intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Lợi ích kinh tế trong doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam

Chia sẻ: SuSan Weddy | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:136

18
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trên cơ sở phân tích tình hình thực hiện các lợi ích kinh tế trong DNLD có vốn ĐTNN, xuất phát từ quan điểm định hướng chung của Đảng và nhà nước ta luận văn đã đưa ra một số nguyên tắc và giải pháp nhằm góp phần giải quyết thoả đáng các lợi ích kinh tế trong các DNLD có vốn ĐTNN ở Việt nam hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Lợi ích kinh tế trong doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam

  1. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU ........................................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ LỢI ÍCH KINH TẾ TRONG DOANH NGHIỆP LIÊN DOANH CÓ VỐN ĐẦU TƢ NƢỚC NGOÀI ..................................................................................... 5 1.1. Doanh nghiệp liên doanh - Một loại hình doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài (FDI) ..................................................................................... 5 1.1.1. Quan niệm về doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài ............................................................................................. 5 1.1.2. Những đặc trƣng cơ bản của doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài ................................................................................ 8 1.2. Lợi ích kinh tế và sự cần thiết giải quyết thoả đáng các lợi ích kinh tế trong doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài ...................... 10 1.2.1. Một số vấn đề cơ bản về lợi ích kinh tế ........................................ 10 1.2.2. Lợi ích kinh tế trong doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài .................................................................................... 16 1.2.3. Vai trò của việc giải quyết thoả đáng các lợi ích kinh tế trong doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài .................... 24 1.3. Kinh nghiệm của một số nƣớc và một doanh nghiệp điển hình của Việt nam đối với vấn đề quan hệ lợi ích trong doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài ............................................................ 27 1.3.1. Kinh nghiệm Trung quốc, Hàn quốc, Thái lan, Indonesia ............. 27 1.3.2. Kinh nghiệm giải quyết vấn đề lợi ích kinh tế tại công ty TNHH tập đoàn sản xuất hàng dệt may 19/5, Hà nội .................. 34 CHƢƠNG 2: TÌNH HÌNH THỰC HIỆN LỢI ÍCH KINH TẾ TRONG DOANH NGHIỆP LIÊN DOANH CÓ VỐN ĐẦU TƢ NƢỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA .................................................................... 38 2.1. Khái quát về hoạt động của các doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài ở Việt nam....................................................................... 38
  2. 2.2. Tình hình thực hiện lợi ích kinh tế trong doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài ............................................................................ 46 2.2.1. Thực trạng và một số vấn đề đặt ra trong việc thực hiện lợi ích kinh tế ở doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài ..... 46 2.2.2. Một số đánh giá chung về tình hình thực hiện lợi ích kinh tế trong doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài ........... 73 CHƢƠNG 3: QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƢỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GIẢI QUYẾT THOẢ ĐÁNG CÁC LỢI ÍCH KINH TẾ TRONG DOANH NGHIỆP LIÊN DOANH CÓ VỐN ĐẦU TƢ NƢỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM......................................................................................................................... 77 3.1. Quan điểm định hƣớng chung và một số nguyên tắc về giải quyết vấn đề lợi ích trong doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài ở Việt nam .................................................................................................. 77 3.1.1. Quan điểm của Đảng và nhà nƣớc ta trong việc thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI ................................................. 77 3.1.2. Một số nguyên tắc cơ bản trong việc giải quyết thoả đáng quan hệ lợi ích kinh tế trong doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài ở Việt nam ................................................................ 79 3.2. Một số giải pháp góp phần giải quyết thoả đáng các lợi ích kinh tế trong doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài ở Việt nam ... 80 3.2.1. Tăng cƣờng quản lý nhà nƣớc đối với khu vực doanh nghiệp FDI, trong đó có doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài ............................................................................................ 80 3.2.2. Tiếp tục bổ sung, sửa đổi những quy phạm pháp luật về quyền của ngƣời lao động trong doanh nghiệp FDI nói chung, trong đó có doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài ...................... 95 3.2.3. Nâng cao vai trò và hiệu quả hoạt động của tổ chức công đoàn trong doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài ........... 104 3.2.4. Tiến tới cổ phần hoá các doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài ................................................................................ 108 KẾT LUẬN......................................................................................................................... 114 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................. 116
