệm.
  17. Khuyến khích cộng đồng địa phương cùng làm du lịch không chỉ qua những việc làm có thu nhập thấp, theo mùa và những việc phục vụ như bồi bàn, dọn phòng mà nên có cả những công việc ở mức cao hơn và những công việc quản lí có thu nhập cao thường do người nước ngoài làm thì cũng có thể được đảm đương bởi người địa phương mà kinh nghiệm và sự hiểu biết đặc biệt về địa phương mình của họ sẽ có phần góp phần không nhỏ cho du lịch. Việc tham gia của cộng đồng địa phương vào du lịch sẽ không chỉ mang lại lợi ích cho họ và môi trường mà còn nâng cao chất lượng du lịch. 1.2.7. Thường xuyên trao đổi, tham khảo ý kiến với cộng đồng địa phương và các đối tượng có liên quan Tham khảo ý kiến quần chúng là một quá trình nhằm dung hoà giữa phát triển kinh tế với những mối quan tâm lớn hơn của người dân địa phương và tác động tiềm ẩn của sự phát triển lên môi trường tự nhiên, xã hội và văn hoá. Ý kiến của người dân địa phương là cần thiết để đánh giá một dự án phát triển, các biện pháp để giảm thiểu tác động tiêu cực và tối đa hoá sự đóng góp tích cực của quần chúng địa phương. Du lịch còn đem lại sự tiếp xúc trực tiếp giữa du khách với người dân bản địa có các tập quán văn hoá và tín ngưỡng khác họ. Do đó, du lịch bền vững cần tham khảo ý kiến và thông báo cho người dân địa phương về những thay đổi tiềm ẩn do sự thay đổi nhanh chóng của ngành du lịch. Tham khảo ý kiến trên diện rộng với các chính quyền địa phương cũng như người dân để khuyến khích sự tham gia đóng góp ý kiến, lồng ghép các lợi ích của cá nhân và quần chúng. 1.2.8. Chú trọng đào tạo, nâng cao nhận thức về tài nguyên môi trường Một lực lượng lao động được đào tạo và có kĩ năng thành thạo không những đem lại lợi ích về kinh tế cho ngành mà còn nâng cao chất lượng của sản phẩm du lịch. Việc đào tạo đúng mức và nhận thức của người học về tầm quan trọng và tính chất phức tạp của du lịch sẽ giúp cho việc nâng cao lòng tự hào nghề nghiệp và tăng cường sản phẩm của du lịch đối với cả du khách, chủ nhà và ngành du lịch. Việc đào tạo phải bao gồm cả giáo dục đa văn hoá nhằm tăng cường sự hiểu biết và cảm nhận khác nhau về văn hoá và làm cho nhân viên du lịch và học viên nắm được nhu cầu của cả khách và chủ nhà. Điều đó cũng giúp loại bỏ những thành kiến và tính bài ngoại.
