intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Các cuộc vận động ngoại giao về vấn đề Việt Nam của chính quyền Johnson (11/1963 – 1/1969)

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:159

58
lượt xem
15
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Các cuộc vận động ngoại giao về vấn đề Việt Nam của chính quyền Johnson (11/1963 – 1/1969) nêu lên vận động ngoại giao nhằm răn đe VNDCCH (cuối 1963 cuối 1964); vận động ngoại giao nhằm đàm phán trên thế mạnh (năm 1965 đến tháng 3 1968); hội đàm Mỹ - VNDCCH tại Paris (3/1968 – 1/1969).

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Các cuộc vận động ngoại giao về vấn đề Việt Nam của chính quyền Johnson (11/1963 – 1/1969)

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Lê Hắc Tùng CÁC CUỘC VẬN ĐỘNG NGOẠI GIAO VỀ VẤN ĐỀ VIỆT NAM CỦA CHÍNH QUYỀN JOHNSON (11/1963 – 1/1969) LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Thành phố Hồ Chí Minh – 2014
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Lê Hắc Tùng CÁC CUỘC VẬN ĐỘNG NGOẠI GIAO VỀ VẤN ĐỀ VIỆT NAM CỦA CHÍNH QUYỀN JOHNSON (11/1963 – 1/1969) Chuyên ngành : Lịch sử thế giới Mã số : 60 22 03 11 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHAN VĂN HOÀNG Thành phố Hồ Chí Minh – 2014
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu do tôi thực hiện. Các số liệu và kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn chưa từng công bố ở các công trình nghiên cứu khác. Tôi xin chịu trách nhiệm về đề tài nghiên cứu của mình. TÁC GIẢ LUẬN VĂN
  4. LỜI CẢM ƠN Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Phòng Khoa học Công nghệ - Sau Đại học, quý thầy cô Khoa Sử cùng tất cả các anh chị em học viên đã nhiệt tình giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn. Tôi xin đặc biệt tỏ lòng kính trọng và biết ơn đến Tiến sĩ Phan Văn Hoàng, Người đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn cho tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện luận văn này. Tôi cũng xin tỏ lòng tri ân ban Ban Giám hiệu, các giáo viên đồng nghiệp tại trường THPT Dầu Tiếng và bạn bè đồng môn đã tạo điều kiện thuận lợi, tận tình giúp đỡ tôi về nguồn tư liệu cho tôi hoàn thành luận văn đúng quy định. Tuy thời gian nghiên cứu ngắn, nhưng với sự giúp đỡ tận tình của quý thầy cô, sự hỗ trợ của bạn bè, đồng nghiệp, gia đình, sự nỗ lực của cá nhân, tôi đã có được sự phát triển về nhận thức, trình độ kiến thức và phương pháp nghiên cứu vô cùng quý báu để hoàn thành luận văn này. Một lần nữa xin chân thành cảm ơn! Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 9 năm 2014 Lê Hắc Tùng
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chương 1. VẬN ĐỘNG NGOẠI GIAO NHẰM RĂN ĐE VNDCCH (cuối 1963 - cuối 1964) ........................................................................................................ 5 1.1. Bối cảnh lịch sử .................................................................................................5 1.1.1. Di sản Việt Nam mà Johnson kế thừa từ những người tiền nhiệm ............5 1.1.2. Tình hình miền NVN từ cuối năm 1963 đến giữa năm 1964 ...................10 1.1.3. Chủ trương của chính quyền Johnson về Việt Nam từ cuối năm 1963 đến cuối năm 1964 ..............................................................................................14 1.2. Hai sứ mệnh của Seaborn đến Hà Nội ............................................................18 1.2.1. Chuyến đi đầu tiên đến Hà Nội của Seaborn (18-6-1964) .......................18 1.2.2. Chuyến đi thứ hai của Seaborn (10-8-1964) ............................................23 * Tiểu kết chương 1 ................................................................................................27 Chương 2. VẬN ĐỘNG NGOẠI GIAO NHẰM ĐÀM PHÁN TRÊN THẾ MẠNH (năm 1965 đến tháng 3-1968) ................................................................... 29 2.1. Những yếu tố tác động đến quyết sách về Việt Nam của Johnson .........29 2.1.1. Tình hình miền NVN từ cuối năm 1964 đến đầu năm 1965 ....................29 2.1.2. Chính quyền Johnson tiến hành chiến tranh cục bộ ở miền Nam và chiến tranh phá hoại ở miền BVN từ đầu năm 1965 đến đầu năm 1968 ...........32 1.1.3. Tình hình trong nước Mỹ và sức ép quốc tế đòi hỏi Mỹ phải tiến hành đàm phán với VNDCCH ....................................................................................43 2.2. Mỹ tiến hành những cuộc vận động ngoại giao công khai và tiếp xúc bí mật với VNDCCH ..................................................................................................51 2.2.1. Tuyên bố ngoại giao công khai về vấn đề Việt Nam của Johnson ...........51 2.2.2. Những cuộc tiếp xúc Mỹ – VNDCCH (1965 - đầu năm 1966) ...............55 2.2.3. Chiến dịch “tấn công hòa bình” lớn nhất trong sự nghiệp của Johnson (1966-1967) ........................................................................................................67 * Tiểu kết chương 2 ................................................................................................76 Chương 3. HỘI ĐÀM MỸ - VNDCCH TẠI PARIS (3/1968 – 1/1969).............. 82 3.1. Những nhân tố dẫn đến quyết định ngày 31-3-1968 của Johnson ..................82
