intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Chính sách an ninh ­phòng thủ biển của nhà Nguyễn ở nửa đầu thế kỷ XIX (1802 - 1858)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:256

36
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trên cơ sở sưu tầm, tập hợp, phân tích tư liệu, so sánh lịch đại để trình bày, phân tích, đánh giá về chính sách an ninh - phòng thủ biển của triều Nguyễn và hiệu quả của chính sách đối với việc bảo vệ an ninh, quốc phòng của đất nước trong khoảng thời gian 1802 - 1858. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Chính sách an ninh ­phòng thủ biển của nhà Nguyễn ở nửa đầu thế kỷ XIX (1802 - 1858)

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­ ĐINH THỊ HẢI ĐƯỜNG CHÍNH SÁCH AN NINH-PHÒNG THỦ BIỂN CỦA NHÀ NGUYỄN Ở NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX (1802 - 1858) LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Hà Nội-2012 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­ ĐINH THỊ HẢI ĐƯỜNG CHÍNH SÁCH AN NINH­PHÒNG THỦ BIỂN CỦA NHÀ NGUYỄN Ở NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX (1802 ­ 1858) Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 60 22 54 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Vũ Văn Quân Hà Nội-2012 2
  3. Lời cảm ơn Bản luận văn được hoàn thành là kết quả của một quá trình học tập và nghiên cứu lâu dài, nghiêm túc của học viên dưới sự chỉ bảo, dìu dắt tận tình của các Thầy Cô Khoa Lịch sử, nhất là các Thầy Cô thuộc Bộ môn Lịch sử Việt Nam Cổ­Trung đại. Bên cạnh đó, sự quan tâm, ủng hộ, tạo điều kiện từ phía Ban lãnh đạo của Viện Sử học và của Phòng Nghiên cứu Lịch sử Việt Nam Cổ­ Trung đại, cũng như của các nhà nghiên cứu bề trên và các bạn đồng nghiệp trong Tổ chuyên môn đã giúp tôi có thể hoàn toàn tập trung để hoàn thành luận văn. Luận văn được tham khảo nhiều nguồn tư liệu cũng là nhờ sự chỉ dẫn, giúp đỡ và sự nhiệt tình của cán bộ các thư viện, nhất là thư viện Viện Sử học và thư viện Khoa Lịch sử. Đặc biệt, gia đình, bạn bè là những người luôn sát cánh, động viên, giúp đỡ và truyền cho tôi động lực trong suốt quá trình thực hiện luận văn. Nhân đây, cho tôi xin được gửi lời tri ân tới tất cả những sự chỉ bảo, quan tâm, giúp đỡ đó! Lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tôi xin được gửi đến Thầy, PGS.TS.Vũ Văn Quân, người Thầy đã dìu dắt tôi trên bước đường nghiên cứu khoa học và cũng là người Thầy hướng dẫn khoa học của bản luận văn này. Từ Thầy, tôi không chỉ học hỏi được những ý tưởng và phương pháp tiếp cận trong nghiên cứu khoa học lịch sử mà tôi còn nhận được sự quan tâm, động viên, chỉ bảo và hướng dẫn tận tình của Thầy trong suốt quá trình hoàn thành luận văn! Học viên Đinh Thị Hải Đường 3
  4. Lời cam đoan Tôi xin cam đoan luận văn Chính sách an ninh - phòng thủ biển của nhà Nguyễn ở nửa đầu thế kỷ XIX là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, tư liệu được sử dụng trong luận văn là trung thực. Nguồn tài liệu trích dẫn đều được chú thích rõ ràng, đảm bảo tính khách quan của nguồn tư liệu và tôn trọng bản quyền tác giả. Hà Nội, ngày 15 tháng 9 năm 2012 Tác giả luận văn Đinh Thị Hải Đường 4
