intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Bồi dưỡng năng lực tự học và liên hệ thực tế của học sinh trong dạy học chương “Dòng điện xoay chiều” lớp 12 trung học phổ thông

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:138

189
lượt xem
56
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Bồi dưỡng năng lực tự học và liên hệ thực tế của học sinh trong dạy học chương “Dòng điện xoay chiều” lớp 12 trung học phổ thông nghiên cứu phương pháp bồi dưỡng năng lực tự học và liên hệ thực tế của học sinh trong dạy học chương “Dòng điện xoay chiều” nhằm phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Bồi dưỡng năng lực tự học và liên hệ thực tế của học sinh trong dạy học chương “Dòng điện xoay chiều” lớp 12 trung học phổ thông

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH NGUYỄN KIM DŨ BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC TỰ HỌC VÀ LIÊN HỆ THỰC TẾ CỦA HỌC SINH TRONG DẠY HỌC CHƯƠNG “DÒNG ĐIỆN XOAY CHIỀU” LỚP 12 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học môn Vật lý Mã số: 60.14.10 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. PHẠM THẾ DÂN Thành phố Hồ Chí Minh – 2007
  2. Lời cảm ơn  Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn các thầy cô trong tổ Phương Pháp Giảng Dạy, Khoa Vật Lý, Phòng Khoa Học Công Nghệ Sau Đại Học trường Đại Học Sư Phạm Thành Phố Hồ Chí Minh đã khuyến khích, quan tâm giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong thời gian học tập và thực hiện đề tài. Đặc biệt, tôi xin trân trọng cảm ơn thầy TS. Phạm Thế Dân - người đã trực tiếp khuyến khích, hướng dẫn tôi thực hiện hoàn thành đề tài bằng tất cả sự tận tình và trách nhiệm. Nhân dịp này tôi cũng xin cảm ơn Ban Giám Đốc Sở Giáo Dục – Đào Tạo tỉnh Tiền Giang, Ban Giám Hiệu các trường PTTH Dưỡng Điềm, PTTH Đốc Binh Kiều, PTTH Nguyễn Đình Chiểu tỉnh Tiền Giang, thầy Nguyễn Văn Trí hiệu trưởng trường PTTH Dưỡng Điềm tạo điều kiện cho việc thực hiện đề tài. Thành phố Hồ Chi Minh tháng 9 năm 2007 
  3. NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN THPT Trung học phổ thông SGK Sách giáo khoa PPGD Phương pháp giảng dạy TB Trung bình Gv Giáo viên Hs Học sinh DĐXC Dòng điện xoay chiều DĐĐH Dao động điều hòa Cđdđ Cường độ dòng điện Hđt Hiệu điện thế 
  4. MỞ ĐẦU I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Trước những đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng nguồn nhân lực phục vụ cho thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước ta, mọi người cần phải không ngừng phấn đấu học tập ; biết phát huy nội lực, thể hiện được bản lĩnh hoạt động cá nhân ; biết vận dụng kiến thức khoa học vào cuộc sống, không tư duy và hành động theo những khuôn mẫu sẵn có. Vì vậy, những phẩm chất và năng lực về tính tự lực, tính tích cực hoạt động, sự tư duy sáng tạo của con người cần phải được rèn luyện và bồi dưỡng ngay từ khi còn học ở trường phổ thông. Vấn đề này cũng đã được đưa vào Luật giáo dục ban hành năm 2005. Chương I, Điều 5 về phương pháp giáo dục nêu rõ: “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học ; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên” [22, tr.25]. Để đáp ứng mục tiêu này, trong những năm qua, nền giáo dục nước ta có nhiều đổi mới: từ đổi mới chương trình, đổi mới sách giáo khoa, đến đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Trong đó, việc đổi mới phương pháp giảng dạy đã được nhiều nhà giáo dục học nghiên cứu và thử nghiệm. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại những vấn đề mà chúng ta chưa thể giải quyết như: - Lối truyền thụ một chiều từ thầy đến trò vẫn được duy trì ở nhiều nơi và ở các cấp học. Các hoạt động tự học của học sinh như: tự tìm hiểu kiến thức, tự thao tác thực hành, tự phát hiện và giải quyết vấn đề không được giáo viên chú trọng. Do đó tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh trong quá trình tiếp thu kiến thức không được phát huy. - Giảng dạy thiên về lý thuyết. Nội dung giảng dạy gò bó theo sách giáo khoa. Điều kiện để học sinh mở rộng kiến thức, ứng dụng kiến thức không được quan tâm. Mối liên hệ giữa kiến thức vật lý được học ở nhà trường và những ứng dụng của các kiến thức đó trong đời sống, vì vậy, chỉ hình thành một cách mờ nhạt. - Cách đánh giá kết quả học tập vẫn được thực hiện theo phương pháp giảng dạy truyền thống, chủ yếu dựa vào kết quả các bài kiểm tra viết mà không dựa trên những sáng kiến, sáng tạo của học sinh.
  5. Xuất phát từ những vấn đề trên, chúng tôi chọn đề tài “Bồi dưỡng năng lực tự học và liên hệ thực tế của học sinh trong dạy học chương dòng điện xoay chiều” làm đề tài nghiên cứu luận văn. II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU: Nghiên cứu phương pháp bồi dưỡng năng lực tự học và liên hệ thực tế của học sinh trong dạy học chương “Dòng điện xoay chiều” nhằm phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh, đồng thời hiện thực hóa phương châm “Học đi đôi với hành”, tạo mối liên kết giữa kiến thức được học và vận dụng kiến thức trong đời sống. III. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: 1. Khách thể nghiên cứu: Học sinh lớp 12 THPT trong quá trình học chương “Dòng điện xoay chiều”. 2. Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động học của học sinh nhằm bồi dưỡng năng lực tự học và liên hệ thực tế trong quá trình dạy và học chương “Dòng điện xoay chiều”. IV. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC: Việc tổ chức hoạt động dạy và học theo hướng giúp học sinh tự tìm hiểu kiến thức và giải quyết những vấn đề liên quan đến thực tế trong dạy học chương “Dòng điện xoay chiều” sẽ góp phần hình thành năng lực tự học và liên hệ thực tế của học sinh. V. PHẠM VI NGHIÊN CỨU: Nghiên cứu sử dụng các phương pháp dạy học tích cực, các yếu tố của phương pháp dạy học có thể giúp học sinh bồi dưỡng năng lực tự học và liên hệ thực tế trong quá trình dạy học chương “Dòng điện xoay chiều” của lớp 12 ở một số trường THPT thuộc tỉnh Tiền Giang. VI. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU: 1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc lựa chọn, sử dụng phương pháp dạy học vật lý theo hướng bồi dưỡng năng lực tự học và liên hệ thực tế của học sinh. 2. Nghiên cứu nội dung kiến thức có liên quan đến chương “Dòng điện xoay chiều” và những kiến thức cơ bản mà học sinh cần phải nắm vững trước và sau khi học xong chương này. 3. Tìm hiểu thực trạng dạy và học chương “Dòng điện xoay chiều” ở trường THPT. Đánh giá hiệu quả sử dụng các phương pháp dạy học, phương tiện dạy học để phát hiện những khó khăn của học sinh và nguyên nhân của những khó khăn đó trong quá trình học tập.