  6. 3.1.1. Sự chia rẽ sâu sắc ngay trong guồng máy chiến tranh Mỹ (1967-1968) ..82 3.1.2. Phong trào phản chiến diễn tiến ngày càng quyết liệt ..............................85 3.1.3. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 ............................91 3.1.4. Dư luận Mỹ và lời khuyến cáo của “những nhà thông thái” ...................97 3.1.5. Áp lực của năm bầu cử Tổng thống .......................................................102 3.2. Hội đàm giữa Mỹ và VNDCCH tại Paris ......................................................104 3.2.1. Các cuộc gặp công khai bàn các vấn đề mang tính thủ tục cho hội đàm107 3.2.2. Hội đàm chính thức hai bên (13-5 đến hết tháng 8) ...............................112 3.2.3. Song song hội đàm công khai và tiếp xúc bí mật ...................................117 3.3. Tuyên bố ngày 31-10-1968 của Johnson, quyết định mang tính bước ngoặt trong tiến trình đàm phán tại Paris .......................................................................122 * Tiểu kết chương 3 ..............................................................................................126 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 130 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 136 PHỤ LỤC
  7. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BVN : Bắc Việt Nam CQSG : Chính quyền Sài Gòn MTDTGP : Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. NVN : Nam Việt Nam NXB : Nhà xuất bản NSC-68 : Bị vong lục của Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ số 68 NSAM : Từ thời chính phủ Kennedy, các nghị quyết của Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ (bị vong lục) mang kí hiệu NSAM (National Security Action Memoranda) thay vì NSC của các đời tổng thống tiền nhiệm. ND : Người dịch, người dẫn QGPMN : Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam TG : Tác giả VNDCCH : Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
  8. 1 MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Tháng 11-1963, L.B. Johnson lên làm Tổng thống nước Mỹ sau khi Kennedy bị ám sát. Việt Nam là di sản của các tổng thống tiền nhiệm mà Johnson phải nhận. Cuối năm 1963 đầu năm 1964, sự suy yếu của Việt Nam Cộng hòa (VNCH) đã đặt Johnson trước hai sự lực chọn: hoặc là tìm cách rút khỏi Việt Nam; hoặc là tăng cường nỗ lực cứu vãn chế độ Sài Gòn. Tuy nhiên, Johnson xem Việt Nam là một nơi thử nghiệm về khả năng giúp đỡ một dân tộc đối đầu với cuộc chiến tranh giải phóng của cộng sản. Do đó, Mỹ phải chọn con đường tăng cường viện trợ cho Sài Gòn, tăng cường các hoạt động chiến tranh ở Việt Nam. Trong suốt thời gian cầm quyền của mình (11/1963 – 1/1969), Johnson đã liên tục đẩy mạnh các hoạt động chiến tranh từ “chiến tranh đặc biệt tăng cường” đến chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở Nam Việt Nam và tiến hành chiến tranh phá hoại bằng hải quân và không quân ra miền Bắc Việt Nam. Hành động này của Johnson đã vấp phải sự phản đối mạnh mẽ của nhân dân Mỹ và dư luận thế giới. Do đó, Johnson vừa xúc tiến các nỗ lực quân sự, vừa đưa ra các “sáng kiến hòa bình” để xoa dịu dư luận và yêu cầu Việt Nam kết thúc chiến tranh theo những điều kiện do Mỹ đặt ra. Vậy quá trình và bản chất của cái gọi là “sáng kiến hòa bình” của Johnson như thế nào? Sự tiếp xúc giữa Mỹ và Việt Nam từ 1964 – 1968 diễn ra ra sao? Kết quả đạt được là gì? Đó là những vấn đề cần làm rõ khi chúng ta tìm hiểu về hoạt động đối ngoại giữa Mỹ và Việt Nam trong thời kì Johnson. Đồng thời tác giả luận văn cũng mong muốn đóng góp thêm vào kho tư liệu nhằm nghiên cứu một trong những mối quan hệ ngoại giao nổi cộp nhất trong thời chiến tranh lạnh, đặc biệt là khai thác tư liệu gốc từ phía Mỹ và CQSG. Từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài “Các cuộc vận động ngoại giao về vấn đề Việt Nam của Chính quyền Johnson (11/1963 – 1/1969)” cho luận văn nghiên cứu của mình. 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ Các cuộc tiếp xúc, đàm phán giữa Mỹ và Việt Nam trước Hội nghị Paris (1968 – 1973) hiện nay chưa có nhiều công trình nghiên cứu. Phần lớn các công trình trong nước đều tập trung vào quá trình đàm phán và ký kết Hiệp định Paris chứ chưa đi
  9. 2 sâu vào tìm hiểu những cuộc tiếp xúc Mỹ - Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) từ 1964 – 1968. Ở Việt Nam, một số công trình có liên quan chính sách đối ngoại của Việt Nam thời kì kháng chiến chống Mỹ đã được công bố như: Mai Văn Bộ (1985), Tấn công ngoại giao và tiếp xúc bí mật; Mai Văn Bộ (1993), Hà Nội – Paris: Hồi ký ngoại giao; Bộ Ngoại giao (2007), Mặt trận ngoại giao với cuộc đàm phán Paris về Việt Nam; Lưu Văn Lợi (1998), Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam 1945 – 1995;… Nhìn chung, các công trình nghiên cứu này đã đề cập một số nội dung liên quan đến những lập trường, quan điểm của Việt Nam và Mỹ trong quá trình đàm phán tại Hội nghị Paris (1969 - 1973) mà chưa làm rõ được những cuộc tiếp xúc bí mật và hòa đàm giữa Mỹ và VNDCCH dưới thời Tổng thống Johnson. Bên cạnh đó, một số công trình nghiên cứu liên quan với tiếp xúc bí mật giữa Mỹ và VNDCCH trước Hội nghị Paris cũng đã được xuất bản như: Lưu Văn Lợi, Nguyễn Anh Vũ (1990), Tiếp xúc bí mật Việt Nam – Hoa Kì trước Hội nghị Pa-ri; Lưu Văn Lợi - Nguyễn Anh Vũ (2002), Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kissinger tại Paris; Cục Văn thư Lư trữ Nhà nước, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II (2012), Hiệp Định Paris về Việt Nam năm 1973 qua tài liệu