  5. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa LỜI CẢM ƠN LỜI CAM ĐOAN MỞ ĐẦU 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 6 4. Nguồn tư liệu 9 5. Phương pháp nghiên cứu và mục đích, nhiệm vụ của luận 11 văn 6. Bố cục của luận văn 11 Chương 1: NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CHÍNH 13 SÁCH AN NINH - PHÒNG THỦ BIỂN CỦA NHÀ NGUYỄN 1.1. Biển Việt Nam và vấn đề an ninh-phòng thủ biển đối với 13 an ninh và chủ quyền quốc gia 1.2. Vấn đề an ninh - phòng thủ biển trong chính sách quản lý 15 đất nước của các Nhà nước phong kiến Việt Nam trước Nguyễn 1.3. Những thuận lợi và thách thức về an ninh - phòng thủ biển 23 đặt ra đối với nhà Nguyễn ở nửa đầu thế kỷ XIX 1.3.1. Những thuận lợi 23 1.3.2. Những thách thức 24 1.4. Nhận thức của nhà Nguyễn về biển và yêu cầu đảm bảo an 27 ninh - phòng thủ biển 1.4.1. Nhận thức về biển 27 1.4.2. Nhận thức về yêu cầu đảm bảo an ninh - phòng thủ biển 29 1.5. Tiểu kết 34 5
  6. Chương 2: THỦY QUÂN: LỰC LƯỢNG CHUYÊN TRÁCH 36 AN NINH - PHÒNG THỦ BIỂN CỦA NHÀ NGUYỄN 2.1. Những điều kiện thuận lợi để nhà Nguyễn xây dựng lực 39 lượng thủy quân mạnh 2.2. Các biện pháp xây dựng lực lượng thủy quân mạnh, chuyên 42 trách an ninh - phòng thủ biển 2.2.1. Lực lượng thủy quân chuyên trách an ninh - phòng thủ biển của 42 nhà Nguyễn 2.2.2. Xây dựng lực lượng thủy quân đông về số lượng 44 2.2.3. Xây dựng lực lượng thủy quân tinh nhuệ trong chiến đấu 51 2.3. Tiểu kết 77 Chương 3: CÁC BIỆN PHÁP AN NINH - PHÒNG THỦ 79 VÙNG DUYÊN HẢI 3.1. Vai trò của an ninh - phòng thủ vùng duyên hải đối với nền độc 79 lập và an ninh quốc gia 3.2. Xây dựng và tu sửa các công trình phòng thủ cửa biển 82 3.3. Xây dựng lực lượng bố phòng cửa biển 92 3.3.1. Quan chế và sự trang bị vũ khí của lực lượng bố phòng cửa 92 biển 3.3.2. Nhiệm vụ của các lực lượng bố phòng cửa biển 95 3.4. Tăng cường phòng bị đối với người Tây dương trước nguy cơ 115 xâm lược (1847-1858) 3.5. Tế lễ ở các cửa biển - biện pháp an ninh đường biển về mặt tâm 122 linh 3.6. Khơi thông cửa biển, đo đạc, vẽ bản đồ vùng cửa biển và 123 ghi chép hướng dẫn đường biển 3.6.1. Đo đạc, vẽ bản đồ vùng cửa biển và ghi chép hướng dẫn đường 123 biển 3.6.2. Khơi thông cửa biển 126 3.6.3. Khai hoang vùng duyên hải 128 6
  7. 3.7. Tiểu kết 129 Chương 4: CÁC BIỆN PHÁP AN NINH - PHÒNG THỦ 131 VÙNG BIỂN - ĐẢO 4.1. Hải cương dưới triều Nguyễn và vai trò của an ninh - phòng 131 thủ vùng biển - đảo đối với an ninh và nền độc lập quốc gia 4.2. Khẳng định và thực thi chủ quyền trên các đảo và quần 135 đảo 4.2.1. Xây dựng các cơ sở bố phòng 135 4.2.2. Khẳng định và thực thi chủ quyền trên hai quần đảo 136 Hoàng Sa và Trường Sa 4.3. Xây dựng các lực lượng tuần tra, canh phòng biển đảo 139 4.3.1. Lực lượng Tấn thủ, binh đồn trên các đảo 139 4.3.2. Tăng cường lực lượng thủy quân tuần tra mặt biển 140 4.3.3. Sử dụng lực lượng khai thác nguồn lợi biển 144 4.4. Kiểm soát các hoạt động khai thác nguồn lợi biển 146 4.4.1. Kiểm soát hoạt động thông thương, vận tải đường biển 146 4.4.2. Kiểm soát hoạt động khai thác nguồn lợi sinh vật biển 162 4.5. Tiêu diệt giặc biển 165 4.5.1. Địa bàn hoạt động chủ yếu của giặc biển 165 4.5.2. Thời gian hoạt động của giặc biển 169 4.5.3. Lực lượng tuần tra và các thủ tục tuần tra trên biển 170 4.5.4. Các biện pháp tiêu diệt giặc biển 174 4.6. Tiểu kết 177 KẾT LUẬN 178 TÀI LIỆU THAM KHẢO 182 PHỤ LỤC 7