  6. 4. Biên soạn một số câu hỏi lý thuyết, câu hỏi liên quan thực tế và bài tập của chương “Dòng điện xoay chiều” nhằm bồi dưỡng năng lực tự học của học sinh và giúp học sinh liên kết được kiến thức đã học với những ứng dụng trong thực tế. 5. Soạn thảo tiến trình dạy học 8 bài của chương “Dòng điện xoay chiều” theo hướng bồi dưỡng năng lực tự học và liên hệ thực tế của học sinh. 6. Tiến hành thực nghiệm sư phạm tiến trình dạy học đã soạn thảo để xác định mức độ phù hợp, tính khả thi, hiệu quả của từng tiến trình đối với việc rèn luyện tính tích cực nhận thức, tự tìm hiểu vấn đề và liên hệ thực tế của học sinh trong quá trình học tập nhằm nâng cao chất lượng dạy và học chương “Dòng điện xoay chiều”. VII. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 1. Nghiên cứu lý luận: - Đọc và tìm hiểu lý luận từ sách, báo, tạp chí, văn bản, nghị quyết để làm sáng tỏ quan điểm đề tài hướng dẫn học sinh tự tìm hiểu và giải quyết vấn đề trong dạy học vật lý nói chung, trong chương “Dòng điện xoay chiều” nói riêng. - Nghiên cứu chương trình, nội dung SGK, sách giáo viên và các tài liệu liên quan, xác định nội dung các kiến thức mà học sinh cần phải nắm vững từ những kiến thức đã học, để học sinh có thể tự tìm hiểu và có thể ứng dụng vào những lĩnh vực sâu rộng hơn. 2. Điều tra khảo sát: Tìm hiểu việc dạy và học thông qua dự giờ, trao đổi với giáo viên và học sinh ở trường THPT. Lập phiếu điều tra khảo sát, phân tích kết quả khảo sát nhằm đánh giá sơ bộ tình hình dạy học phần dao động điện nói chung và chương “Dòng điện xoay chiều” nói riêng. 3. Thực nghiệm sư phạm: Tiến hành giảng dạy ở trường THPT theo phương án đã soạn thảo, nhằm khẳng định tính khả thi của việc lựa chọn phương pháp dạy học, các biện pháp sư phạm đã sử dụng với mục đích bồi dưỡng năng lực tự học và liên hệ thực tế của học sinh. So sánh, phân tích kết quả học tập và hoạt động học tập giữa lớp thực nghiệm và lớp đối chứng (Lớp không giảng dạy theo phương án đã soạn) để đánh giá thực nghiệm sư phạm, từ đó rút ra kết luận của đề tài.
  7. CHƯƠNG 1:CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC TỰ HỌC VÀ LIÊN HỆ THỰC TẾ CỦA HỌC SINH 1.1 HOẠT ĐỘNG DẠY VÀ HỌC VẬT LÝ THEO HƯỚNG TỰ HỌC CỦA HỌC SINH. 1.1.1 Mục đích và ý nghĩa của hoạt động dạy và học vật lý theo hướng tự học của học sinh. Chúng ta thường rất tự hào về truyền thống “hiếu học” của cha ông chúng ta. Nói đến “hiếu học” là nói đến tính ham học hỏi và tự giác học hỏi, biết tự vượt qua được mọi khó khăn để tìm lấy tri thức và chiếm lĩnh tri thức. Ngày xưa khi chưa có các tiện nghi về trường lớp, cơ sở vật chất như ngày nay và đội ngũ những người làm thầy còn rất ít thì đã có rất nhiều người thành công trong học vấn bằng việc tự học, tự tìm tòi nghiên cứu. Nêu điều này để thấy rằng không nhất thiết học sinh phải đến lớp và người dạy phải đứng trên bục giảng thì quá trình lĩnh hội tri thức mới diễn ra, quá trình này có thể diễn ra ở bất cứ đâu: có thể trên lớp cũng có thể ngoài lớp và dưới nhiều hình thức dạy và học khác nhau: có mặt thầy hoặc không có mặt thầy. Quá trình học tập mà người thầy chỉ đóng vai trò tổ chức, hướng dẫn, còn người học làm chủ các hoạt động tìm tòi, tư duy để hiểu và nắm vững kiến thức là quá trình tự học. Một trong những mục tiêu của nền giáo dục nước ta là bồi dưỡng cho con người có tinh thần khai phá, năng lực tự mưu sinh để trở thành con người tự lực, thích ứng với sự biến đổi của xã hội. Vì vậy, bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh có vai trò rất quan trọng trong quá trình giáo dục nhận thức của học sinh. Bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh được thể hiện qua các quá trình: - Bồi dưỡng cho học sinh có ý thức tự giác, có thái độ tích cực trong học tập, biết nhận thức vấn đề qua quá trình tư duy. - Giúp học sinh tự tạo ra cho mình nhu cầu, động cơ, hứng thú trong học tập, nâng cao ý chí và huy động sức lực vượt qua những khó khăn để tiếp thu tri thức, rèn luyện những kỹ năng, kỹ xảo trong thao tác thực hành. - Rèn luyện cho học sinh thói quen làm việc độc lập, thói quen tự học, tự nghiên cứu khoa học. Năng lực tự học tiềm ẩn trong mọi người và là cơ sở để con người có thể học trên nhiều lĩnh vực và học suốt đời. UNESCO đã nhấn mạnh trong báo cáo của mình: “Để thích ứng được