  18. Lợi ích lâu dài cho mọi người đòi hỏi việc đào tạo và sử dụng nhân viên là người địa phương. Điều này được áp dụng đặc biệt đối với cán bộ tổ chức và hướng dẫn viên du lịch có kiến thức sâu rộng và mối quan tâm lớn trong vùng và việc tham gia của họ sẽ nâng cao chất lượng dịch vụ. Đào tạo nhân viên người địa phương không chỉ nên hạn chế trong những công việc đơn giản, có vị trí thấp và mức lương thấp. Việc đào tạo nhân viên trong đó có lồng ghép vấn đề du lịch bền vững vào thực tiễn công việc, cùng với việc tuyển dụng lao động địa phương vào mọi cấp sẽ làm tăng chất lượng du lịch. 1.2.9. Tăng cường quảng bá, tiếp thị du lịch một cách có trách nhiệm Tiếp thị và quảng cáo là những vũ khí lợi hại cho việc bán thành công bất cứ sản phẩm nào. Phát triển bền vững dựa trên sự tiếp thị đầy đủ và trung thực các thông tin về sản phẩm, bao gồm cả tác động của chúng đối với nhân viên và môi trường. Điều đó nhằm nâng cao chất lượng môi trường tự nhiên, nhân tạo và mức sống có tính đến giá thành của những giá trị môi trường. Nó xét đến nhu cầu của các thế hệ hiện tại và mai sau. Chiến lược tiếp thị đối với du lịch bền vững bao gồm việc xác định, đánh giá và luôn rà soát lại mặt cung của những tài nguyên thiên nhiên và nhân văn và những nguồn lực khác, cũng như khía cạnh cung - cầu. Do sự tăng trưởng của du lịch và sự hoán vị của các điểm tham quan mà tiếp thị du lịch đặc biệt có tính chất cạnh tranh. Nó mang tính chất độc nhất và người tiêu thụ mua sản phẩm một cách “mù” vì người ta không thể khảo sát điểm tham quan trước khi mua, do đó, người tiêu thụ đến với sản phẩm và tiêu thụ nó ngay tại nguồn, chứ không phải ngược lại. Tiếp thị và quảng cáo du lịch một cách đầy đủ và có trách nhiệm giúp nâng cao hiểu biết, sự cảm kích, lòng tôn trọng văn hoá và môi trường địa phương, và cũng làm tăng sự thoả mãn toàn diện của du khách. 1.2.10. Thường xuyên tiến hành công tác nghiên cứu Để ngành du lịch phát triển và tồn tại một cách bền vững, điều cốt yếu là cần có dự đoán vấn đề và nắm được trước chi phí giải quyết vấn đề. Tốc độ phát triển nhanh của du lịch tại những khu vực dễ bị tổn thương về mặt môi trường, kinh tế và xã hội, những môi trường này thường có ít số liệu do khó khăn trong việc thu thập, cho thấy rằng cần cấp bách nghiên cứu cơ bản hơn nữa để đảm bảo không chỉ cho hiệu quả kinh doanh mà còn cho sự phát triển bền vững trong mối quan hệ với cơ chế, chính sách, với việc bảo vệ tài nguyên,
  19. môi trường. Việc nghiên cứu toàn diện đòi hỏi sự phối hợp giữa ngành du lịch với các trường đại học, các viện nghiên cứu, chính phủ, các tổ chức phi chính phủ về tiềm năng, kĩ năng nghiên cứu và tổ chức cũng như thiện chí về chính trị, sự trung thực và cam kết về nghiệp vụ. Tiếp tục nghiên cứu và giám sát ngành du lịch thông qua việc sử dụng và phân tích có hiệu quả các số liệu là cần thiết để giúp cho việc giải quyết những vấn đề còn tồn đọng và mang đến lợi ích cho các điểm tham quan, cho cộng đồng địa phương, cho du lịch và cho du khách. 1.3. Xu hướng phát triển du lịch bền vững Sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật vào cuối thế kỉ XX và đầu thế kỉ XXI làm tăng năng suất lao động, đời sống vật chất của con người ngày càng được đáp ứng đầy đủ, trong khi thời gian lao động giảm bớt. Điều này thúc đẩy nhu cầu về đời sống tinh thần của con người, trong đó nhu cầu về du lịch được đặt lên hàng đầu. Ngày nay, trên phạm vi toàn cầu, du lịch đã trở thành nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống của con người và hoạt động du lịch đang được phát triển một cách mạnh mẽ. Đặc biệt trong hai thập kỷ trở lại đây, ngành du lịch có tốc độ phát triển chưa từng có, tạo được những giá trị kinh tế và lợi nhuận cao, trở thành một ngành kinh tế quan trọng ở nhiều nước trên thế giới. Trước tình