  8. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Việt Nam là quốc gia thuộc bán đảo Đông Dương, nằm trên trục giao lưu Bắc ­ Nam, Đông ­ Tây và là một điểm trung chuyển từ lục địa ra đại dương. Vị trí địa chiến lược đó đã tác động mạnh mẽ đến lịch sử dân tộc, đặt ra nhiều cơ hội và thách thức cho sự phát triển của quốc gia, nhất là thách thức về chủ quyền biển đảo. Trải suốt chiều dài lịch sử, mọi hoạt động của đời sống đất nước, về chính trị, an ninh ­ quốc phòng, kinh tế, văn hoá ­ xã hội, đều chịu sự chi phối của biển ở mức độ nhất định. Trong khi đó, chính sách của Nhà nước đối với biển là một yếu tố quyết định trực tiếp sự phát triển các mặt nói trên và là một bộ phận quan trọng trong chiến lược bảo vệ, phát triển đất nước. Theo dòng chảy thời gian, quá khứ không trở lại nhưng sự phát triển của hiện tại và tương lai lại được nuôi mầm từ quá khứ, từ những kinh nghiệm trong quá khứ. Chính sách đối với biển của Nhà nước Việt Nam đương đại đang cần những bài học kinh nghiệm đó. Đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu các chính sách đối với biển của Nhà nước phong kiến Việt Nam trong lịch sử đang là yêu cầu đặt ra cho thực tiễn phát triển đất nước. Trọng trách được đặt trên vai các nhà nghiên cứu và những nhà hoạch định chính sách. Tuy nhiên, điều đó không đồng nghĩa với việc chỉ khi thực tiễn yêu cầu, khoa học mới thực hiện trọng trách của mình mà yêu cầu của thực tiễn chỉ giúp cho sự nghiên cứu được tập trung và có động lực hơn. Trong lịch sử dân tộc, triều Nguyễn là triều đại cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam và sở hữu một lãnh hải thống nhất, rộng lớn, nhất là dưới triều Minh Mạng. Đây cũng là triều đại mà sự thành lập của vương triều được gắn bó chặt chẽ với biển. Đặc điểm này chi phối lớn đến sự nhận thức cũng như việc ban hành chính sách của các vị vua đầu triều đối với các vấn đề về biển, trong đó an ninh ­ phòng thủ biển là một trọng điểm. Năm 1802, khi Nguyễn Ánh lên ngôi cũng là lúc lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, một dải lãnh thổ rộng lớn như ngày nay được hoàn toàn thống nhất. Cùng với sự thống nhất về mặt lãnh thổ là sự khẳng định chủ quyền của triều Nguyễn trên một vùng biển rộng lớn. Đặc biệt, năm 1835, khi vua Minh Mạng đặt Trấn Tây Thành trên đất Cao Miên thì quyền của nhà Nguyễn trên vùng lãnh hải càng được mở rộng. Là vương triều đầu tiên sở hữu vùng biển rộng lớn, thống nhất, các vị vua đầu triều 8
  9. nhận thức ra sao về tầm mức quan trọng của việc bảo vệ biển đảo và đã có những chính sách như thế nào trong việc khẳng định chủ quyền cũng như trong vấn đề bảo đảm an ninh, phòng thủ biển. Hơn thế nữa, những chính sách của các vị vua đầu triều không chỉ có ý nghĩa khai mở mà nếu được thực hiện tốt sẽ là nền tảng vững chắc, tạo đà thuận lợi cho công cuộc bảo vệ an ninh, quốc phòng của các triều vua tiếp theo. Với những lý do trên, tôi quyết định chọn vấn đề: Chính sách an ninh - phòng thủ biển của nhà Nguyễn ở nửa đầu thế kỷ XIX (1802 - 1858) làm đề tài nghiên cứu của luận văn. Đề tài là sự tiếp tục hướng nghiên cứu về biển mà tôi đã bước đầu thực hiện trong khóa luận tốt nghiệp đại học (niên khóa 2003 ­ 2007) và cũng là khởi điểm để mở rộng, phát triển trong định hướng nghiên cứu khoa học lâu dài của mình. Đề tài mới chỉ là những tìm hiểu bước đầu nên không tránh khỏi nhiều thiếu sót! 