của chính quyền Sài Gòn; Lê Phụng Hoàng (2008), Lịch sử Quan hệ quốc tế ở Đông Nam Á từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến cuối chiến tranh lạnh; Nguyễn Khắc Huỳnh (2011), Ngoại giao Việt Nam-góc nhìn và suy ngẫm;... Đây là những công trình nghiên cứu có liên quan trực tiếp đến những cuộc tiếp xúc bí mật và đàm phán giữa Hà Nội và Washington trong thời kì Johnson. Tuy nhiên, các công trình phần lớn dừng lại ở việc cung cấp sự kiện lịch sử theo trình tự thời gian mà chưa đi sâu vào làm rõ bản chất và mục tiêu thật sự của quá trình tiếp xúc bí mật hai bên. Đặc biệt, các công trình trên cũng chưa cập nhật được nguồn tài liệu gốc từ phía Mỹ về các chủ trương hoạt động ngoại giao thực hiện các “sáng kiến hòa bình” của Johnson. Do đó, việc tiếp tục bổ sung, làm rõ quá trình tiếp xúc bí mật giữa Mỹ và VNDCCH là cần thiết. Một số tác giả Việt Nam ở nước ngoài và các nhà khoa học thế giới cũng có một số công trình nghiên cứu như: Nguyễn Phú Đức (2009), Tại sao Mỹ thua ở Việt Nam; Nguyễn Kỳ Phong (2006), Vũng lầy của Bạch Ốc: Người Mỹ và chiến tranh Việt Nam 1945 – 1975; H.Y.Schandler (1999), Sự nghiệp của một tổng thống bị đổ
  10. 3 vỡ: L.Johnson và Việt Nam; Jerry Elmar (2005), Tội phạm vì hoà bình; George Herring (1996), America`s Longest War: The United States and Vietnam, 1950- 1975; Nancy Zaroulis and Gerald Sullivan (1984), Who Spoke Up? American protest against The war in Vietnam 1963 – 1975; William J.Duiker (1994), U.S. Containment Policy and the Conflict in Indochina; Michael Maclear (1984), Vietnam: The Ten Thousand Day War,… Những công trình nghiên cứu này tiếp cận vấn đề phần lớn từ góc độ, quan điểm của người Mỹ, thậm chí một số ít còn mang tính chất biện minh cho chính quyền Johnson nên chưa thật khách quan khi đề cập đến bản chất của các “sáng kiến hòa bình” của Johnson. Mặt khác, các công trình trên cũng chưa nghiên cứu sâu và có hệ thống về các cuộc tiếp xúc bí mật giữa VNDCCH với Mỹ trong thời kì của Johnson. Tóm lại, hiện nay tuy đã có một số công trình nghiên cứu về những hoạt động ngoại giao của chính quyền Johnson đối với Việt Nam từ 1964 – 1969. Tuy nhiên, các công trình này tiếp cận dưới những góc độ khác nhau nên chưa làm rõ được bản chất mục tiêu của Mỹ trong những cuộc tiếp xúc bí mật và hoạt động ngoại giao để hô hào “tìm giải pháp hòa bình cho vấn đề Việt Nam”. Mặt khác, những công trình trên cũng chưa làm rõ một cách hệ thống, đầy đủ những diễn biến chính trong hòa đàm Mỹ - VNDCCH trong năm 1968. Do đó, chúng tôi thiết nghĩ việc tiếp cận với các tài liệu gốc đã được giải mật như Leslie H. Gelb, et. al, eds (1971), United States-Vietnam Relations 1945-1967; Neil Sheehan, Hedrick Smith, E. W. Kenworthy, and Fox Butterfield, The Pentagon Papers as Published by the New York Times; George Herring (1996), America`s Longest War: The United States and Vietnam, 1950-1975; Lyndon Baines Johnson (1972), Ma Vie de Président;… để tìm hiểu bản chất, lý giải toàn diện hơn những cuộc vận động ngoại giao của Chính quyền Johnson trong việc tìm giải pháp kết thúc chiến tranh bằng con đường hòa bình ở Việt Nam là phù hợp, cần thiết. Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài “Các cuộc vận động ngoại giao về vấn đề Việt Nam của Chính quyền Johnson (11/1963 – 1/1969)” để nghiên cứu.
  11. 4 3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng nghiên cứu: Đề tài sẽ tập trung vào tìm hiểu và làm rõ bản chất những hoạt động ngoại giao của Mỹ trong việc tiếp xúc bí mật và kêu gọi hòa đàm cho vấn đề Việt Nam. Qua đó, đề tài sẽ góp phần làm nổi bật được quan điểm của Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam từ 1964 – 1969. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về mặt thời gian: từ tháng 11-1963 đến tháng 1-1969 (thời điểm Johnson nắm quyền Tổng thống Mỹ). - Về mặt không gian: những hoạt động ngoại giao bí mật và công khai về vấn đề Việt Nam của Mỹ tiến hành ở Việt Nam và trên thế giới. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Dựa trên quan điểm biện chứng của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhiệm vụ, chức năng đối ngoại của nhà nước để lý giải bản chất các mục tiêu hoạt động đối ngoại của nước lớn – Mỹ. Ngoài ra, chúng tôi sử dụng những phương pháp chuyên ngành như phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phương pháp so sánh để phân tích, đánh giá các sự kiện nhằm khôi phục lại một cách có hệ thống và làm sáng tỏ bản chất quá trình Mỹ tiến hành những cuộc tiếp xúc bí mật và tuyên bố công khai về vấn đề Việt Nam từ năm 1964 đến tháng 1-1969. 5. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI Đề tài sẽ làm rõ bản chất những cuộc vận động ngoại giao của Mỹ về vấn đề Việt Nam. Qua đó, đề tài sẽ góp phần làm nổi bật được quan điểm ngoại giao của Mỹ trong suốt thời gian dài từ 1964 – 1969. Góp phần làm phong phú thêm nguồn sử liệu cho những ai quan tâm đến vấn đề ngoại giao của Mỹ và Việt Nam những năm tiền Hội nghị Paris. 6. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI: Thông qua nguồn tài liệu gốc, có giá trị, đề tài sẽ khai thác để chứng minh “những sáng kiến hòa bình” (theo cách gọi của Tổng thống Johnson) thực chất chỉ là một thủ thuật chính trị, biện hộ cho ý đồ kéo dài cuộc chiến tranh không lối thoát, gây thiệt hại nặng nề trên nhiều mặt cho nước Mỹ mà họ đã lún ngày càng sâu ở Việt Nam mà thôi.