  3. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Với quan điểm đổi mới của Đảng và kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam được ban hành tháng 12/1987, các hình thức đầu tư và liên doanh với nước ngoài đã được quan tâm phát triển và có những đóng góp cho nền kinh tế. Đó thực sự là nguồn vốn quan trọng cho sự nghiệp CNH- HĐH đất nước, thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập và nâng cao kỹ năng cho người lao động, nâng cao trình độ công nghệ... cho đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đạt được, quá trình phát triển các hình thức liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài vẫn tồn tại một số vấn đề như: tốc độ tăng trưởng vốn ĐTNN còn chậm, số lượng dự án có vốn ĐTNN thực tế hoạt động có hiệu quả còn chưa nhiều và không ổn định, tác động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lên chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa mang tính định hướng, chúng ta chưa khai thác có hiệu quả luồng vốn ĐTNN trên cơ sở những lợi thế của đất nước, ... Trong bối cảnh hiện nay, khi mà xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá đang trở nên tất yếu đối với tất cả các quốc gia, vùng, lãnh thổ trên thế giới thì việc thu hút và khai thác có hiệu quả nguồn vốn đầu tư nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế của đất nước mang tính cấp thiết và ưu tiên. Do đó, vấn đề đặt ra là cần phải nhanh chóng khắc phục được những vấn đề còn tồn tại trong lĩnh vực ĐTNN. Có thể thấy rõ, một nguyên nhân căn bản và ảnh hưởng trực tiếp đến những tồn tại của khu vực có vốn ĐTNN là việc xử lý mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể liên quan trong DN có vốn ĐTNN. Làm thế nào để giải quyết thoả đáng các lợi ích kinh tế trong các DN có vốn ĐTNN nhằm giúp DN phát triển, từ đó có đóng góp đáng kể cho nền kinh tế Việt nam. Giải quyết được vấn đề này có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn. Trên thực tế, các đề tài và công trình nghiên cứu về vấn đề này còn quá ít. Trong khi, vai trò của các DNLD có vốn ĐTNN từ các khía cạnh bổ sung nguồn vốn cần thiết, chuyển giao công nghệ hiện đại, hoàn thiện kinh 1
  4. nghiệm quản lý, tạo việc làm cho dân cư và khai thác tiềm lực thị trường đối với cả nước chủ nhà và nước sở tại đều đã được ghi nhận. Liên doanh còn thể hiện quá trình liên kết quốc tế theo chiều sâu và phản ánh một thực thể quan trọng của kỷ nguyên hợp tác và phát triển của nền kinh tế thế giới. Với ý nghĩa đó, đề tài: “Lợi ích kinh tế trong doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt nam” được tác giả lựa chọn làm luận văn tốt nghiệp thạc sỹ chuyên ngành kinh tế chính trị. 2.Tình hình nghiên cứu Hình thức liên doanh đã có mầm mống từ giai đoạn đầu của phương thức sản xuất TBCN và hiện nay đã trở thành phổ biến trong đời sống kinh tế ở hầu khắp các quốc gia. Nhưng cho đến những thập niên gần đây nó mới được các nhà kinh tế học quan tâm nghiên cứu. Ở nước ta, vấn đề liên doanh đã được Đảng và nhà nước quan tâm từ giữa những năm 80 và đã đưa vào Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam tháng 12/1987. Trên thực tế, đã có một số nghiên cứu về vấn đề này như: - GS.TS Nguyễn Đình Phan, ĐH KTQD: “Thành lập và quản lý công ty, xí nghiệp liên doanh với nước ngoài”, Hà nội. - Hà Thị Ngọc Oanh: “Liên doanh với nước ngoài và đầu tư tại Việt nam” NXB Giáo dục Hà nội, 1998. - Nguyễn Thường Lạng, ĐH KTQD, Luận án Phó tiến sĩ: “Những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện việc thành lập các xí nghiệp liên doanh với nước ngoài trong công nghiệp Việt nam”. - Nguyễn Thanh Mai, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Luận án tiến sỹ: “Phát triển các hình thức liên doanh với nước ngoài trong sản xuất hàng xuất khẩu ở Nghệ an”, Hà nội. - Đoàn Công Mẫn, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ: “Vấn đề lợi ích vật chất của người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước hiện nay”, Hà nội, 2001. - Lê Thị Anh Đào, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ : “Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về quyền của người 2