  8. với những biến chuyển nhanh chóng của xã hội hiện đại, mọi người đều cần phải học tập suốt đời. Học tập suốt đời được hiểu là quá trình học tập xuyên suốt cả đời người, ở nhà trường, gia đình và xã hội, cả chương trình giáo dục chính quy lẫn chương trình giáo dục không chính quy, trong đó mỗi cá nhân thu nhận và tích lũy được tri thức, kỹ năng, thái độ và trải nghiệm trong cuộc sống của mình. Nhân tố quyết định để có thể học tập suốt đời là năng lực tự học, năng lực tư duy và năng lực hợp tác phát hiện và giải quyết vấn đề”[23, tr.10]. Có thể nói quá trình tự học là quá trình đòi hỏi học sinh hoạt động nhiều nhất cả trí óc lẫn tay chân, đặc biệt là hoạt động trí óc. Việc động não nhiều sẽ tập cho học sinh quen dần với tác phong làm việc độc lập và việc tự mình phải đưa ra được câu trả lời cho vấn đề đang tìm hiểu sẽ giúp các em hai điều: một là ghi nhớ kiến thức lâu dài mà không phải mất nhiều thời gian đọc đi, đọc lại để thuộc lòng; hai là hình thành trong ý thức các mối liên hệ giữa vấn đề đang tìm hiểu với những vấn đề khác đã biết, nhờ đó có thể vận dụng nó vào thực tiễn một cách hiệu quả. Sự tự hỏi mình trong quá trình tự học cũng có thể mất nhiều thời giờ, và cho dù không đạt kết quả, vẫn rất bổ ích vì đó là một quá trình rèn luyện tư duy và nhân cách, đồng thời cũng là một quá trình mà kiến thức hay vấn đề dù chưa tìm ra câu trả lời, nhưng cũng chớm hình thành trong đầu óc những khái niệm ban đầu, giúp học sinh nhanh chóng tiếp thu khi được thầy giải đáp. Vì có sự chuẩn bị tốt, học sinh sẽ đặt được nhiều câu hỏi có giá trị với người dạy, sẽ không có những câu hỏi ngây ngô hoặc không biết hỏi gì, tạo một không khí học tập sinh động trong giờ lên lớp. Người học tự học, tự nghiên cứu, hợp tác với các bạn dưới sự hướng dẫn của thầy để tự mình chiếm lĩnh tri thức bằng hành động của chính mình, do đó có hứng thú và động cơ học tập. Để tự giải quyết hiệu quả một vấn đề, người học phải có nhiều hoạt động ngoài nhà trường như thu thập thông tin, tham khảo tư liệu từ sách, báo, mạng Internet và từ bạn bè, từ những người hiểu biết hơn xung quanh mình. Từ đó, hình thành ở các em những kỹ năng giao tiếp con người, giao tiếp xã hội, biết tự đánh giá để phân biệt đúng sai một vấn đề và dần hình thành được nhân cách con người lao động tự chủ, năng động và sáng tạo. Vật lý học ở trường phổ thông là môn học cung cấp những kiến thức nhằm giải thích các hiện tượng tự nhiên, tìm ra những quy luật của tự nhiên để cuối cùng vận dụng nó vào việc cải tạo tự nhiên nhằm mục đích phục vụ cho sự phát triển loài người. Người học vật lý có thể xem
  9. như người tham gia vào nghiên cứu khoa học, và cho dù những nghiên cứu khoa học này chỉ ở tầm mức cơ bản thì vẫn cần có sự nỗ lực tìm tòi, tự hoạt động sáng tạo của người tham gia. Như vậy, bồi dưỡng năng lực tự học vật lý cho học sinh phổ thông cũng đồng nghĩa với việc dọn đường cho các em chuẩn bị bước vào nghiên cứu khoa học sau này. Tất cả những lý thuyết của vật lý đều xuất phát từ quá trình thí nghiệm hoặc được xây dựng trên cơ sở các thí nghiệm. Chính vì vậy, người học vật lý phải biết tự hoạt động, cả hoạt động trí óc lẫn hoạt động chân tay thì mới thu nhận được kiến thức đầy đủ. Ngay như các thí nghiệm trên lớp, nếu chỉ để thầy thực hiện, trò thụ động quan sát thì người học mất cơ hội trải qua những thử thách, những tình huống phức tạp trong quá trình thí nghiệm, mà qua đó thể hiện được năng lực thực hành, năng lực xử lý tình huống, đồng thời nắm vững vấn đề hơn, phát hiện được nhiều điều lý thú, nảy sinh nhiều ý tưởng sáng tạo. Hơn nữa, vì tính logic khoa học, người học vật lý phải cùng tham gia vào quá trình tìm hiểu thì mới cảm nhận sâu sắc ý nghĩa của nội dung bài học. Có những định luật vật lý mà các nhà khoa học đã phải mất nhiều năm để tìm ra và hiểu nó thì không thể trong một khoảnh khắc được nghe người dạy trình bày là người học cảm nhận được tấ cả. Muốn giải quyết hiệu quả một vấn đề vật lý đôi khi đòi hỏi người tham gia giải quyết phải đúc kết từ những kinh nghiệm bản thân, phải phối hợp nhiều kỹ năng cá nhân đã được rèn luyện. Người tham gia giải quyết vấn đề vật lý hay người học vật lý không thể trông đợi hoàn toàn vào kinh nghiệm và kỹ năng của người khác, vì nếu thế thì bản thân người học sẽ không thể hiện được vai trò hữu ích gì trong cộng đồng và sẽ không có được những kinh nghiệm và kỹ năng gì cho bản thân để sau này có thể tiếp tục thực hiện công việc khác. Những kinh nghiệm và kỹ năng của người khác chỉ mang tính chất tham khảo và hỗ trợ. Việc nắm vững kiến thức vật lý còn đòi hỏi học sinh phải biết tư duy, và để tư duy thì cần phải có thời gian. Đối với học sinh giỏi, thời gian để tư duy có thể ngắn, các em có thể tiếp thu kiến thức ngay tại lớp, nhưng đối với học sinh trung bình-khá, mà học sinh dạng này lại chiếm đa số, thì thời gian cần lâu hơn, các em hầu như không tiếp thu một cách trọn vẹn kiến thức tại lớp. Một tiết học vật lý ở trường phổ thông hiện nay là 45 phút cho một bài học. Nếu trừ ra thời gian chuẩn bị tiết học của giáo viên, trừ ra thời gian kiểm tra kiến thức cũ thì thời gian cho một bài học mới chỉ còn khoảng từ 37 đến 38 phút. Trong khoảng thời gian ngắn như vậy, để hình thành một khái niệm vật lý mới trong nhận thức của các em từ chưa biết đến biết là