  12. 5 Chương 1. VẬN ĐỘNG NGOẠI GIAO NHẰM RĂN ĐE VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA (cuối 1963 - cuối 1964) 1.1. Bối cảnh lịch sử 1.1.1. Di sản Việt Nam mà Johnson kế thừa từ những người tiền nhiệm Truman là Tổng thống Mỹ đầu tiên dính líu đến vấn đề Việt Nam. Với mối lo ngại sâu sắc về sự lớn mạnh của khối Xã hội Chủ nghĩa, Mỹ đã bắt đầu chú ý đến Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Theo Mỹ, khi Trung Hoa Dân quốc sụp đổ, Đông Nam Á trở thành nơi sống còn đối với an ninh của mình vì “Nếu khu vực này bị chủ nghĩa cộng sản kiểm soát, chúng ta sẽ phải gánh chịu một thất bại thảm hại về mặt chính trị mà ảnh hưởng của nó sẽ lan tràn trên toàn thế giới" [64, tr. 15]. Vì vậy, khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) ra đời sau cách mạng tháng Tám năm 1945 và ngày càng giành thế chủ động trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, càng làm cho Mỹ lo ngại về sự thắng lợi ngày càng to lớn của Chủ nghĩa Cộng sản. Ngay từ ngày 27-9-1948, Bộ ngoại giao Mỹ đã đi đến kết luận rằng chính sách của Mỹ sẽ là “loại trừ càng xa càng tốt ảnh hưởng của Cộng sản ở Đông Dương” [54, tr. 75]. Sau thành công của cách mạng Trung Quốc, ngày 30-12- 1949, tổng thống Truman đã phê chuẩn Văn kiện NSC-48/2 của Hội đồng An ninh Quốc gia và xác định “phải đặc biệt chú ý đến vấn đề Đông Dương thuộc Pháp” và “đường lối chính sách của Mỹ là chặn đứng sự bành trướng hơn nữa của chủ nghĩa cộng sản ở châu Á” [67, tr. 9]. Sau đó, ngày 27-2-1950, Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ tiếp tục thông qua Văn kiện NSC-64 1 xác định “Đông Dương là một khu vực then chốt và đang trực tiếp bị đe dọa… Việc Cộng sản đe dọa xâm lăng Đông Dương chỉ là một phần trong kế hoạch đã định trước của Cộng sản nhằm kiểm soát toàn bộ Đông Nam Á… Do 1 Đây là văn kiện đầu tiên của Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ (NSC) dành riêng cho vấn đề Đông Dương. Cũng từ đây (2-1950), sự dính líu của Mỹ vào Việt Nam được chính thức bắt đầu trên những văn bản chính thức của Washington. NSC-64 cũng là văn bản chính thức đầu tiên của Mỹ nêu lên điều mà sau này được gọi là “nguyên lý đô-mi-nô” (the domino principle).
  13. 6 đó, Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng phải ưu tiên chuẩn bị một chương trình gồm những biện pháp thực tế nhằm bảo vệ lợi ích an ninh của Mỹ ở Đông Dương” [54, tr. 96]. Trong đó, NSC-64 còn gợi ý rằng, Mỹ phải có “mọi biện pháp thực tiễn … để ngăn chặn sự mở rộng hơn nữa của cộng sản ở Đông Nam Á” [2, p. 29]. Muốn vậy, Mỹ phải tăng cường viện trợ cho Pháp tại Đông Dương để giữ vững cái chốt chặn cộng sản này. Đây là điều “tối cần thiết vì sự hiện diện của Trung Quốc ở biên giới phía Bắc Đông Dương mà người Pháp thì không đủ sức đương đầu với lực lượng Việt Minh” [28, tr. 81]. Người Mỹ rất lo ngại việc Pháp thất thủ tại Đông Dương vì khu vực này tiếp giáp Nam Trung Quốc và là cửa ngõ ra vào giữa hai biển Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Nếu “mất Việt Nam sẽ làm cho các quốc gia còn lại ở Đông Nam Á đứng trước nguy cơ tiêu vong” [46, tr. 16]. Do đó, mục tiêu của Mỹ là “hoạch định một chính sách để Đông Nam Á không được phép "rơi vào tay của những người Cộng sản như một quả mận chín" và rằng sự hiện diện của Pháp tiếp tục ở Đông Dương là cần thiết cho mục đích đó” [64, tr. 24]. Như vậy, Việt Nam từ một quốc gia nhỏ vốn không liên quan gì đến nước Mỹ xa xôi, từ đầu những năm 1950 bỗng giữ một vị trí quan trọng trong chính sách an ninh của Mỹ. Mỹ đã rất nỗ lực để giúp Pháp giành thắng lợi trong cuộc chiến tại nơi này 2. Thế nhưng, sự hậu thuẫn của Mỹ không thể cứu nguy cho sự sa lầy của Pháp tại Đông Dương. Pháp đã phải chấp nhận thất bại, đi tới ý Hiệp định Geneva về vấn đề Đông Dương để rút ra khỏi cuộc chiến, chấm dứt chín năm thảm hại ở đây. Nhưng có vẻ Mỹ chưa rút ra được bài học gì từ Pháp ở Việt Nam. Nếu như Tổng thống Truman là người khơi nguồn cho những dính líu của Mỹ ở Việt Nam thì Tổng thống Eisenhower đã là người nâng tầm chiến lược của Việt Nam lên đến mức cao nhất trong chính sách ngăn chặn cộng sản mà chính quyền Mỹ luôn theo đuổi. Khi Điện Biên Phủ sắp thất thủ, Pháp đã lên tiếng nhờ Mỹ giúp đỡ. Tổng thống Eisenhower đã tích cực vận động Quốc hội Mỹ và lôi kéo Anh tham gia cứu Pháp, nhưng không thành. Tiếp theo đó, ngay trong ngày Hiệp định Geneva được kí, 2 Mỹ bắt đầu tính đến giải pháp viện trợ cho Pháp để giữ bức tường ngăn chặn cộng sản tại Đông Dương. Giữa năm 1950, phái đoàn Cố vấn viện trợ quân sự Mỹ (MAAG) được đưa sang Việt Nam. Trong tài khoá năm 1954, viện trợ của Mỹ cho các cố gắng chiến tranh của Pháp ở Đông Dương tăng lên 1 tỷ đô-la. Phái đoàn MAAG đã có 342 sĩ quan và binh lính Mỹ [38, Tr. 7].