  5. lao động trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt nam hiện nay”, Hà nội, 2002. Từ những nghiên cứu trên cho thấy việc nghiên cứu một cách có hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện các lợi ích kinh tế trong DNLD có vốn ĐTNN, từ đó đề xuất những quan điểm định hướng, giải pháp nhằm giải quyết thoả đáng các lợi ích kinh tế trong loại hình DN này là chưa có công trình nghiên cứu nào. Trên cơ sở kế thừa các nghiên cứu có liên quan nêu trên và bằng việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn về quan hệ lợi ích, phương pháp giải quyết các vấn đề lợi ích tác giả đi tới các mục tiêu mà đề tài đặt ra. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích của luận văn: Trên cơ sở phân tích tình hình thực hiện các lợi ích kinh tế trong DNLD có vốn ĐTNN, xuất phát từ quan điểm định hướng chung của Đảng và nhà nước ta luận văn đã đưa ra một số nguyên tắc và giải pháp nhằm góp phần giải quyết thoả đáng các lợi ích kinh tế trong các DNLD có vốn ĐTNN ở Việt nam hiện nay. - Nhiệm vụ của luận văn: + Khái quát quá trình hoạt động của các DNLD có vốn ĐTNN ở Việt nam; + Làm rõ các lợi ích kinh tế của các chủ thể liên quan trong các DNLD có vốn ĐTNN ở Việt nam; + Đánh giá được những thành công và một số tồn tại trong việc thực hiện các lợi ích kinh tế trong DNLD có vốn ĐTNN, nguyên nhân - Một số vấn đề đặt ra; + Đề xuất những nguyên tắc định hướng và một số giải pháp nhằm giải quyết thoả đáng các lợi ích kinh tế trong DNLD có vốn ĐTNN nhằm giúp doanh nghiệp phát triển, góp phần đáng kể vào sự phát triển chung của nền kinh tế Việt nam hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Luận văn lấy tình hình lợi ích kinh tế trong DNLD có vốn ĐTNN làm đối tượng nghiên cứu. - Phạm vi nghiên cứu: 3
  6. + Về mặt nội dung: Luận văn đi vào phân tích nghiên cứu về mặt lý luận và thực tiễn giải quyết vấn đề lợi ích kinh tế trong DNLD có vốn ĐTNN. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm giải quyết hài hòa mối quan hệ này trong DNLD có vốn ĐTNN nhằm tăng tính bền vững cho sự phát triển của các liên doanh trong dài hạn. + Về mặt không gian: Nghiên cứu việc giải quyết các lợi ích kinh tế trong DNLD có vốn ĐTNN. + Về mặt thời gian: Khái quát về đối tượng nghiên cứu kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành. 5. Phương pháp nghiên cứu - Luận văn được dựa trên lý luận cơ bản của kinh tế chính trị Mác-Lênin, sử dụng phép biện chứng của chủ nghĩa duy vật Mác-Lênin cùng các quan điểm, đường lối phát triển kinh tế đối ngoại của Đảng ta trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước để làm cơ sở cho việc nghiên cứu. - Sử dụng phương pháp đi từ cái chung đến cái riêng, khảo sát phân tích tổng hợp và khái quát hóa thành lý luận, thống nhất giữa lôgíc với lịch sử và tổng kết thực tiễn để nghiên cứu nội dung cụ thể. 6. Đóng góp của luận văn - Là công trình bước đầu nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện lợi ích kinh tế trong DNLD có vốn ĐTNN ở Việt nam hiện nay; - Luận văn đưa ra một số nguyên tắc chung và giải pháp nhằm giải quyết thoả đáng vấn đề lợi ích kinh tế trong các DNLD có vốn ĐTNN ở Việt nam hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, mục lục, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về lợi ích kinh tế trong doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài Chương 2: Tình hình thực hiện lợi ích kinh tế trong doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt nam thời gian qua 4
  7. Chương 3: Quan điểm định hướng và một số giải pháp nhằm giải quyết thoả đáng các lợi ích kinh tế trong doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài 5
  8. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ LỢI ÍCH KINH TẾ TRONG DOANH NGHIỆP LIÊN DOANH CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI 1.1. Doanh nghiệp liên doanh - Một loại hình doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) 1.1.1. Quan niệm về doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài Từ cuối thế kỷ 19, với sự xuất hiện của hoạt động xuất khẩu tư bản giữa các cường quốc tư bản, các thực thể kinh doanh dựa trên cơ sở sự pha trộn của các tác nhân về vốn, lao động, máy móc, thị trường của các công ty mang quốc tịch khác nhau được hình thành. Những thực thể kinh doanh hợp nhất này là mầm mống vật chất đầu tiên của các doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài (DNLD có vốn ĐTNN). Trong cuốn “Từ điển tiếng Anh kinh doanh” của J.H. Adam đã định nghĩa: “Xí nghiệp liên doanh là một quan hệ bạn hàng tạm thời nhưng đôi khi có tính chất lâu dài được thành lập từ hai hoặc nhiều cá nhân hoặc công ty hoạt động trong một lĩnh vực kinh doanh nhất định trong đó có rủi ro về thua lỗ nhưng vẫn có thể mong đợi một tỷ lệ lợi nhuận hợp lý. Các bên liên doanh cùng chia sẻ các khoản chi phí và lợi nhuận theo các tỷ lệ được thoả thuận”. Định nghĩa này chỉ ra rằng rủi ro và lợi nhuận là động lực để thành lập các doanh nghiệp liên doanh. Luật Kinh doanh của Hoa kỳ định nghĩa: “Liên doanh là một quan hệ bạn hàng trong đó hai hay nhiều chủ thể cùng đóng góp lao động hoặc tài sản để thực hiện một mục tiêu đặt ra và cùng chia sẻ các khoản lợi nhuận và rủi ro ngang nhau hoặc do các bên thoả thuận.” Định nghĩa này cũng chỉ rõ liên doanh là một quan hệ bạn hàng của hai hay nhiều chủ thể cùng tham gia nhằm thực hiện một mục tiêu nhất định và cùng chia sẻ các khoản lợi nhuận và rủi ro. Ngoài ra định nghĩa này còn cho thấy tài sản và lao động là hai yếu tố cơ bản do các bên liên doanh đóng góp để thành lập nên liên doanh. 6