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Do những yêu cầu khách quan về chính trị, quân sự và kinh tế của đất nước, trong thời gian gần đây, mảng đề tài về biển trên các lĩnh vực an ninh, chủ quyền và khai thác nguồn lợi đã nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu song vẫn còn là một khoảng trống khá lớn. An ninh ­ phòng thủ biển vốn là một vấn đề lịch sử quan trọng, liên quan chặt chẽ đến tình hình chiến sự nửa cuối những năm 50 của thế kỷ XIX và làm thay đổi cả lịch sử dân tộc, cũng chưa được quan tâm đúng mức, chưa được đặt thành chuyên khảo, chỉ mới dừng ở mức độ những nghiên cứu nằm trong tổng thể chung của chính sách quốc phòng triều Tự Đức. Do đó, chính sách an ninh ­ phòng thủ biển của triều Nguyễn ở nửa đầu thế kỷ XIX vẫn còn là khoảng trống cần được nghiên cứu. Tuy có những hạn chế đó, chính sách an ninh ­ phòng thủ biển dưới triều Nguyễn đã ít nhiều được nhắc đến trong những nghiên cứu trên các khía cạnh của chính sách mà chưa phải là những nghiên cứu tổng thể. Ở các nghiên cứu này, dày dặn nhất vẫn là những chuyên khảo về vấn đề khẳng định, thực thi và bảo vệ vững chắc chủ quyền của các nhà nước phong kiến Việt Nam, trong đó có triều Nguyễn, trên các vùng quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa giữa biển Đông. Giữa thập niên 70 của thế kỷ XX, Tập san Sử - Địa (số 29, Sài Gòn, 1975) đã xuất bản số Đặc khảo về Hoàng Sa và Trường Sa (352 trang) với nhiều bài nghiên cứu về sự khẳng định và thực thi chủ quyền của Việt Nam trên hai vùng quần đảo 9
  10. Hoàng Sa và Trường Sa. Những nghiên cứu về mảng đề tài này tiếp tục được làm dày thêm trong những thập niên gần đây với sự đóng góp của rất nhiều học giả trong và ngoài nước, trên nhiều lĩnh vực khác nhau như lịch sử, pháp luật, chính trị, kinh tế,... Tiếp cận từ góc độ lịch sử, các tác giả như Hoàng Xuân Hãn, Lãng Hồ, Nguyễn Quang Ngọc, Nguyễn Nhã, Nguyễn Đình Đầu,... đã giành nhiều tâm huyết cho mảng đề tài này. Bài viết của Hoàng Xuân Hãn về Quần đảo Hoàng Sa (1975), của Lãng Hồ về Hoàng Sa và Trường Sa, lãnh thổ Việt Nam (1975) đăng trên Tập san Sử - Địa số 29 cùng một số bài viết của các tác giả khác là những trang viết giá trị trong thập niên 70 của thế kỷ XX này về vấn đề chủ quyền của Việt Nam trên các vùng quần đảo giữa biển Đông. Cũng trong mảng đề tài đó, tác giả Nguyễn Quang Ngọc với những nghiên cứu của mình, từ đề tài Lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa1 đến các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành, các cuộc hội thảo trong nước và quốc tế, đã tập trung đi sâu khảo tả nhiều nguồn tư liệu về chủ quyền của Việt Nam trên các vùng quần đảo giữa biển Đông qua các pho sách cổ (thư tịch cổ Việt Nam, thư tịch cổ Trung Quốc, tư liệu phương Tây) và qua nguồn tài liệu thực địa tại Lý Sơn ­ Quảng Ngãi, nhất là nguồn tư liệu từ thế kỷ XIX trở về trước (trước khi xảy ra tranh chấp, tranh biện về quần đảo Hoàng Sa). Qua những nghiên cứu đó, tác giả đã đưa ra những chứng cứ lịch sử khách quan và xác thực về lịch sử chủ quyền của Việt Nam đối với các vùng quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong các bài viết đó, không chỉ các hoạt động khẳng định và thực thi chủ quyền của nhà Nguyễn ở nửa đầu thế kỷ XIX, nhất là triều vua Gia Long và Minh Mạng, được tác giả làm nổi bật mà việc bảo vệ chủ quyền của các Nhà nước phong kiến Việt Nam trước Nguyễn cũng được tác giả đi sâu khảo tả. Đó là những bài viết về Bảo vệ chủ quyền trên biển Đông - Một hoạt động nổi bật của vương triều Tây Sơn (1999), Vua Lý Anh Tông chiến lược biển và hành dinh trại Yên Hưng (2011) hay Đội Hoàng Sa: Cách thức thực thi chủ quyền độc đáo của Việt Nam trên các vùng quần đảo giữa Biển Đông trong các thế kỷ XVII, XVIII và đầu XIX2(2012),... Đó cũng là những nghiên cứu quý 1 Đề tài do GS. Nguyễn Quang Ngọc làm chủ nhiệm, được bắt đầu triển khai từ năm 1993. 