hình đó, người ta đã báo động về một xu hướng phát triển du lịch chỉ với mục tiêu đơn thuần về kinh tế mà không chú ý đến những vấn đề khác, đặc biệt là sự đe doạ huỷ hoại môi trường sinh thái và nguy cơ giá trị văn hoá của các dân tộc bị tàn phá. Xuất phát từ yêu cầu bức xúc này, vấn đề du lịch bền vững được đề cập tới, như một khái niệm mới, thể hiện một đòi hỏi khách quan và rất gay gắt để đảm bảo cho sự phát triển lâu dài, vững chắc của ngành kinh tế du lịch trong thời kỳ mới. Xu hướng phát triển của du lịch bền vững không phải là một hiện tượng có tính nhất thời, một hoạt động có tính phong trào mà là một đòi hỏi khách quan của thời đại, có ý nghĩa quan trọng không chỉ về mặt kinh tế, lợi nhuận của bản thân du lịch, mà sâu xa hơn còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển bền vững của xã hội, của quốc gia, của cộng đồng trong quan hệ với việc khai thác tài nguyên và môi trường tự nhiên và văn hoá nhân văn. Với lợi thế đặc biệt về địa lí kinh tế và chính trị, tài nguyên du lịch phong phú, đa dạng, nguồn nhân lực dồi dào, cần cù, mến khách, đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng
  20. mở và đa dạng hoá cùng những chính sách đổi mới quản lý, phát triển du lịch,Việt Nam có nhiều thuận lợi để phát triển du lịch. Đặc biệt, từ ngày 09/11/2006, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới, nguồn vốn đầu tư, các nhà đầu tư và du khách sẽ đổ vào Việt Nam nếu được khơi luồng tốt. Nếu như năm 1990, du lịch Việt Nam mới đón được 250.000 lượt khách quốc tế và trên một triệu lượt khách du lịch nội địa thì đến năm 2005 đã đón được trên 3,6 triệu lượt khách quốc tế và trên 16,5 triệu lượt khách du lịch nội địa với thu nhập du lịch đạt gần 2 tỉ USD. Du lịch Việt Nam đang có những chuyển biến lớn lao với những bước tiến quan trọng cả về lượng và chất. Chúng ta đang đứng trước một xu thế phát triển du lịch rất mạnh mẽ với sự lựa chọn bắt buộc là phải sử dụng có trách nhiệm các nguồn lực của mình, đặc biệt là tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn. Chúng là nguồn lực cơ bản, quyết định sự phát triển du lịch. Đối với nước ta, việc bảo vệ môi trường cho phát triển du lịch, đồng thời bảo vệ văn hoá, môi trường không bị tác động tiêu cực từ du lịch đang được quan tâm sâu sắc. Xu hướng phát triển du lịch bền vững không chỉ của các nước có nền du lịch phát triển mạnh mẽ mà là của toàn cầu, của mọi quốc gia, trong đó có Việt Nam. 1.4. Kinh nghiệm phát triển du lịch bền vững của Thái Lan và Trung Quốc 1.4.1. Kinh nghiệm của Thái Lan Đối với khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, Thái Lan là một nơi thu hút khách du lịch nhiều nhất chỉ đứng sau Trung Quốc và Malaixia. Thành công mang lại ngoài những lợi thế về tài nguyên du lịch và môi trường hiện có, còn phải kể đến các chính sách, chiến lược phát triển bền vững của quốc gia mà Chính phủ Thái Lan đã áp dụng một cách linh hoạt và có hiệu quả. Trung tâm du lịch Chiang Mai của Thái Lan có nhiều nét tương đồng với tự nhiên và văn hoá Dak Lak trong khai thác du lịch. Đó cũng là vùng cao nguyên với nhiều dân tộc ít người và nghề săn bắn voi. Sự phát triển của ngành du lịch Chiang Mai nói riêng và du lịch Thái Lan nói chung đã cung cấp cho chúng ta những kinh nghiệm quý để phát triển du lịch. Trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội Thái Lan giai đoạn 1997 - 2003, quốc gia này đã tập trung vào hai hướng ưu tiên chính là bảo vệ, bảo tồn các nguồn tài nguyên và tài sản du lịch phục vụ phát triển bền vững lâu dài và để thế giới công nhận là một điểm du lịch nổi tiếng nhưng vẫn giữ được bản sắc riêng của nền văn hoá Thái Lan. Cơ quan Du lịch Quốc gia Thái Lan (TAT) hỗ trợ các cộng đồng bản địa trong việc duy trì sức hấp dẫn của các
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2