  14. 7 Eisenhower đã tuyên bố tại một cuộc họp báo ở Washington rằng, Mỹ không phải là một bên kí kết, cũng không bị ràng buộc bởi các quyết định được Hội nghị Geneva thông qua vì Hiệp định chứa đựng những điểm mà Mỹ không tán thành. Sau khi lưu ý rằng “mọi mưu toan lặp lại hoạt động xâm lăng của cộng sản sẽ bị chúng tôi xem là một vụ việc rất nghiêm trọng”, chủ nhân Nhà Trắng còn loan báo rằng Chính phủ Mỹ hiện đang tích cực theo đuổi cuộc thảo luận với những quốc gia khác về việc thành lập một tổ chức phòng thủ tập thể nhằm ngăn chặn hoạt động xâm lược trực tiếp hay gián tiếp khác ở Đông Nam Á [28, tr. 195-196]. Và rồi, ngày 20-8-1954, Tổng thống Mỹ D. Eisenhower đã tán thành Nghị quyết mang số hiệu NSC 5429/2 có nhan đề “Duyệt xét lại chính sách Mỹ ở Viễn Đông”. Sau khi đưa ra nhận xét:”Những thắng lợi của cộng sản ở Đông Dương mà đỉnh cao là Hiệp định Geneva đã kéo theo những hậu quả nghiêm trọng gây tổn hại cho an ninh của Mỹ. Ở Việt Nam, những người cộng sản đã giành một đầu cầu cho phép họ gây sức ép cả về quân sự lẫn không quân sự lên những vùng không cộng sản cả lân cận và không lân cận”, Nghị quyết đã phác thảo một chương trình hành động gồm ba nội dung gồm giúp củng cố lực lượng quân đội Quốc gia Việt Nam, viện trợ trực tiếp cho chính phủ Diệm, và giúp Diệm củng cố quyền lực ở miền Nam Việt Nam (NVN) [28, tr. 197-198]. Ngày 23-10-1954, chủ nhân Nhà Trắng đã gửi thư cho Ngô Đình Diệm để khẳng định cam kết của Chính phủ Mỹ: “hỗ trợ chính phủ Việt Nam phát triển và duy trì một quốc gia vững mạnh, có khả năng chống lại mưu toan lật đổ hay xâm lược bằng quân sự” [28, tr. 199]. Để cụ thể hóa cam kết vừa nêu ấy, tháng 12-1954, Chính phủ Mỹ đã thông qua nghị quyết NSC 5429/5 sẵn sàng dùng lực lượng quân sự Mỹ để bảo vệ NVN khi nó bị tấn công [59, tr. 222] 3. Qua đó có thể thấy, Eisenhower đã chính thức thừa nhận sự ủng hộ của Mỹ với chính quyền Sài Gòn (CQSG), thậm chí là bằng sức mạnh quân sự. Rõ ràng đây là 3 Với Điều 9 của NSC-5429/5 quy định rằng: “nếu được yêu cầu bởi một chính phủ bản địa hợp pháp [trong vùng Đông Nam Á] đang cần sự trợ giúp để đánh bại mọi hoạt động lật đổ hay nổi dậy tại chỗ của cộng sản, Hoa Kì sẽ xem xét một tình thế như vậy một cách nghiêm trọng đến mức ngoài việc mang đến mọi sự giúp đỡ công khai và bí mật có thể được nằm trong thẩm quyền của ngành Hành pháp, tổng thống còn xem xét ngay lập tức khả năng yêu cầu Quốc hội có hành động thích đáng. Hành động này có thể, nếu cần thiết và khả thi, bao gồm việc sử dụng lực lượng quân sự Hoa Kì hoặc là ngay tại chỗ, hoặc chống lại người tiếp trợ từ bên ngoài cho hoạt động lật đổ hay nổi dậy (kể cả Trung Cộng nếu quả đây là nguồn tiếp trợ)” Dẫn theo: [28, tr 205].
  15. 8 một nấc thang mới trong sự dính líu của Mỹ bị chi phối nặng nề bởi thuyết Domino, nó đã đưa Mỹ ngày càng gắn chặt vào vấn đề Việt Nam. Sau khi khẳng định sự cam kết của Mỹ đối với NVN, Washington đã tiến hành các bước tiếp theo. Trước tiên, Mỹ công khai chối bỏ trách nhiện thực thi Hiệp định Geneva (1954). Ngày 28-6-1955, Ngoại trưởng J. Foster Dulles đã khẳng định: “Tất nhiên là cả Chính phủ Mỹ lẫn Chính phủ Việt Nam (Chính quyền Diệm - TG) đều không phải là bên có kí vào Hiệp định đình chiến Geneva. Chúng tôi không ký, và Chính phủ Sài Gòn cũng không ký, mà còn phản đối” [58, tr. 149]. Và tiếp đó là tiếp tục sự sẵn sàng tham chiến tại Việt Nam bằng kế hoạch đề xuất của Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Mỹ (5-1956) sử dụng ít nhất 2 sư đoàn lục quân cho cuộc hành quân đổ bộ lên phía Bắc khu phi quân sự, trong trường hợp xảy ra cuộc tấn công công khai của VNDCCH chống lại Việt Nam Cộng hòa (VNCH) [59, tr. 223]. Sau đó, Washington không ngừng viện trợ kinh tế, trang thiết bị chiến tranh cho CQSG để giúp duy trì và phát triển các chương trình chống cộng quyết liệt của Diệm. Kennedy đã để ý đến vấn đề Việt Nam từ thời còn là nghị sĩ Thượng viện. Ông đã thể hiện sự quan tâm này trong bài diễn văn được công bố rộng rãi năm 1956: “Việt Nam là hòn đá tảng của thế giới tự do ở Đông Nam Á. Đó là con đẻ của chúng ta. Chúng ta không thể từ bỏ nó, không thể phớt lờ những nhu cầu của nó” [28, tr. 216-217]. Khi trở thành Tổng thống, ông có điều kiện thể hiện cụ thể mối quan tâm đó. Ngày 11-5-1961, Kennedy đã thông qua nghị quyết mang kí hiệu NSAM-52 4 chứa đựng một số biện pháp như: xem xét đề xuất tăng quân số quân đội VNCH lên 20 vạn, nghiên cứu thành phần của một đạo quân Mỹ có thể sẽ được phái sang Việt Nam, nếu yêu cầu này được đặt ra. Và Kennedy khẳng định tiếp tục thực hiện cam kết giúp CQSG chống cộng sản bằng câu phát biểu ngày 19-6-1961 rằng: “NVN sẽ trở thành sự thử nghiệm quyết tâm giữ vững cam kết của Mỹ trong một thế giới đầy đe dọa và khả năng đương đầu với những thách thức mới mà chiến tranh du kích đặt ra trong các quốc gia mới trỗi dậy” [28, tr. 217]. 4 Từ thời chính phủ Kennedy, các nghị quyết của Hội đồng An ninh quốc gia mang kí hiệu NSAM (National Security Action Memoranda – NSAM) thay vì NSC của các đời tổng thống tiền nhiệm.