  10. điều hết sức khó khăn. Nên chăng cần có sự chuẩn bị trước, nghĩa là học sinh phải tự mình tìm hiểu vấn đề ở nhà trước khi đến lớp. Sự chuẩn bị trước, ít hay nhiều cũng tạo ra được một nền tảng cơ bản của khái niệm trong nhận thức, có như vậy thì việc tiếp thu kiến thức mới sẽ diễn ra nhanh chóng hơn, phù hợp với thời gian tiết học hơn. Từ các phân tích trên chúng ta thấy rằng để học tốt môn vật lý, học sinh phải biết tự học, tự tìm hiểu vấn đề trước khi nhận được sự giúp đỡ và hướng dẫn của thầy. Như vậy, tự học là con đường tạo ra tri thức bền vững cho mỗi con người trong qua trình học hỏi thường xuyên của cả cuộc đời. Quá trình tự học diễn ra đúng quy luật của hoạt động nhận thức. Kiến thức tự học là kết quả của hứng thú, của tìm tòi, của lựa chọn, của định hướng ứng dụng. Kiến thức tự học bao giờ cũng vững chắc, bền lâu, thiết thực và nhiều sáng tạo. Tự học nên được xem là một vấn đề then chốt của giáo dục và đào tạo, đồng thời cũng là một vấn đề có ý nghĩa văn hóa, khoa học, xã hội và chính trị sâu sắc. Đề cao tự học trong bối cảnh hiện nay của đất nước và thế giới là một cách nhìn vừa thực tế, vừa có ý nghĩa chiến lược. Đặc biệt, việc đề cao tự học đối với học sinh phổ thông là việc làm hết sức cần thiết góp phần khắc phục tình trạng học thụ động, học vẹt hiện nay của các em. Nhìn chung tự học là lối học tiết kiệm được nhiều thì giờ nhất mà hiệu quả cao nhất về cả ba mặt kiến thức, tư duy và nhân cách. 1.1.2 Hoạt động tự học vật lý của học sinh. Theo Giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn: “Cốt lõi của học là tự học” và “… khi nói tự học là chỉ xét riêng nội lực ở người học”[40, tr.60]. Như vậy, học sinh ôn bài ở nhà là một hoạt động tự học, phải suy nghĩ trả lời câu hỏi của thầy là một hoạt động tự học, tự tra cứu sách vở để giải đáp thắc mắc của chính bản thân cũng là một hoạt động tự học. Có nhiều hình thức hoạt động tự học khác nhau nhưng nhìn chung, ta có thể phân ra hai dạng hoạt động tự học, đó là: tự học có sự hướng dẫn của thầy và tự học hoàn toàn. 1.1.2.1 Tự học có sự hướng dẫn của thầy. Trong tự học có sự hướng dẫn của thầy, giáo viên phải dạy cho người học cách tìm lấy kiến thức và làm chủ kiến thức. Nhưng vì sao phải dạy cho người học tìm lấy và làm chủ kiến thức ? Đó là vì những nhân tố quyết định sự thành công trong dạy và học theo hướng tự học mà giáo viên phải giúp học sinh những điều sau đây:
  11.  Chọn lọc kiến thức: Kiến thức khoa học nói chung và kiến thức vật lý nói riêng là một biển kiến thức mênh mông và hiển nhiên là mới lạ và khó hiểu đối với học sinh. Do mục tiêu học và thời gian học của một khóa học hay một cấp, bậc học mà người học không thể thu nhận hết tất cả các kiến thức hoặc đi sâu tìm hiểu một kiến thức nào đó, nghĩa là phải có sự chọn lọc, vấn đề nào đang cần và vấn đề nào chưa cần.  Nắm bắt kiến thức: Để thâm nhập vào một vấn đề vật lý nào đó cần có sự gợi ý ban đầu của giáo viên, nghĩa là cần có sự hỗ trợ nhất định từ người thầy. Bản thân học sinh, nhất là các em không phải là học sinh giỏi, thường không thể tự tìm hiểu sâu nội dung vấn đề bằng hình thức tự đọc các tài liệu hay sách giáo khoa. Mức độ nhận thức ý nghĩa một câu nói, một câu phát biểu còn tùy thuộc vào năng lực trí tuệ của các em. Khi đọc qua một định nghĩa vật lý, một khái niệm vật lý hay một định luật vật lý, học sinh có thể gặp phải một trong những khó khăn sau: - Không nắm được câu phát biểu hàm chứa bao nhiêu ý và ý nào là ý chính, ý nào là ý phụ. - Không hiểu được ngữ nghĩa của những từ và cụm từ mang tính chuyên môn như: pha dao động, tác dụng tương hỗ, cộng hưởng, …. - Không hình dung được hiện tượng vì chưa từng thấy những biểu hiện của hiện tượng trong thực tế như: hiện tượng giao thoa sóng. Khi đó, người dạy sẽ bằng những câu hỏi dẫn dắt giúp người học khám phá vấn đề và nắm bắt nó.  Tạo niềm tin khoa học: Cho dù trên cơ sở suy luận, người học có thể nhận thức được sự đúng đắn của một vấn đề vật lý, tuy nhiên vẫn cần có sự củng cố niềm tin. Những yếu tố giúp người học củng cố niềm tin bao gồm: sự trùng khớp với suy luận của bạn bè, kết quả từ thí nghiệm và sự khẳng định của người dạy. Chỉ khi có niềm tin thì người học mới thực sự làm chủ kiến thức.  Định hướng hoạt động: Muốn việc tự học đạt hiệu quả cao thì người học cần có một phương pháp hoạt động tự học hợp lý. Nếu người học hoạt động không theo một phương pháp nào sẽ dẫn đến tình trạng lẩn quẩn, lúng túng trong quá trình tự tìm hiểu vấn đề. Hoạt động có phương pháp vừa mang lại lợi ích cho cá nhân vừa mang lại lợi ích cho tập thể. Đặc biệt, khi