  9. Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đưa ra khái niệm về liên doanh như sau: “Trên quan điểm cạnh tranh, liên doanh là một hình thức nằm giữa hợp đồng và liên minh trong đó hai hoặc nhiều công ty liên kết hoạt động với nhau trong một hoặc hơn các lĩnh vực sau đây: a. Tiến hành các hoạt động mua hoặc bán b. Khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên, phát triển hoặc điều hành các hoạt động sản xuất c. Nghiên cứu và triển khai d. Hoạt động, chế tạo và xây dựng”. Giống như các định nghĩa trên, cách tiếp cận này cũng chỉ ra được liên doanh có thể thành lập trên cơ sở hai hoặc nhiều công ty liên kết lại với nhau nhưng đây chỉ là những hoạt động có tính chất bộ phận. Liên doanh còn được định nghĩa: “là những thoả thuận kinh doanh trong đó hai hoặc nhiều công ty hoặc thực thể kinh doanh kết hợp với nhau để hình thành một hoạt động kinh doanh nhất định. Các liên doanh có thể được thành lập giữa hai công ty đa quốc gia, giữa một công ty đa quốc gia với các nhà kinh doanh địa phương” (cuốn Kinh doanh quốc tế - Internationl Business của trường Đại học Tổng hợp America). Cách định nghĩa này đã chỉ ra được liên doanh về thực chất là những thoả thuận kinh doanh giữa hai hay nhiều bên. Tính đa dạng của các đối tác tham gia liên doanh cũng đã được chỉ ra trong định nghĩa này một cách cụ thể. Cách thức kết hợp giữa các chủ thể tham gia liên doanh cũng được xem như là một tiêu chuẩn để phân loại liên doanh. Tuy nhiên, yếu tố quốc tịch của các bên tham gia liên doanh – một căn cứ quan trọng để phân biệt liên doanh trong nước với liên doanh quốc tế vẫn chưa được đề cập trong định nghĩa này. Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam đưa ra định nghĩa về DNLD như sau: “ Doanh nghiệp liên doanh được thành lập tại Việt nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh ký kết giữa bên hoặc các bên Việt nam với bên hoặc các bên nước ngoài hoặc giữa xí nghiệp liên doanh với bên hoặc các bên nước ngoài nhằm tiến hành hoạt động kinh doanh trong các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân Việt nam. Trong trường hợp đặc biệt, doanh nghiệp liên doanh có 7
  10. thể được thành lập trên cơ sở Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam với Chính phủ nước ngoài”. Theo cách tiếp cận này, cơ sở thành lập các DNLD là hợp đồng liên doanh ký kết giữa bên hoặc các bên Việt nam với bên hoặc các bên nước ngoài. Cũng có thể các DNLD được thành lập là một bên của doanh nghiệp liên doanh mới. Tuy nhiên trong điều kiện của Việt nam, có một ngoại lệ do hoàn cảnh lịch sử để lại là cơ sở pháp lý của DNLD có thể là một Hiệp định quốc tế được ký giữa chính phủ Việt nam và chính phủ nước ngoài. Qua phân tích trên, có thể thấy rằng thực tế có thể có nhiều cách tiếp cận khác nhau đối với hình thức DNLD có vốn ĐTNN. Tuy nhiên, các định nghĩa dù cách này hay cách khác đều tập trung vào những yếu tố cơ bản sau: Thứ nhất, DNLD có vốn ĐTNN là một hình thức tổ chức kinh doanh có tính chất quốc tế. Cụ thể hơn, DNLD có vốn ĐTNN là một hình thức đầu tư nước ngoài trực tiếp. Tính chất quốc tế được thể hiện chủ yếu ở sự khác nhau về quốc tịch của các bên tham gia liên doanh, quá trình thành lập liên doanh và sự hoạt động ra ngoài biên giới quốc gia của chúng. Thứ hai, DNLD có vốn ĐTNN là một quan hệ bạn hàng lâu dài và là một mối liên kết hữu cơ của hai bên hoặc nhiều bên nhưng các bên này ít nhất thuộc hai quốc tịch khác nhau. Thứ ba, DNLD có vốn ĐTNN được hình thành từ những sự khác nhau của các bên về vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, cùng chịu trách nhiệm về lợi nhuận và chia sẻ các rủi ro. Điều này phản ánh thuộc tính “cộng đồng” về trách nhiệm của các bên đối với những hoạt động của liên doanh. Bản chất của lợi thế này của liên doanh không phải là phép cộng đơn giản các lợi thế sẵn có của các bên mà chính là việc tạo ra những lợi thế mới hơn khả năng nội tại của các bên. Thứ tư, lĩnh vực hoạt động của DNLD có vốn ĐTNN có thể bao gồm các hoạt động chế tạo, chế biến, buôn bán hoặc các hoạt động dịch vụ như dịch vụ tài chính, ngân hàng, du lịch, bảo hiểm, vận tải, tư vấn, hoạt động nghiên cứu cơ bản và R & D, ... 8
  11. Thứ năm, cơ sở pháp lý của sự tồn tại và các hoạt động của các DNLD có vốn ĐTNN là Hợp đồng liên doanh ký kết giữa các bên và luật pháp của nước sở tại. Sự thoả thuận của các bên dưới sự bảo đảm của luật pháp tạo nên một thực thể thống nhất. Ở đây, DNLD có vốn ĐTNN phải chấp nhận tiến hành hoạt động kinh doanh theo hệ thống luật pháp của nước sở tại với điều kiện hệ thống luật pháp đó phải thích ứng với thông lệ quốc tế và hấp dẫn ở mức độ nhất định đối với các đối tác nước ngoài tham gia thành lập DNLD. Tựu trung lại, có thể hiểu : DNLD có vốn ĐTNN là một hình thức tổ chức kinh doanh quốc tế của các bên tham gia có quốc tịch khác nhau trên cơ sở cùng góp vốn, cùng quản lý, cùng phân chia lợi nhuận, cùng chia sẻ rủi ro để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động dịch vụ hoặc các hoạt động nghiên cứu bao gồm nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu triển khai theo các điều khoản cam kết trong hợp đồng liên doanh ký kết giữa các bên tham gia phù hợp với các quy định luật pháp của nước sở tại. 1.1.2. Những đặc trưng cơ bản của doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài DNLD có vốn ĐTNN có hai đặc trưng cơ bản: đặc trưng về mặt kinh doanh và đặc trưng về mặt pháp lý. 1.1.2.1. Đặc trưng về mặt kinh doanh DNLD có vốn ĐTNN được thành lập trên cơ sở các bên cùng góp vốn, cùng tham gia quản lý, cùng phân chia lợi nhuận và cùng chia sẻ rủi ro. Mỗi yếu tố này phản ánh những khía cạnh khác nhau về mặt kinh doanh của DNLD, cụ thể là: i. Cùng góp vốn Các bên tham gia liên doanh cùng đóng góp tiền mặt (nội ngoại tệ, vàng, bạc, cố phiếu, trái phiêu, ...), máy móc, thiết bị, công nghệ, giá trị quyền sử dụng đất đai, mặt nước, mặt biển, các dịch vụ sản xuất, xây dựng, uy tín, nhãn hiệu hàng hoá, ... Do tính chất đa dạng của các loại tài sản góp vào liên doanh cho nên có loại tài sản có thể định giá được, có loại tài sản 9
  12. khó định giá. Vì vậy, trong nhiều trường hợp khó xác định được phần góp vốn của các bên trong liên doanh. ii. Cùng tham gia quản lý Tuỳ thuộc vào tỷ lệ góp vốn pháp định của các bên tham gia liên doanh mà số lượng thành viên tham gia Hội đồng quản trị cũng như mức độ quyết định trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các bên khác nhau. Theo như Luật Đầu tư nước ngoài của Việt nam quy định ít nhất một bên tham gia có hai thành viên trong Hội đồng. Bộ máy quản lý DNLD có vai trò điều hành hoạt động của doanh nghiệp, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và công nhân, ... iii. Cùng phân chia lợi nhuận Các bên tham gia liên doanh cùng tham gia phân chia các khoản lợi nhuận thu được của doanh nghiệp sau khi đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ về tài chính đối với nước sở tại. Tỷ lệ phân chia lợi nhuận giữa các bên dựa theo tỷ lệ vốn góp của chúng trong vốn pháp định của DNLD. Tuy vậy cơ chế phân chia lợi nhuận còn tuỳ thuộc vào hình thức thành lập DNLD. iv. Cùng chia sẻ rủi ro Các bên cùng chia sẻ các loại rủi ro có thể xảy ra đối với DNLD. Các loại rủi ro rất đa dạng có thể là rủi ro về chính trị, được hiểu là sự thay đổi về thể chế chính trị, sự thay đổi của chính phủ hay nhà nước; rủi ro về pháp lý, được hiểu là sự thay đổi của hệ thống luật pháp, các loại chính sách và các quy định áp dụng cho DNLD; rủi ro về kinh tế, được hiểu là sự thay đổi giá cả, quan hệ cung cầu của các mặt hàng liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của liên doanh hoặc do tình trạng kinh tế của đất nước đang ở giai đoạn suy thoái; rủi ro trong kinh doanh, được hiểu là sự thay đổi của khối khách hàng, tình trạng cạnh tranh trên thị trường hoặc rủi ro do thiếu hiểu biết về môi trường văn hoá, phong tục, tập quán của người tiêu dùng tại nước sở tại. Những rủi ro này càng lớn nếu thị trường hoạt động của liên doanh càng xa lạ với công ty có chiến lược đầu tư ra nước ngoài trong dài hạn. Độ rủi ro càng cao thì khả năng thu lợi nhuận càng lớn nhưng đi đôi với đó là xác suất đổ vỡ của các DNLD càng cao. Đối với những doanh nghiệp đầu tư một khối lượng vốn lớn vào một lĩnh vực kinh doanh thì hình thức liên 10
  13. doanh sẽ tạo điều kiện giảm bớt tổn thất xảy ra trong kinh doanh đối với doanh nghiệp này do được chia sẻ rủi ro với các bên cùng tham gia liên doanh. 1.1.2.2. Đặc trưng về mặt pháp lý DNLD có vốn ĐTNN là một thực thể pháp lý độc lập hoạt động theo luật pháp của nước sở tại, có tư cách pháp nhân. Quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia liên doanh được ghi trong hợp đồng liên doanh. Mỗi bên tham gia liên doanh vừa có tư cách pháp lý riêng, được hiểu chịu trách nhiệm pháp lý với bên kia và tư cách pháp lý chung, được hiểu chịu trách nhiệm pháp lý với toàn thể liên doanh. Hợp đồng liên doanh là văn bản thoả thuận giữa các bên tham gia liên doanh và nó sẽ là điều kiện cần để hình thành nên thực thể pháp lý độc lập này. Điều lệ hoạt động của DNLD là điều kiện đủ để đảm bảo tính chỉnh thể, tính độc lập của thực thể pháp lý, bảo đảm khung pháp lý cho hoạt động kinh doanh của DNLD. Đồng thời là cơ sở để phân biệt thực thể kinh doanh này với thực thể kinh doanh khác. Như vậy, những văn bản pháp lý quy định đặc trưng pháp lý của DNLD gồm có: hợp đồng liên doanh và điều lệ hoạt động của DNLD. Mỗi loại văn bản có một vai trò nhất định trong việc hình thành tính thực thể về mặt pháp lý của DNLD. Đặc trưng kinh doanh và đặc trưng pháp lý có mối liên hệ qua lại lẫn nhau. Đặc trưng kinh doanh phản ánh thực chất và quy định bản chất nội tại của DNLD trong việc tạo ra lợi ích cho các bên. Đặc trưng pháp lý quy định tính chất độc lập của DNLD và phản ánh tính hợp pháp của sự tồn tại của DNLD theo điều kiện của nước sở tại. Cả hai đặc trưng này cùng phản ánh một thực thể độc lập – DNLD. Vì vậy có thể gọi DNLD là một thực thể kinh doanh pháp lý quốc tế độc lập. DNLD hoạt động trong một môi trường kinh doanh đa dạng của nước sở tại. Môi trường này bao gồm yếu tố chính trị, tình hình kinh tế, mức độ hoàn thiện của luật pháp, tác động về mặt văn hoá, lối sống, trình độ học vấn của dân cư và tình trạng cạnh tranh trên thị trường. Trong từng giai đoạn nhất định môi trường kinh doanh có sự thay đổi. Trong khi, các yếu tố này 11