  16. 9 Vị Tổng thống này đã thực sự quan tâm đến cuộc chiến chống du kích của Chính phủ Diệm ở miền NVN. Nhưng diễn tiến tình hình ngày càng xấu đi nghiêm trọng, “cuộc khủng hoảng lòng tin sâu sắc và sự suy sụp nghiêm trọng về tinh thần lan tràn trên khắp NVN” 5, và một số cố vấn đã đề nghị Tổng thống đưa vào NVN một “lực lượng đặc nhiệm hậu cần” gồm 8.000 quân, đóng vai trò như là một “biểu tượng hiển nhiên chứng tỏ Mỹ có ý định nghiêm túc và sẽ là một lực lượng quân sự dự bị vô giá nếu tình hình NVN đột nhiên xấu đi” [64, tr. 89] và bước đi vừa nêu sẽ có nghĩa là “một bước chuyển căn bản từ quan hệ tư vấn sang đối tác” trong chiến tranh [28, tr. 219-220]. Kennedy đã khôn khéo thực hiện những đề nghị đó một cách thầm lặng dưới hình thức tăng cố vấn quân sự và viện trợ cho Diệm. Tuy luôn nói rằng Chính quyền NVN phải tự đảm đương lấy chiến tranh để giành chiến thắng, nhưng trên thực tế Kennedy không ngại mạnh tay can dự sâu vào NVN. Một mặt, Washington nhượng bộ Sài Gòn trong việc giảm sức ép trong những yêu cầu cải cách chính trị tại NVN và đề nghị có “sự hợp tác gần gũi” hơn, có sự bàn bạc thường xuyên thay cho vai trò tuyệt đối của Mỹ trong việc vạch ra chính sách [44, tr. 111]. Mặt khác, Mỹ không ngừng gia tăng viện trợ vật chất và cố vấn quân sự cho Chính quyền Diệm. Năm 1962 đánh dấu mức độ dính líu ngày càng sâu hơn của Hoa Kì vào NVN. Sự chuyển biến này được phản ánh qua những con số sau: viện trợ quân sự hơn gấp đôi - từ 65 triệu USD (năm tài khóa 1961) lên 144 triệu USD (năm tài khóa 1962), số cố vấn quân sự tăng gấp ba - từ 3205 (cuối năm 1961) lên hơn 9000 (cuối năm 1962). Phù hợp với mức độ can dự ngày càng sâu hơn về quân sự của Mỹ, tháng 1-1962, Phái bộ MAAG được thay bằng Bộ chỉ huy viện trợ quân sự NVN (Military Assistance Command, Vietnam – MACV). Quân đội VNCH bắt đầu được trang bị những vũ khí hiện đại như xe thiết giáp và đặc biệt là trực thăng. Phi công Mĩ đã trực tiếp tham chiến trong nhiều trận đánh [28, tr. 223]. Đến tháng 10-1963, số cố vấn Mỹ đã lên đến 16.732 người [67, tr. 81]. Những can dự của vị Tổng thống trẻ tuổi này ở miền NVN còn được Chính phủ Mỹ gọi là “cuộc chiến chống nổi dậy” (the Counterinsurgency war). 5 Trong bản báo cáo của Maxwell Taylor và Walt Rostow sau khi sang NVN tìm hiểu tình hình tại chỗ từ ngày 15 đến 25-10-1961. [64, tr. 89].