  12. người học học theo trường lớp, hoạt động học tập của cá nhân này có thể ảnh hưởng đến hoạt động học tập của các cá nhân khác. Khi này, giáo viên sẽ là người chỉ đạo, định hướng chung. Để thuận lợi trong việc quản lý, đánh giá kết quả học tập của từng học sinh, cũng như tạo được sự cạnh tranh để thi đua, phấn đấu trong học tập, giáo viên sẽ đưa ra phương pháp hoạt động mang tính thống nhất cho cả lớp học. Phương pháp mà chúng tôi thấy hợp lý cho mọi đối tượng học sinh, có thể thực hiện được trong mọi hoàn cảnh và điều kiện cơ sở vật chất, đó là giáo viên biên soạn sẵn các câu hỏi gợi ý cho từng bài và yêu cầu học sinh tìm hiểu từ sách giáo khoa, các sách tham khảo và tài liệu do giáo viên giới thiệu để trả lời các câu hỏi đó. Sau đó, học sinh sẽ trình bày những tìm hiểu của mình trước lớp. Chi tiết cho quá trình này chúng tôi sẽ đề cập trong mục 1.1.3 1.1.2.2 Tự học hoàn toàn. Trong một số điều kiện và hoàn cảnh đặc biệt, người học không thể thường xuyên đến lớp, phải tự học không có sự hướng dẫn của thầy, khi đó người học phải tự tiến hành hoạt động của mình bằng cả ý chí và năng lực trí tuệ, bằng vốn kinh nghiệm của cá nhân để hướng tới làm thay đổi chính mình. Người học chỉ gặp mặt thầy khi tập trung sau một đợt học hay một kỳ học nào đó nhằm kiểm tra, đánh giá các kết quả quá trình tự học được gọi là tự học hoàn toàn. Ưu điểm của tự học hoàn toàn là người học có nhiều sáng tạo nảy sinh trong quá trình tự tìm hiểu ; học được tính tự tin vì phải tự giải thích vấn đề và tự khẳng định những kết luận rút ra từ những bài học theo lập luận cá nhân ; rèn cho người học tính vượt khó vì trong tự học hoàn toàn người học sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc tìm lấy kiến thức. Hệ quả của những ưu điểm trên là người học khi bước vào thực tế, áp dụng các kiến thức đã học sẽ không lúng túng khi tự mình phải giải quyết một vấn đề phức tạp. Nhược điểm của tự học hoàn toàn là người học sẽ mất nhiều thời gian hơn để tìm lấy kiến thức so với những người tự học có sự hướng dẫn của thầy. Trong tự học hoàn toàn cũng thiếu tính cạnh tranh, người học dễ tự mãn với những gì đạt được do không có một đối tượng nào khác để so sánh. Một nhược điểm lớn nhất trong tự học hoàn toàn là người học có thể hiểu lệch một vấn đề, hoặc nắm một vấn đề chưa thật toàn diện với những khía cạnh và tính chất vốn có của nó. Vì những nhược điểm trên, trong luận văn này chúng tôi chủ trương không khuyến khích tự học hoàn toàn mà chỉ đi sâu vào phương pháp tự học có sự hướng dẫn của thầy.
  13. 1.1.2.3 Điều kiện cho hoạt động tự học của học sinh. Hoạt động tự học là một hoạt động đòi hỏi nhiều nỗ lực, sự chuyên cần, sự ham thích của chủ thể. Đáp ứng được những điều này, đối với học sinh phổ thông, cần phải có những điều kiện thiết yếu như: phải nhận thức đúng tầm quan trọng của tự học, phải có động lực tự học và phải có tài liệu để tự học. Nhận thức về tầm quan trọng của tự học. Chúng ta thường không thiết tha tham gia công việc hoặc nếu có tham gia cũng không làm đến nơi đến chốn khi không xác định được tầm quan trọng của công việc. Do đó, điều kiện đầu tiên cho hoạt động tự học chính là nhận thức đúng tầm quan trọng của tự học. Nhận thức đúng dẫn đến hành động đúng. Hành động là kết quả của nhận thức. Người học chỉ có thể tiến hành tự học một cách tự giác khi hiểu được tầm quan trọng của tự học. Để nâng cao nhận thức cho học sinh về tầm quan trọng của tự học, giáo viên phải là người thường xuyên giáo dục cho các em hiểu mục đích của tự học qua các hoạt động: - Giao công việc cụ thể cho từng cá nhân và từng nhóm. Chỉ định người đại diện nhóm trình bày vấn đề, không để trong nhóm cử đại diện dễ dẫn đến tình trạng chỉ một số học sinh thực sự tham gia hoạt động tự học, một số khác có khuynh hướng trông chờ, ỷ lại, đối phó với sự may rủi. - Khen ngợi, biểu dương thành quả hoạt động tự học của cá thể hoặc của cá thể trong sự hợp tác của nhóm. Những tư tưởng thụ động, trông chờ và ỷ lại vào người khác cần phải bị phê phán nghiêm khắc. - Rèn luyện thói quen tự học cho học sinh bằng việc theo dõi sát sao, kiểm tra thường xuyên quá trình tự học của các em. Động lực tự học của học sinh. Đối với học sinh phổ thông, việc nhận thức tầm quan trọng của học tập còn phụ thuộc vào người thầy. Do vậy, muốn người học có động lực tự học cần có tác nhân khuyến khích từ người thầy. Mục tiêu cuối cùng của giáo dục là phát triển con người, cho dù muốn đạt được mục tiêu đó phải bằng phương pháp này hay phương pháp khác. Nhưng phương pháp nào cũng cần phải có tác nhân khuyến khích để khơi dậy trí thông minh của người học, kích thích nhằm phát huy tiềm năng của con người.