  14. đều có sự chi phối và tác động phức tạp, nhiều chiều đến DNLD kể từ khi doanh nghiệp bắt đầu thành lập và điều hành liên doanh. Đồng thời, DNLD cũng có mối quan hệ hữu cơ với thị trường nước ngoài. Cho nên, một yêu cầu đặt ra là phải tính đến các yếu tố này một cách đầy đủ và có hệ thống. 1.2. Lợi ích kinh tế và sự cần thiết giải quyết thoả đáng các lợi ích kinh tế trong doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài 1.2.1. Một số vấn đề cơ bản về lợi ích kinh tế 1.2.1.1. Khái niệm lợi ích Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về lợi ích nhưng hầu như các nhà lý luận đều thống nhất khẳng định rằng lợi ích hình thành trên cơ sở nhu cầu và những hoạt động thoả mãn nhu cầu của con người. Vì vậy, tìm hiểu nhu cầu của con người và các mối quan hệ xã hội trong đó con người hoạt động để thoả mãn nhu cầu là cơ sở khách quan để xem xét lợi ích. Nói đến nhu cầu là nói đến quan hệ giữa con người với môi trường bên ngoài, thể hiện tính tích cực của con người trong việc lựa chọn của họ. Nhu cầu của con người vừa mang tính chủ quan vừa mang tính khách quan. Với tư cách là những mong muốn, đòi hỏi của chủ thể, nhu cầu mang tính chủ quan. Tính chủ quan của nhu cầu được thể hiện ở chỗ: trong cùng một hoàn cảnh, điều kiện khách quan, những chủ thể khác nhau có những nhu cầu khác nhau, điều đó phụ thuộc vào trình độ hiểu biết, giá trị văn hoá, nhân cách, lối sống của chủ thể quy định. Tuy nhiên, xét cho cùng, trình độ hiểu biết, nhân cách, lối sống của chủ thể do hoàn cảnh khách quan của xã hội quy định. Với tư cách là cái nảy sinh trong mối quan hệ với môi trường bên ngoài, nhu cầu mang tính khách quan. Tính khách quan của nhu cầu được thể hiện ở chỗ: môi trường bên ngoài quy định sự hình thành nhu cầu và mức độ thoả mãn nhu cầu cùng với những phương tiện, phương thức thoả mãn nhu cầu cũng bị quy định bởi môi trường bên ngoài, đặc biệt là điều kiện kinh tế – xã hội. Như vậy, các nhu cầu nảy sinh do kết quả tác động qua lại của hoàn cảnh bên ngoài với trạng thái riêng của từng chủ thể, trong đó hoàn cảnh bên ngoài đóng vai trò quan trọng và trong phần lớn trường hợp có ý nghĩa quyết định. 12
  15. Khi phân tích vai trò của nhu cầu trong sự phát triển của sản xuất, C.Mác đã khẳng định: “Không có nhu cầu thì không có sản xuất” mặc dù chính sản xuất đã làm nảy sinh nhu cầu. Vì vậy, C.Mác nghiên cứu lịch sử bằng việc xác định những tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con người, đó là “người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể làm ra lịch sử. Nhưng muốn sống được thì trước hết con người cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo”. Để có thức ăn, thức uống, nhà ở và quần áo con người phải sản xuất. Việc sản xuất ra những tư liệu nhằm thoả mãn những nhu cầu tối thiểu ấy, C.Mác coi là hành vi lịch sử đầu tiên. C.Mác viết: “Hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra những tư liệu để nhằm thoả mãn những nhu cầu ấy, việc sản xuất ra bản thân đời sống vật chất, đó là một điều kiện cơ bản của mọi lịch sử mà hiện nay cũng như hàng ngàn năm trước, người ta phải thực hiện hàng ngày, hàng giờ chỉ nhằm để duy trì sự sống con nguời”. Như vậy, xét một cách chung nhất, với tư cách là cái xuất hiện trong mối quan hệ giữa chủ thể và môi trường bên ngoài, nhu cầu là những đòi hỏi, những mong muốn của con người về những yếu tố, những điều kiện để tồn tại và phát triển, thể hiện mặt chủ quan của nhu cầu và về mặt này, nhu cầu mang tính vĩnh viễn, luôn luôn tồn tại cùng với sự tồn tại của con người. Xét một cách cụ thể, với tư cách là những nhu cầu cụ thể cũng như đối tượng thoả mãn, mức độ thoả mãn, phương tiện và phương thức hoạt động thoả mãn thì nhu cầu mang tính khách quan và về mặt này, nhu cầu mang tính lịch sử - cụ thể phụ thuộc vào những điều kiện kinh tế – xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Đồng thời, nhu cầu sau khi nảy sinh trở thành động lực thúc đẩy con người hành động nhằm tìm phương tiện thoả mãn nhu cầu. Cái thoả mãn nhu cầu ấy, đối với chủ thể hành động là lợi ích. Như vậy, nhu cầu gắn bó với chặt chẽ với lợi ích, là điểm quan trọng nhất làm cơ sở cho việc xem xét lợi ích. Lợi ích xuất hiện một cách khách quan. Nội dung và những hình thức thực hiện nó đều bị chi phối bởi những điều kiện khách quan, cụ thể của xã hội chứ không phụ thuộc vào ý muốn của các chủ thể. Nhận thức lợi ích chính là hình ảnh chủ quan của lợi ích khách quan. Nhận thức lợi ích không sản sinh ra lợi ích mà chỉ phản ánh lợi ích vào tri thức của chủ thể, từ đó tạo 13