  17. 10 Tuy nhiên, những cố gắng ngày càng tăng của người Mỹ lại không tỷ lệ thuận với những thành công trong cuộc chiến tại miền NVN. Thất bại liên tiếp trong những hoạt động quân sự, sự tan rã từng mảng lớn của “quốc sách ấp chiến lược” (mặc cho đây là chương trình tiêu tốn nhiều tiền của của Mỹ nhất), chính trị ngày càng bất ổn, đặc biệt là cuộc khủng hoảng tôn giáo ngày càng trở nên trầm trọng vào năm 1963, cộng thêm thái độ ngày càng “bất tuân” của anh em Diệm – Nhu, thậm chí còn là tỏ thái độ công khai thách thức người Mỹ và kín đáo ám chỉ rằng chế độ Sài Gòn đang bắt liên lạc, qua trung gian của Pháp, với đại diện của VNDCCH nhằm tìm kiếm một nền hòa bình riêng rẽ trên cơ sở trung lập hóa Việt Nam [28, tr. 226]. Tình hình đó đưa đến quyết định mạnh tay hơn của Washington đối với CQSG, một kế hoạch đảo chính lật đổ Diệm đã được người Mỹ thúc đẩy. Kết quả ngày 1- 11-1963, anh em Diệm – Nhu bị giết. Cuộc đảo chính đã diễn ra như một kết quả tất yếu trong chính sách của Washington với Sài Gòn thời điểm đó, nhưng hậu quả của nó là không thể tính hết đối với cả NVN và Hoa Kỳ. Nó mở đầu cho một chuỗi dài khủng hoảng trầm trọng về chính trị ở Sài Gòn và kéo theo những lúng túng ngay tại Washington, làm cho Hoa Kỳ tiến dần đến một cuộc chiến tranh can thiệp trực tiếp dưới thời Tổng thống Johnson. 1.1.2. Tình hình miền NVN từ cuối năm 1963 đến giữa năm 1964 Ngay sau khi John F. Kennedy bị ám sát (22-11-1963), Lyndon B. Johnson lên thay làm Tổng thống thứ 36 của nước Mỹ và đồng thời cũng tiếp nhận cả “bãi lầy” Việt Nam. Johnson đúng ra không bị ràng buộc gì với những cam kết với NVN 6, nhưng sau khi nhậm chức ông lại bất ngờ tuyên bố: “Tôi sẽ không để mất Việt Nam” hay “chúng ta sẽ giữ vững những điều cam kết của chúng ta từ NVN đến Tây Berlin” 7 như một sự khẳng định vững chắc cam kết ủng hộ chính quyền VNCH, duy trì sự can dự ở cái xứ nguyên là thuộc địa của Pháp mà lợi ích của Mỹ ở đó không gì ngoài 6 Thậm chí năm 1954, khi mà Tổng thống Eisenhower đề ra chủ trương đưa quân Mỹ vào giải cứu quân Pháp ở Điện Biên Phủ, Thượng nghị sĩ L. B. Johnson đã nói: “Tôi chống lại việc đưa lính Mỹ đến nơi đầm lầy Đông Dương để bị giết hại nhằm làm tồn tại mãi mãi chủ nghĩa thực dân và sự bóc lột châu Á của người da trắng…” [52, tr. 420]. 7 Đây là tuyên bố của Johnson trong cuộc họp liên tịch của Quốc Hội Mỹ ngày 27-11-1963. [52, tr. 420]
  18. 11 mục tiêu “ngăn chặn Cộng sản” mà họ tự bày ra. Đối với Johnson, NVN là một “thử thách về sự kiên quyết của Mỹ và đặc biệt là một thử thách đối với khả năng của Mỹ trước các cuộc “chiến tranh giải phóng dân tộc” của cộng sản” [39, tr. 117; 67, tr. 278]. Và mục tiêu của Johnson là "kịp thời đem lại cho nhân dân châu Á niềm tin và sự giúp đỡ mà họ cần để tập hợp các nguồn lực của họ một cách có tổ chức nhằm sống trong hoà bình, ổn định bên cạnh các nước láng giềng hùng mạnh" [64, tr. 122]. Đồng thời, nó cũng là nơi thể hiện uy tín của nước Mỹ trên trường quốc tế. Để thực hiện ngay lập tức sự cam kết ấy, Tổng thống Mỹ đã cử Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara sang NVN để nắm tình hình. Khi trở về ngày 21-12- 1963, McNamara đã báo cáo lên Tổng thống: “Tình hình là rất đáng lo ngại. Các xu hướng hiện nay, trừ phi có sự đảo ngược trong vòng 2 hoặc 3 tháng tới, dẫn đến trung lập hóa (miền NVN - ND) trong điều kiện tốt nhất nếu không, chắc chắn hơn là sẽ dẫn tới tình trạng bị Cộng sản kiểm soát” [67, tr. 271]. Để có kết luận như vậy, McNamara đã “mục sở thị” một hiện trạng NVN rất rối ren sau đảo chính Diệm. "Chương trình ấp chiến lược" đang hỗn loạn, nhiều ấp chiến lược chủ chốt ở vùng đồng bằng sông Cửu Long bị Việt cộng hoặc chính những người dân trong ấp phá tan. Trong các đô thị, phong trào đấu tranh của Phật tử, phụ nữ, học sinh – sinh viên vẫn tiếp diễn. Nhóm tướng lĩnh lên cầm quyền ở NVN sau vụ đảo chính cũng chẳng làm được gì nhiều để chặn đứng sự suy sụp này. Họ thiếu kinh nghiệm, không xây dựng được cương lĩnh và không giành được sự ủng hộ của các tổ chức chống Diệm trước đây. Nghi kỵ lẫn nhau và nghi kỵ giữa các nhóm ganh đua khác trong quân đội, cùng việc chưa biết nên đi theo hướng nào, nên họ giam mình trong tổng hành dinh gần sân bay Tân Sơn Nhất của Sài Gòn. Harkins 8 thì lo ngại những cố gắng của nhóm tướng lĩnh trên sẽ hạn chế vai trò của cố vấn Mỹ [64, tr.124]. Trong lúc đó, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền NVN (MTDTGP) lại lên tiếng kêu gọi tướng Minh – người tạm thời thay thế Diệm – thương lượng và tìm một kế hoạch cho tuyển cử tự do. Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc U Thant cũng liên tiếp đưa ra đề nghị tìm một giải pháp chính trị cho vấn đề Việt Nam [2, tr. 72-73]. 8 Đại tướng Paul Harkins đang làm tư lệnh Bộ chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ ở Việt Nam (MACV).