  14. Hình thức khuyến khích tự học ở trường phổ thông chủ yếu tập trung ở khâu đánh giá kết quả các hoạt động tự học. Việc đánh giá kết quả các hoạt động tự học cần phải công bằng và hợp lý sao cho người thực hiện được nhiều công việc hoặc thực hiện công việc khó khăn hơn thì phải có điểm cao hơn những người thực hiện công việc nhẹ nhàng hơn hoặc ít hơn. Do đó, khi phân công cá nhân hoặc tổ nhóm phần công việc, giáo viên phải đưa ra trọng số. Trong quá trình thảo luận tại lớp, những học sinh nào tích cực phát biểu và phát biểu hay hoặc nêu những thắc mắc có giá trị cần phải có điểm thưởng. Như vậy, trong việc bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh, cách đánh giá kết quả học tập nói chung sẽ khác so với phương pháp dạy và học truyền thống. Giáo viên không chỉ căn cứ vào điểm số của các bài kiểm tra viết để đánh giá mà còn phải căn cứ vào hoạt động cụ thể của các em trong giờ học. Theo cách đánh giá do Bộ Giáo Dục và Đào Tạo quy định đối với chương trình vật lý 12 THPT, trong một học kỳ, mỗi học sinh có 4 cột điểm hệ số 1 và 2 cột điểm hệ số 2. Chúng tôi đề nghị, thay vì các cột điểm hệ số 1 được xét dưới hình thức kiểm tra miệng và kiểm tra viết, sẽ thay bằng hình thức đánh giá kết quả công việc được giao, số lần trả lời đúng, số lần phát biểu đúng hoặc có những câu hỏi hay. Các cột điểm hệ số 2 vẫn được xét dưới hình thức kiểm tra viết như hiện nay. Tài liệu. Tài liệu là vấn đề then chốt trong quá trình tự học của học sinh vì nó đóng vai trò như một người thầy khi không có mặt thầy. Tài liệu phải bao gồm sách giáo khoa, sách tham khảo, các địa chỉ truy cập Internet và các địa chỉ tham quan. Tên sách tham khảo và những địa chỉ trên mạng do giáo viên cung cấp, và đây là phần mà giáo viên phải chuẩn bị kỹ, giáo viên càng chuẩn bị kỹ phần này thì hiệu quả của việc tự học qua tài liệu càng cao, học sinh sẽ không mất nhiều thời gian tìm kiếm nhưng lại có nhiều thông tin cần thiết. Một tài liệu chuẩn cần phải thỏa mãn những yêu cầu sau: - Xác thực với nội dung, vấn đề đang tìm hiểu. - Phù hợp với đối tượng nghiên cứu. - Có tính cập nhật. 1.1.3 Hoạt động dạy vật lý nhằm bồi dưỡng năng lực tự học của hs 1.1.3.1 Nhiệm vụ của giáo viên.
  15. Trong hoạt động dạy vật lý nhằm bồi dưỡng năng lực tự học của học sinh, người giáo viên ngoài vai trò là người truyền đạt tri thức còn là người tổ chức, điều khiển, hướng dẫn và giúp đỡ cho học sinh trong việc học tập. Nhiệm vụ của người giáo viên là phải hình thành ở học sinh năng lực tự học, độc lập suy nghĩ, khơi dậy tính hiếu kỳ, sự say mê tìm tòi để các em thực sự hứng khởi khi đi tìm chân lý khoa học. Nhờ đó, phát triển ở học sinh những kỹ năng cơ sở của sự quan sát, thu thập thông tin, đưa ra những suy luận, phán đoán và kết luận. Những công việc cụ thể của giáo viên trong việc tổ chức và điều khiển hoạt động tự học vật lý của học sinh bao gồm:  Chuẩn bị nhiều tình huống có vấn đề đưa ra cho học sinh tự lực xử lý. Ứng với mỗi tình huống là một hình thức hoạt động học tập như: tiến hành thí nghiệm, tra cứu tài liệu, thảo luận nhóm, phát biểu cá nhân, …  Kiểm soát diễn biến hoạt động tự học của học sinh và cho kết luận cuối cùng, mục đích là để giúp người học tìm ra chân lý.  Tác động người học tham gia một cách tích cực vào quá trình học tập. Về mặt tâm lý, không phải tất cả hs đều sẵn sàng hưởng ứng, tham gia vào các hoạt động học tập do giáo viên đề ra, đặc biệt là các hoạt động mang tính tập thể. Do đó, giáo viên cần phải có biện pháp tác động để mọi người đều phải tham gia. 1.1.3.2 Tổ chức hoạt động tự học vật lý của học sinh. Xuất phát từ những yêu cầu về nhiệm vụ của giáo viên, việc tổ chức hoạt động tự học vật lý của học sinh được thực hiện qua bốn công đoạn sau: 1. Giao nhiệm vụ cho học sinh. 2. Theo dõi hoạt động tự học của học sinh. 3. Tổ chức thảo luận đề tài. 4. Tổng kết, kết luận.  Công đoạn giao nhiệm vụ cho học sinh. Nhiệm vụ mà học sinh phải thực hiện là tự tìm hiểu, nghiên cứu bài học mới. Có hai hình thức giao nhiệm vụ: nhiệm vụ cá nhân và nhiệm vụ tập thể. Nhiệm vụ cá nhân là nhiệm vụ mà tất cả các thành viên trong lớp đều phải thực hiện như nhau, cụ thể là học sinh tìm hiểu nội dung bài học mới theo sự hướng dẫn của giáo viên trước khi đến lớp. Nhiệm vụ tập thể là
  16. nhiệm vụ của một nhóm, như tìm hiểu một số vấn đề ngoài sách giáo khoa nhằm mở rộng kiến thức và liên hệ thực tế. Trong dạy học truyền thống, thông thường người giáo viên yêu cầu học sinh thực hiện việc tự học bằng cách học thuộc lòng bài cũ ở nhà, và trước khi vào bài mới, giáo viên sẽ kiểm tra lại các kiến thức này. Cách dạy này không tạo ra được tính sáng tạo cho học sinh vì hoạt động nhận thức của học sinh chủ yếu là ghi nhớ cái đã có, đã chấp nhận, không có sự tìm tòi cái mới và không đòi hỏi suy nghĩ. Trong phương pháp mới do chúng tôi đề xuất nhằm hướng dẫn học sinh tự học có hiệu quả cũng yêu cầu học sinh tự học ở nhà, nhưng không phải ghi nhớ bài cũ mà tìm hiểu bài mới thông qua hệ thống câu hỏi do giáo viên biên soạn sẵn. Hệ thống câu hỏi và các bài tập áp dụng có thể được in sẵn theo từng đơn vị bài học và phát cho học sinh vào cuối tiết học, hoặc được in sẵn cho cả học kỳ và được phát cho học sinh vào đầu học kỳ. Nó là cơ sở định hướng cho việc đọc và nghiên cứu bài học mới của học sinh. Hệ thống câu hỏi và bài tập phải đảm bảo hướng dẫn học sinh nắm được các khái niệm, kiến thức cơ bản; giúp học sinh vừa thấy được mối quan hệ giữa các phần, các đơn vị kiến thức của bài học vừa thấy được ý nghĩa của bài học với những ứng dụng của nó trong thực tế. Hệ thống câu hỏi và bài tập được thiết kế theo hướng chương trình hóa để giúp học sinh chiếm lĩnh tri thức, rèn luyện kỹ năng vận dụng, thực hành một cách vững chắc, đồng thời cũng rèn cho học sinh phương pháp tư duy logic theo một hệ thống cấu trúc hợp lí. Đáp ứng những yêu cầu này, hệ thống câu hỏi định hướng cho học sinh chuẩn bị bài trước khi lên lớp gồm sáu dạng sau:  Câu hỏi gợi mở. Đây là dạng câu hỏi cơ bản nhất mà học sinh có thể trả lời thông qua việc đọc sách giáo khoa. Mục tiêu của câu hỏi này bao gồm: - Giới thiệu nội dung, cấu trúc bài học. - Giúp học sinh phân loại vấn đề, phân biệt các ý chính và các ý phụ. Như vậy, dạng câu hỏi này nhằm tập cho học sinh biết cách đọc tài liệu.  