  16. ra động lực tinh thần để thôi thúc chủ thể hành động. Trong đời sống xã hội, không có lợi ích nào mà không được nhận thức ở trình độ cao hoặc thấp, ở tính chất tự phát hay tự giác. Giữa nhận thức về lợi ích và bản thân lợi ích không phải lúc nào cũng trùng khít nhau. Nhận thức về lợi ích có thể đầy đủ hoặc không đầy đủ, có thể đúng hoặc sai tuỳ thuộc vào trình độ của chủ thể và hoàn cảnh xã hội, từ đó mà chủ thể có động cơ, mục đích hành động phù hợp hay không phù hợp với tiến trình khách quan của xã hội. Việc con người có hành động đúng quy luật khách quan hay không thì điều này còn phụ thuộc vào năng lực nắm bắt và vận dụng các quy luật chủ thể của hành động. Mặc dù nhu cầu và lợi ích có quan hệ chặt chẽ với nhau, tuy nhiên giữa chúng có sự khác biệt nhất định. Nhu cầu là cơ sở của lợi ích còn lợi ích là cái thoả mãn nhu cầu, đáp ứng lại nhu cầu. Nếu nhu cầu tồn tại vĩnh viễn trong mọi điều kiện kinh tế – xã hội, gắn liền với sự tồn tại của con người thì lợi ích mặc dù xuất hiện trên cơ sở nhu cầu và hoạt động thoả mãn nhu cầu nhưng chỉ tồn tại trong những điều kiện lịch sử - xã hội nhất định. Tính lịch sử – xã hội của lợi ích còn được biểu hiện ở chỗ những điều kiện kinh tế xã hội nhất định, đặc biệt là sự phân công lao động xã hội, quan hệ giai cấp ... quyết định đặc điểm, tính chất và xu hướng vận động của lợi ích và các quan hệ lợi ích. Lợi ích có vai trò đặc biệt quan trọng, là khâu nhạy cảm nhất trong toàn bộ chuỗi quy định nhân quả tạo nên hoạt động của con người. Lợi ích là “điểm huyệt” mà tác động vào nó sẽ gây ra phản ứng nhanh nhạy nhất của cơ thể xã hội. C.Mác đã từng khẳng định: “Tất cả những gì mà con người đấu tranh để giành lấy đều dính liền với lợi ích của họ. Chính vì thế, nhu cầu và lợi ích là vấn đề sống còn của con người trong mọi chế độ xã hội. Qua mối quan hệ về nhu cầu và lợi ích, về cuộc đấu tranh để thực hiện nó mà tính tất yếu của lịch sử xã hội được thực hiện. Mọi động lực của đời sống xã hội, xét đến cùng đều bắt nguồn từ nhu cầu và lợi ích”. Cũng có cách tiếp cận cho rằng lợi ích là một thuật ngữ nhằm nêu lên cái có ý nghĩa khách quan, cần thiết và phù hợp với các nhu cầu vật chất, tinh thần, sự quan tâm và nguyện vọng của con người, cộng đồng và xã hội. Phân loại lợi ích 14
  17. Có nhiều cách phân loại lợi ích. Theo đối tượng thụ hưởng có thể phân biệt lợi ích cá nhân, lợi ích cục bộ, lợi ích tập thể, lợi ích cộng đồng, lợi ích dân tộc, lợi ích nhân loaị. Theo hình thức biểu hiện các mối quan tâm và nhu cầu, có thể phân biệt lợi ích vật chất (lợi ích kinh tế), lợi ích tinh thần (lợi ích xã hội, lợi ích chính trị, ...). Theo cách thức và mức độ đáp ứng các nhu cầu, có thể phân thành lợi ích danh nghĩa, lợi ích thực tế ... Mặt khác nếu căn cứ vào thời gian tác động sẽ có lợi ích trước mắt, lợi ích lâu dài, lợi ích chiến lược, v.v.. Quan hệ giữa các loại lợi ích tuỳ thuộc rất nhiều vào sự nhìn nhận và điều kiện kinh tế – xã hội thực tế của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn phát triển. Đối với nước ta hiện nay, những lợi ích chính đáng của người lao động tại các doanh nghiệp và cộng đồng dân cư được coi là lợi ích trực tiếp và căn bản. Bên cạnh đó, các lợi ích của tập thể người lao động, của các doanh nghiệp, hộ gia đình cũng như toàn thể quốc gia cũng đã được thể chế hoá rõ ràng trong Hiến pháp và các đạo luật cơ bản và được nhà nước quan tâm, bảo vệ như là những quyền lợi hợp pháp. 1.2.1.2. Lợi ích kinh tế – Khái niệm và một số đặc điểm Lợi ích kinh tế là cái có ích, cái có lợi về mặt kinh tế. Lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế biểu hiện tính khách quan trong hoạt động kinh tế của con người tức biểu hiện quan hệ sản xuất. Vì vậy các quan hệ kinh tế của mỗi xã hội được biểu hiện trước hết là lợi ích. Vấn đề lợi ích kinh tế và các vai trò của nó trong quá trình sản xuất xã hội đã được C.Mác phân tích một cách khoa học trong tác phẩm của mình. Trong cuốn “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” và đặc biệt trong bộ “Tư bản” C.Mác đã nghiên cứu một cách cặn kẽ và khoa học chỉ ra tính không điều hoà về lợi ích kinh tế giữa nhà tư bản và lao động làm thuê, giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Trong các tác phẩm của mình V.I. Lênin tiếp tục nghiên cứu cụ thể vấn đề lợi ích kinh tế trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn cho thấy, lợi ích kinh tế là động lực cơ bản và then chốt thúc đẩy hoạt động của con người cho sự phát triển kinh tế – xã hội, quy định động cơ, mục đích, tính hiệu quả trong hoạt động sản xuất của mỗi con 15
  18. người và của cả xã hội loài người, là một khâu không thể thiếu được trong cơ chế vận dụng quy luật kinh tế. Xét về bản chất thì tính vật chất và đặc điểm của lợi ích kinh tế phụ thuộc vào tính chất và đặc điểm của QHSX, phụ thuộc vào trình độ phát triển của LLSX và không tách rời với hệ thống các lợi ích chính trị, xã hội ... và các động lực khác như động lực tinh thần, động lực đạo đức song động lực kinh tế là động lực cơ bản. Để làm sáng tỏ thêm vấn đề lợi ích kinh tế, chúng tôi cho rằng: Thứ nhất, lợi ích kinh tế là biểu hiện những mối quan hệ kinh tế giữa những giai cấp, những nhóm người, những cá nhân khác nhau trong những quan hệ xã hội nhất định. Nó là hình thức biểu hiện của QHSX, của chế độ sở hữu đối với tư liệu sản xuất. Ph.Ăngghen đã viết: “Những quan hệ kinh tế của một xã hội nhất định nào đó biểu hiện trước hết dưới hình thức lợi ích”. Thứ hai, lợi ích kinh tế bao giờ cũng là lợi ích vật chất xã hội, ngay cả lợi ích vật chất cá nhân thì lợi ích đó cũng gắn chặt với những điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội nhất định. C.Mác đã chỉ rõ: “Những cá nhân luôn luôn xuất phát từ bản thân mình – dĩ nhiên là xuất phát từ những cá nhân ở trong khuôn khổ những điều kiện và quan hệ lịch sử nhất định, chứ không xuất phát từ cá nhân thuần tuý”. Thứ ba, lợi ích kinh tế trước hết biểu hiện kết quả sản xuất. Chỉ có sản xuất con người mới tạo ra cho mình những điều kiện để đáp ứng những nhu cầu vật chất. Ph.