  19. 12 Ngày 29-1-1964, một nhóm sĩ quan trẻ do tướng Nguyễn Khánh cầm đầu đã lật đổ nhóm tướng lĩnh đảo chính Diệm khi họ đang bị chia rẽ và bất lực. Khánh cho rằng cuộc đảo chính được thực hiện vì một số uỷ viên hội đồng quân sự cách mệnh đã bí mật tán thành các đề nghị của De Gaulle về một miền NVN trung lập [64, tr. 124]. Một lần nữa, người Mỹ lại đứng sau vụ đảo chính này. Harkins và các cố vấn của ông ta thấy khó chịu trước việc nhóm tướng Minh không tích cực hoạt động và có tư tưởng độc lập, nên có thể họ đã khuyến khích và thậm chí giúp Khánh thực hiện âm mưu tiếm quyền. Còn Đại sứ Lodge dự tính rằng chế độ cai trị độc tài có thể tốt hơn là một nhóm tướng lĩnh chia rẽ, và việc Khánh cam kết hành động táo bạo và quyết đoán đã khích lệ ý tưởng này của ông ta. Tuy vậy, người Mỹ vẫn chưa yên tâm lắm và Lodge thừa nhận rằng còn quá sớm để đoán là chính phủ mới này sẽ tồn tại được lâu [64, tr. 125]. Mỹ nhanh chóng công nhận Khánh và liên tục có những hành động ủng hộ, lên gân cho vị tướng mang nhiều kỳ vọng này 9. Nhưng gần như ngay lập tức sau khi lên nắm quyền, Chính quyền của Khánh cũng lại vấp phải những vấn đề thực sự đáng lo ngại. Các hoạt động quân sự và chương trình ấp chiến lược đã hoàn toàn bế tắc. Quyền lực của chính quyền không tồn tại ở khắp vùng nông thôn, và tình trạng gần như vô chính phủ lan tràn ở các thành phố lớn. Tướng Westmoreland sau này kể lại, tại Sài Gòn "bầu không khí nặng mùi bất mãn, với các cuộc bãi công của công nhân, biểu tình của sinh viên, báo chí địa phương thì thực hiện một chiến dịch dai dẳng phê phán chính phủ mới" [64, tr. 125]. Giới tình báo Mỹ báo động rằng, nếu chính phủ Mỹ không nhanh chóng đảm nhận và giải quyết những khó khăn một cách có hiệu quả, NVN "cùng lắm chỉ có khả năng chống trả mối đe dọa của quân cách mạng trong vòng vài tuần hoặc vài tháng tới" [64, tr. 126] 10. 9 Đánh giá về tình hình này, Bùi Diễm (cựu Đại sứ VNCH tại Mỹ) đã viết: “Nói cho cùng thì Hoa Kỳ chỉ muốn một tình trạng “ổn định” (đúng ra phải là muốn chiến thắng Việt cộng – ND) nên chỉ cần có một người lèo lái vững chắc, không cần biết người đó có đáng giúp hay không. Do đó trong những ngày đầu, tướng Khánh được coi như là một “người hùng” (tạm dịch hai chữ Strong man) đáng tin cậy. Rồi ông McNamara lại được phái sang Việt Nam để nói lên sự ủng hộ của Hoa Kỳ đối với vị lãnh đạo mới của Việt Nam. Ông McNamara đi liền với tướng Khánh trong mấy ngày kinh lý và hai người đã cùng giơ cao nắm tay, hô khẩu hiệu “Việt Nam muôn năm”. Hoa Kỳ đã quá vội vàng”. [15, tr. 193] 10 Ngày 15/5/1964, CIA đã gửi một đánh giá tình báo đặc biệt về Việt Nam cho Tổng thống. Dean Rusk, Mac Bundy, và McNamara. Họ đưa ra những tin tức ảm đạm: Tình hình bao trùm ở NVN là cực kỳ mỏng manh. Tuy đã có một số cải thiện trong khả năng của quân đội NVN, sức ép kéo dài của Việt cộng tiếp tục xói mòn quyền lực của Chính phủ trong cả nước, gây phương hại đến các chương trình của Mỹ và Việt Nam (Cộng hoà) và làm suy sụp tinh thần của NVN. Chúng tôi không nhận thấy dấu hiệu cải thiện nào... Nếu chiều hướng
  20. 13 Trong tình hình đó, Tổng thống Pháp lại liên tục kêu gọi “trung lập hóa” miền NVN. Trước ngày Diệm bị giết hai tháng, ngày 29-8-1963, De Gaulle họp Hội đồng Bộ trưởng Pháp và tuyên bố mong được thấy một Việt Nam “độc lập với bên ngoài, hòa bình và thống nhất bên trong, hòa hợp với các nước láng giềng” và “nhân dân Việt Nam có quyền lựa chọn những biện pháp để đạt những mục tiêu đó”. Đồng thời, ông cũng nhấn mạnh: “Qua mọi cố gắng, Việt Nam sẽ thấy một nước Pháp sẵn sàng, trong chừng mực và khả năng của mình, tổ chức một sự hợp tác chân thành với Việt Nam” [8, tr. 51]. Với cách nói như vậy, De Gaulle đã là nhà lãnh đạo ở châu Âu đầu tiên dám lên án cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam, đồng thời khẳng định Pháp sẵn sàng giúp tìm một giải pháp giải quyết cuộc chiến. Và sau đó, vị tổng thống của một đế quốc trước đây đã từng trải ở “vũng lầy” Việt Nam ấy, đã đưa ra một giải pháp cụ thể. De Gaulle tiếp tục lên tiếng về cuộc chiến tranh “phi nghĩa” và “đáng ghét” của Mỹ tại các cuộc họp báo tháng 1 và tháng 7-1964. Ngày 23-7-1964, Tổng thống Pháp kêu gọi triệu tập lại Hội nghị Geneva năm 1954, nhằm chấm dứt sự can thiệp của nước ngoài và tôn trọng sự trung lập của ba nước Đông Dương [6, tr. 53]. Chính những tuyên bố kêu gọi một giải pháp trung lập cho vấn đề Việt Nam của Pháp đã tác động khá lớn đến nội bộ chính quyền NVN và cả ở Mỹ. Tuy nhiên, Johnson đã không vội đưa ra quyết định. Dù rất lo lắng với tình trạng bất ổn ở NVN, nhưng tổng thống này chưa sẵn sàng dùng sức mạnh quân sự Mỹ với quy mô lớn vào đầu năm 1964. Ông ta và các cố vấn của mình sợ rằng việc Mỹ hoá cuộc chiến tranh sẽ làm giảm tinh thần tự lực của chính quyền VNCH. Việc đưa lực lượng Mỹ với quy mô lớn vào Việt Nam sẽ tạo ra những làn sóng thù địch Mỹ trên phạm vi toàn thế giới. Nó có thể gây rối loạn lớn trong nước, đe dọa chương trình lập pháp của Johnson cùng chiến dịch tranh cử tổng thống của ông ta. Do vậy, Johnson trì hoãn đề nghị của hội đồng tham mưu trưởng liên quân về việc tiến hành các hoạt động tác chiến trên không và trên bộ chống BVN [64, tr. 130]. Dù vậy, năm 1964, chính sách của Washington đối với vấn đề Việt Nam cũng có nhiều điểm rất đáng nói. đang xấu đi này không bị chặn lại vào cuối năm nay, thì vị trí chống cộng của NVN sẽ không thể đứng vững. [39, tr.129].
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2