Câu hỏi để nắm vững kiến thức cơ bản của bài học. Đây là những câu hỏi giúp học sinh tiếp cận nội dung bài học, hiểu được các ngôn từ, cấu trúc nội dung diễn đạt các định nghĩa, định luật vật lý. Để trả lời các câu hỏi này cần có sự động não suy nghĩ hay tư duy, học sinh không thể dựa trên những thông tin có sẵn trong sách giáo khoa mà phải dựa trên những tri thức đã có và những suy luận logic. Dạng câu hỏi này rèn luyện học sinh cách tư duy độc lập.
  17.  Câu hỏi đào sâu nội dung. Đây là những câu hỏi hướng học sinh đi sâu vào bản chất của các định lý, định luật vật lý. Để trả lời các câu hỏi đào sâu nội dung, học sinh phải tra cứu thêm các tài liệu ngoài sách giáo khoa. Dạng câu hỏi này rèn luyện học sinh bước đầu biết tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học bằng việc nghiên cứu tài liệu tham khảo.  Câu hỏi vận dụng lý thuyết hay câu hỏi thực hành. Loại câu hỏi này giúp học sinh nắm vững bài ở cấp độ vận dụng và giải thích, đòi hỏi học sinh phải có nhiều ý tưởng mới và sáng tạo.  Câu hỏi liên hệ thực tế. Các câu hỏi liên hệ thực tế giúp học sinh mở rộng kiến thức ngoài sách giáo khoa, biết và hiểu những kiến thức đang học được ứng dụng trong thực tế như thế nào.  Câu hỏi dưới dạng bài tập định lượng. Mục đích đưa ra câu hỏi dạng này nhằm rèn học sinh bước đầu biết vận dụng các kiến thức vật lý vào việc giải quyết các vấn đề mang tính định lượng.  Công đoạn theo dõi hoạt động tự học của học sinh. Do tác động của hoàn cảnh gia đình, tác động của xã hội phát triển với đa dạng hình thức vui chơi, giải trí và tác động của môi trường, bạn bè xung quanh, học sinh có thể xao nhãng việc học tập, nhất là khi không có thầy bên cạnh. Ở lứa tuổi học sinh phổ thông, các em chưa chín chắn về ý thức học tập nên luôn cần có sự quan tâm, chỉ bảo của người lớn. Sự ý thức về nhiệm vụ học tập của các em chỉ có thể hình thành trong một khuôn khổ kỷ luật. Do đó, giáo viên phải thường xuyên theo dõi hoạt động tự học của học sinh, vừa ràng buộc các em vào nề nếp vừa sẵn sàng hỗ trợ, chia sẻ những khó khăn và động viên khuyến khích các em hoàn thành công việc. Để theo dõi, kiểm tra sát sao việc tự học của học sinh, vào đầu giờ học giáo viên có thể yêu cầu học sinh thực hiện những việc sau:  Trình cho giáo viên phiếu trả lời hoặc vở ghi chép các câu trả lời. Việc kiểm tra vở ghi chép của học sinh không chỉ để giáo viên kiểm tra tính chuyên cần của các em mà còn để thu thập những thông tin phản hồi đối với phương pháp giảng dạy đang áp dụng. Trên cơ sở số câu trả lời đúng trong vở của học sinh, giáo viên nắm được một vài thông tin cần thiết như: các em thực hiện được bao nhiêu phần trăm công việc, những câu hỏi
  18. nào quá khó, những câu hỏi nào không đi theo mục tiêu định hướng. Qua đó, giáo viên chuẩn bị trước các bước thực hiện điều chỉnh kịp thời để uốn nắn suy nghĩ của các em.  Trả lời câu hỏi của gv bằng hình thức trắc nghiệm khách quan. Giáo viên đưa ra câu hỏi trắc nghiệm nhằm sơ bộ đánh giá tính tự lực, mức độ hiểu bài, khả năng tư duy của học sinh trong quá trình tự tìm hiểu, đồng thời tạo tình huống ban đầu trước khi vào bài mới.  Công đoạn tổ chức thảo luận đề tài. Mỗi đơn vị bài học vật lý có thể xem như một đề tài khoa học hay một đề tài nghiên cứu, và những người tham gia nghiên cứu là học sinh. Do đó, hoạt động chính trên lớp là các hoạt động của học sinh, bao gồm:  Trả lời câu hỏi: Học sinh trả lời các câu hỏi đã được chuẩn bị. Hoạt động này dành cho trường hợp trả lời các câu hỏi gợi mở.  Chất vấn: Học sinh nêu thắc mắc với thành viên khác trong lớp hoặc với giáo viên về những vấn đề chưa được thông suốt.  Phát biểu: Nêu nhận xét hoặc suy nghĩ của cá nhân đối với vấn đề đang được phân tích.  Tranh luận: Bằng những lý luận trên cơ sở các kiến thức đã học, những thông tin thu thập được để bảo vệ quan điểm cá nhân hoặc để phản đối quan điểm của người khác nhằm xác nhận tính đúng đắn của vấn đề.  Thảo luận: Các thành viên cùng nhóm trao đổi thông tin tự thu thập cho nhau, đặc biệt là để giải đáp các câu hỏi đào sâu nội dung và vận dụng.  Trình bày: Để trả lời các câu hỏi nắm vững kiến thức hoặc giải các bài tập định lượng, nhất thiết học sinh phải đứng trước lớp thuyết trình, vì câu trả lời không đơn thuần là những nội dung in sẵn trong sách giáo khoa mà là sự phối hơp giữa kiến thức mới và cũ, giữa quan điểm chung và riêng, giữa lý thuyết và thực hành. Trong quá trình trình bày, có thể cần phải tiến hành thí nghiệm chứng minh. Việc này cũng sẽ được thực hiện song song với thuyết trình bởi chính học sinh. Giáo viên chỉ hỗ trợ qua việc hướng dẫn các bước thực hiện thí nghiệm hoặc giúp đỡ một vài thao tác khó.