2 Bài viết đã được in bằng tiếng Anh trong Tạp chí Khoa học Xã hội của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam: The Sovereignty of Vietnam over Paracel and Spratly Archipelagos in the 17th 1818 and 10
  11. giá mà luận văn kế thừa khi tìm hiểu về các biện pháp khẳng định và thực thi chủ quyền của nhà Nguyễn ở nửa đầu thế kỷ XIX trên các vùng quần đảo giữa biển Đông, cũng như khi tìm hiểu khái quát về vấn đề an ninh ­ phòng thủ biển trong chính sách quản lý đất nước của các Nhà nước phong kiến Việt Nam trước Nguyễn. Bên cạnh những đóng góp của các nhà nghiên cứu nói trên, các tác giả như Nguyễn Nhã, Nguyễn Đình Đầu cũng đã đặt nhiều mối quan tâm của mình vào mảng đề tài này. Trong những nghiên cứu của tác giả Nguyễn Nhã như luận án Tiến sĩ Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (2002), bài viết về Việc thực thi chủ quyền tại Hoàng Sa, Trường Sa dưới triều Nguyễn (2008), Sự thành lập và hoạt động của đội Hoàng Sa từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX (2008)1,... các hoạt động thực thi chủ quyền của nhà Nguyễn ở nửa đầu thế kỷ XIX được tác giả khảo tả từ nhiều nguồn tư liệu cũng là những trang tài liệu được luận văn tham khảo. Điều đáng chú ý là ở mảng đề tài này, bên cạnh những chuyên khảo lịch sử, những nghiên cứu về chủ quyền đối với hai vùng quần đảo này đã thu hút được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực khác như địa lý, pháp luật, chính trị, kinh tế,... Trong đó có những bài viết dựa trên những cứ liệu lịch sử dưới góc nhìn của luật học để đưa ra những lập luận vững chắc về vấn đề chủ quyền của Việt Nam trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tác phẩm Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (bản dịch xuất bản năm 1998) của Monique Chemillier ­ Gendreau, dựa trên phương diện luật pháp quốc tế đã phân tích những lập luận của các bên liên quan đến cuộc tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và quá trình thực thi chủ quyền lâu dài của Nhà nước Việt Nam trong lịch sử trên hai vùng quần đảo này qua những dẫn chứng lịch sử xác thực. Đó còn là bài viết Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa: Thử phân tích lập luận của Việt Nam và Trung Quốc của Từ Đặng Minh Thu, in trong tác phẩm Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam (2008) hay như Nhà nước Việt Nam đã từ lâu và liên tục thực hiện chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa (2012) của tác giả Nguyễn Bá Diễn,... Từ khía cạnh luật pháp, các tác giả 19th Centuries: Documentations and Historical Truth (2012) in Journal of Vietnam Social Sciences, No.1 (147), p.1­9. 1 Các bài viết này đều in trong tác phẩm Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam (2008) [49]. 11