Ăngghen đã nói: “Sản xuất ra tất cả những gì cần thiết cho sự sống là cơ sở vật chất cho mọi hoạt động của con người”. Từ sự nhận thức về lợi ích, con người suy nghĩ và hành động, quá trình đó dù muốn hay không, con người phải tuân theo những quy luật kinh tế khách quan và phải chịu sự chi phối của QHSX đang tồn tại. Lợi ích kinh tế có mối liên hệ khách quan giữa các quy luật kinh tế và hoạt động có ý thức của con người. Nó là hình thức cụ thể, có tính vật chất, thể hiện sự tác động của QHSX và mỗi con người trong xã hội. Thực hiện lợi ích kinh tế, một mặt nhằm thoả mãn nhu cầu, mặt khác quá trình đó cũng đồng thời thực hiện những xu hướng phát triển khách quan của sản xuất. 16
  19. Thứ tư, không thể tách rời lợi ích kinh tế ra khỏi nhu cầu vật chất để xét nó như một hiện tượng độc lập riêng lẻ. Không thể quan niệm lợi ích kinh tế và nhu cầu vật chất là những phạm trù phản ánh sự khác biệt hoàn toàn về bản chất và sự tồn tại. Những người theo quan niệm đối lập trên cho rằng cơ sở tác động của lợi ích là các quá trình lao động sản xuất xã hội, còn nhu cầu vật chất thì nảy sinh trong mối quan hệ giữa con nguời và tự nhiên. Đồng thời chúng ta cũng không tán thành quan điểm đem đồng nhất nhu cầu vật chất và lợi ích kinh tế. Chúng tôi cho rằng, lợi ích kinh tế và nhu cầu vật chất không phải là một, nhưng chúng gắn bó hữu cơ với nhau. Lợi ích kinh tế và nhu cầu vật chất là hai phạm trù cùng loại, vừa giống nhau vừa khác nhau. Nhu cầu vật chất thể hiện quan hệ chung của con người với hoàn cảnh vật chất xung quanh, còn lợi ích kinh tế thể hiện mối quan hệ giữa người với người có cùng nhu cầu vật chất và đối tượng thoả mãn nhu cầu vật chất với nhau trong việc thực hiện nhu cầu vật chất ở các giai đoạn lịch sử nhất định. Điều này lý giải cơ sở xã hội của sự hình thành lợi ích vật chất cụ thể. Giữa nhu cầu vật chất và lợi ích kinh tế có cái chung. Cả hai đều chịu sự chi phối bởi sự phát triển của trình độ LLSX và QHSX xã hội, do đó chúng đều mang tính lịch sử. Nhu cầu vật chất và lợi ích kinh tế đều chịu sự chi phối của những quan hệ xã hội, nhưng ở những mức độ khác nhau, chẳng hạn do địa vị khác nhau của những người trong hệ thống sản xuất, cho nên tuy họ có nhu cầu vật chất như nhau nhưng lợi ích kinh tế của họ lại khác nhau. Nhu cầu vật chất thể hiện nội dung vật chất của lợi ích kinh tế và lợi ích kinh tế thể hiện quan hệ phân phối nhu cầu vật chất của các QHSX. Thứ năm, lợi ích kinh tế hình thành một cách khách quan, là động cơ khách quan của hoạt động con người, phản ánh vị trí của con người trong hệ thống sản xuất xã hội. Lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của các quan hệ xã hội. Lợi ích kinh tế là nguyên nhân sâu xa nhất của sự vận động xã hội và của đấu tranh giai cấp. Hoạt động chính trị – xã hội xét đến cùng là nhằm thoả mãn lợi ích kinh tế căn bản của các giai cấp. 17
  20. Từ những phân tích trên, chúng tôi quan niệm: Lợi ích kinh tế là những lợi ích đáp ứng nhu cầu vật chất, là mối quan hệ xã hội nhằm thực hiện nhu cầu vật chất của chủ thể. Đó là những lợi ích nhằm thoả mãn những nhu cầu của con người như ăn, ở, mặc, đi lại... Nó nảy sinh một cách tất yếu khách quan trong hoàn cảnh kinh tế – xã hội cụ thể, biểu hiện của quan hệ kinh tế, trực tiếp quy định khuynh hướng và động cơ hoạt động của các chủ thể xã hội. 1.2.2. Lợi ích kinh tế trong doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài 1.2.2.1. Lợi ích kinh tế của người lao động trong DNLD có vốn ĐTNN Quan hệ về lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động có thể được xem là quan hệ căn bản, gốc rễ nhất trong các quan hệ về lợi ích trong DNLD. Giữa hai đối tượng này, dù đó là loại hình doanh nghiệp nào, trong không gian, thời gian nào, chịu sự chi phối bởi một chế định pháp luật nào thì luôn tồn tại mâu thuẫn. Và việc giải quyết mâu thuẫn này luôn không có câu trả lời thoả đáng. Đó là một tất yếu. Trong DNLD, người lao động ở đây được hiểu là đội ngũ nhân viên, công nhân làm việc trong liên doanh. Trong phạm vi đề tài này chỉ xét đến đối tượng chủ yếu là lực lượng công nhân làm việc trong liên doanh. Với tinh thần của Hiến pháp 1992, Bộ luật lao động, pháp luật quy định về BHLĐ và điều lệ quy định về BHXH của nhà nước đã ban hành, thì lợi ích kinh tế của người lao động trong xã hội ta nói chung được thể hiện trên các lĩnh vực từ đào tạo nghề, chuẩn bị tham gia vào quan hệ lao động đến việc làm, điều kiện làm việc, vấn đề thu nhập, tiền lương, tiền thưởng, chế độ nghỉ ngơi, điều kiện an toàn vệ sinh lao động, BHYT, BHXH ... Ở mỗi loại hình kinh tế khác nhau thì lợi ích kinh tế của người lao động cũng có những đặc điểm khác nhau. Lợi ích kinh tế của người lao động trong các DNLD có vốn ĐTNN biểu hiện ở: tiền lương, tiền thưởng, điều kiện làm việc, việc làm, ký kết hợp đồng lao động, an toàn lao động, vệ sinh lao động, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tranh chấp lao động và đình công, chế độ nghỉ dưỡng, tham quan, ... i. Tiền lương 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2