  19. Sau phần trình bày của một học sinh là phần nêu câu hỏi thắc mắc và tranh luận từ các học sinh khác hoặc của giáo viên. Mọi hoạt động trong giờ thảo luận sẽ được giáo viên định hướng theo chiều nhằm để học sinh tự xác nhận tính đúng đắn và chân thật của vấn đề, không gò bó tư duy hoặc buộc phải chấp nhận một vấn đề nào. Muốn cho tất cả học sinh đều tích cực tham gia các hoạt động, giáo viên có thể tác động bằng cách yêu cầu trực tiếp một cá nhân đại diện nhóm trình bày, và kết quả sẽ được đánh giá chung cho cả nhóm.  Công đoạn tổng kết, kết luận. Cuối mỗi đơn vị bài học, giáo viên tổng kết lại toàn bài và cho nhận xét về tiết học, bao gồm các công việc cụ thể sau: - Giải đáp thắc mắc. - Hiệu chỉnh những sai lệch, nhầm lẫn trong suy nghĩ của học sinh. - Khẳng định lại các quan điểm đúng đắn bằng những dẫn chứng cụ thể. - Cho nhận xét tiết học, đánh giá mức độ tích cực hoạt động của các cá nhân. 1.1.4 Kết luận về hoạt động dạy và học vật lý theo hướng tự học của hs. Trong mục 1.1.3.2 chúng tôi đã trình bày bốn công đoạn tổ chức hoạt động tự học của học sinh. Nếu kết hợp bốn công đoạn này với quá trình chuẩn bị bài của học sinh trước giờ lên lớp, chúng ta sẽ có một chu trình các hoạt động dạy và học theo hướng tự học như sau: Giáo viên tổng Giáo viên giao Học sinh tìm hiểu kết tiết học nhiệm vụ cho hs kiến thức bài học mới Học sinh thảo luận và Giáo viên kiểm tra việc trình bày nội dung bài học thực hiện nhiệm vụ của hs Như vậy, so sánh với phương pháp dạy học truyền thống thì phương pháp dạy học nhằm bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh có mấy điểm khác biệt sau: Phương pháp dạy học truyền thống Phương pháp dạy học nhằm bồi dưỡng năng lực tự học - Học sinh học thuộc lòng bài cũ ở nhà - Học sinh tìm hiểu bài mới ở nhà trước trước khi lên lớp. khi lên lớp. - Giáo viên kiểm tra bài cũ vào đầu giờ - Giáo viên kiểm tra việc chuẩn bị bài
  20. học, còn gọi là kiểm tra miệng. mới của học sinh bằng cách kiểm tra vở ghi chép và nêu một vài câu trắc nghiệm. - Trong giờ học trên lớp, giáo viên trình - Trong giờ học trên lớp, học sinh tự bày nội dung bài học mới. Học sinh trình bày nội dung bài học theo sự tổ được yêu cầu chăm chú theo dõi và ghi chức hoạt động của giáo viên. Giáo viên chép nội dung bài học vào vở. hiệu chỉnh các ý sai hoặc nhầm lẫn và giải đáp thắc mắc. - Cuối tiết, giáo viên yêu cầu học sinh - Cuối tiết, giáo viên đưa ra hệ thống học thuộc bài vừa học và làm bài tập áp câu hỏi chuẩn bị bài kế tiếp, đồng thời dụng. đưa ra các bài tập áp dụng cho bài đang học. 1.2 DẠY HỌC VẬT LÝ LIÊN HỆ THỰC TẾ. 1.2.1 Mục đích và ý nghĩa của việc dạy học vật lý liên hệ thực tế. Vật lý là một môn khoa học tự nhiên gắn liền với kỹ thuật. Bản chất của nghiên cứu vật lý học là nhằm giải đáp mọi hiện tượng tự nhiên, phát hiện những nguyên lý và định luật vật lý. Từ những nguyên lý và định luật vật lý đó, con người đã phát minh, sáng chế ra những công cụ mới, những sản phẩm mới phục vụ cho lợi ích của chính con người. Những ứng dụng của vật lý trong đời sống là hết sức to lớn, hầu như ở mọi nơi và trong mọi lĩnh vực đều có sự ứng dụng của các thành tựu vật lý. Vì vậy, các kiến thức vật lý được giảng dạy ở nhà trường cần phải có sự liên hệ với những vấn đề trong thực tế để đảm bảo cho học sinh hiểu được ý nghĩa nội dung bài học, hiểu được các định lý, định luật vật lý mà các em đang học đã giải đáp được những gì về qui luật của tự nhiên và đã được ứng dụng trong đời sống và trong khoa học kỹ thuật như thế nào. Khả năng kích thích hứng thú học tập của học sinh phụ thuộc rất nhiều vào ý nghĩa của bài học hay nói khác đi là phụ thuộc rất nhiều vào giá trị kiến thức mà các em cần nắm bắt. Giá trị kiến thức càng lớn sẽ càng tạo nhiều hứng thú nơi người học. Người học sẽ cảm nhận được sự quan trọng và sự cần thiết của vấn đề mình đang được học, hiểu được vì sao các nhà khoa
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2