  12. đã dựa trên những chứng cứ lịch sử để minh chứng cho quá trình thực hiện chủ quyền lâu dài và liên tục của Nhà nước Việt Nam đối với các vùng quần đảo giữa biển Đông. Chính vì vậy, những nghiên cứu trên các lĩnh vực đó đã đưa ra những cách tiếp cận và những góc nhìn mới, bên cạnh góc nhìn theo chiều cạnh nghiên cứu lịch sử, giúp cho việc tìm hiểu của luận văn về những hoạt động thực thi chủ quyền của nhà Nguyễn trên hai vùng quần đảo này được sâu sắc và đa diện hơn . Cũng trong thời gian gần đây, nhiều cuộc Hội thảo khoa học lớn về vương triều Nguyễn, về các vấn đề biển đảo được tổ chức nhằm đưa ra cái nhìn khách quan, khoa học và công bằng hơn đối với vương triều, giúp nhận thức đầy đủ hơn về các vấn đề biển đảo của Việt Nam như: Hội thảo về Chúa Nguyễn và Vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX tại Thanh Hóa (2008),... Từ những cuộc Hội thảo đó, nhiều tác phẩm sách được xuất bản và nhiều số chuyên đề của nhiều tạp chí được phát hành như Triều Nguyễn và lịch sử của chúng ta (2008) của Tạp chí Xưa & Nay; Số chuyên đề về biển, đảo Việt Nam (2009) của Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển của Sở Khoa học và Công nghệ Thừa Thiên Huế. Những công trình này giúp đề tài có cái nhìn sâu sắc, toàn diện hơn về triều Nguyễn cũng như về biển đảo để đưa ra những đánh giá khách quan và khoa học. Tiếp cận gần hơn với đề tài, một số bài viết trên Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Tạp chí Lịch sử quân sự, Tạp chí Xưa & Nay như Khoa học quân sự triều Minh Mạng trước ảnh hưởng của phương Tây của tác giả Phạm Ái Phương (1988), Chính sách bảo vệ vùng biển Đông Bắc Việt Nam của vua Gia Long và Minh Mạng của Nguyễn Thị Phương Chi, Trần Thị Hữu Hạnh (2011), Hệ thống phòng thủ Đà Nẵng dưới triều Nguyễn (2004) của tác giả Lưu Trang hay Lưu Thị Toán với Kinh đô Huế với tuyến phòng thủ từ xa (2007) và Phòng thủ cửa biển Thuận An dưới triều Nguyễn (2010),... đã khảo tả phần nào những khía cạnh nhỏ của vấn đề. Những chuyên khảo về triều Nguyễn như Việt Nam thế kỷ XIX (1802-1884) của Nguyễn Phan Quang (2002), Hệ thống phòng thủ miền Trung dưới triều Nguyễn của Đỗ Bang (2011) cũng là những tài liệu tham khảo chủ yếu của luận văn khi khảo tả về chính sách an ninh ­ phòng thủ biển thời kỳ này. Trong đó, hệ thống công trình phòng thủ biển miền Trung dưới triều Nguyễn, nhất là vùng biển kinh đô Huế đã được khảo tả khá công phu trong Hệ thống phòng thủ miền Trung dưới triều 12
  13. Nguyễn. Sự khảo cứu các nguồn thư tịch cổ triều Nguyễn kết hợp với những kết quả khảo sát thực địa cảng biển, một số đảo, bán đảo ven biển ở miền Trung đã giúp tác giả có cái nhìn logic và những đánh giá sát thực về hệ thống các công trình phòng thủ này. Đó cũng là những kết quả nghiên cứu được luận văn kế thừa. Các công trình phòng thủ biển cũng được đặt trong cái nhìn chung về hệ thống phòng thủ miền Trung dưới triều Nguyễn. Tuy nhiên, chính sách phòng thủ biển thế kỷ XIX mới chỉ được đặt trong cái nhìn tổng thể chung về hệ thống phòng thủ của nhà Nguyễn theo lát cắt một vùng địa lý (các tỉnh miền Trung). Một số tác phẩm như Quân thuỷ trong lịch sử chống ngoại xâm của nhóm tác giả Nguyễn Việt, Vũ Minh Giang, Nguyễn Mạnh Hùng (1983); Biển với người Việt cổ do Trần Quốc Vượng và Cao Xuân Phổ chủ biên (1996) cũng được luận văn sử dụng như những tài liệu tham khảo chính. Đó là vì chính sách an ninh ­ phòng thủ biển của triều Nguyễn dù chưa được nghiên cứu một cách trực tiếp nhưng các tác phẩm đã cung cấp nhiều tư liệu về tình hình an ninh, quốc phòng biển của các Nhà nước phong kiến Việt Nam trước triều Nguyễn, giúp luận văn có cái nhìn xuyên suốt và toàn diện khi đánh giá chính sách an ninh­phòng thủ biển của nhà Nguyễn trong lịch sử. Bên cạnh các học giả trong nước, nhiều học giả nước ngoài tuy chưa đặt hoàn toàn mối quan tâm vào việc đánh giá nền an ninh ­ quốc phòng biển của nhà Nguyễn ở nửa đầu thế kỷ XIX song một vài khía cạnh nhỏ lẻ được các tác giả đề cập cũng là những nguồn tư liệu giúp cho việc nhìn nhận vấn đề của luận văn được đa diện hơn. Đó là những bài nghiên cứu về tàu thuyền, phương tiện thực hiện chính sách an ninh ­ phòng thủ biển dưới triều Nguyễn, như Ships and Shipbuilding in the Mekong Delta, c.1750-1840 của tác giả Litana, in trong Water Frontier: Commerce and the Chinese in the Lower Mekong Region, 1750-1880, (2004), hay những bài viết về sự ảnh hưởng của kỹ thuật phương Tây trong hoạt động quân sự của nhà Nguyễn với The Transfers of Western Military Technology to Vietnam in the Late Eighteenth and Early Nineteenth Centuries: The case of the Nguyễn (2003) của học giả Frédéric Mantienne đăng trên Journal of Southest Asia Studies. Như vậy, cho đến nay, tuy chưa có chuyên khảo về biển cũng như về chính sách an ninh ­ phòng thủ biển của triều Nguyễn ở nửa đầu thế kỷ XIX nhưng những công trình trên đã cung cấp nhiều tư liệu quý để luận văn có thể góp phần làm sáng 13
  14. tỏ về Chính sách an ninh - phòng thủ biển của nhà Nguyễn ở nửa đầu thế kỷ XIX (1802-1858). 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là chính sách an ninh­phòng thủ biển của nhà Nguyễn ở nửa đầu thế kỷ XIX (1802­1858). Sau khi tổng hợp tư liệu từ các nguồn thư tịch cổ dưới triều Nguyễn về vấn đề an ninh, phòng thủ biển thời kỳ này như trong Châu bản triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Khâm Định Đại Nam hội điển sự lệ, Hoàng Việt luật lệ,... và có một cái nhìn tổng quát về chính sách của nhà Nguyễn cũng như các mục tiêu của chính sách trong việc đảm bảo an ninh, phòng thủ biển, luận văn đã đưa những nội dung cốt lõi nhất đó vào trong cách hiểu của luận văn về khái niệm “chính sách an ninh ­ phòng thủ biển” của nhà Nguyễn ở nửa đầu thế kỷ XIX như một sự định hướng và xác định phạm vi nghiên cứu cho luận văn khi triển khai các nội dung nghiên cứu theo một mạch thống nhất trong các chương của luận văn. Vì vậy, khái niệm “chính sách” của nhà Nguyễn ở đây được hiểu là những quy định, luật định thể hiện chủ trương, đường lối của triều đình Nguyễn trong vấn đề đảm bảo an ninh, phòng thủ biển cùng những hoạt động chỉ đạo cụ thể việc thực thi những chủ trương, đường lối đó trên thực tế. Những quy định, luật định này được thể hiện trong bộ luật, Chiếu, Chỉ, Sắc, Dụ do vua ban, trong tấu chương, biểu chương của quan lại đã được bút son của vua ngự duyệt. Về khái niệm “an ninh biển”, “phòng thủ biển”, hiểu một cách chung chung, chính sách “an ninh biển” là những chính sách nhằm đảm bảo và duy trì sự yên ổn, an toàn đường biển, giảm thiểu những thiệt hại về người và của do các vấn nạn tự nhiên và con người gây ra trên biển, đảo và duyên hải. Còn chính sách “phòng thủ biển” là những chính sách phòng ngừa, ngăn chặn nguy cơ đe dọa, xâm phạm bất hợp pháp của các thế lực trong và ngoài nước đối với an ninh, chủ quyền biển đảo, cũng là an ninh, chủ quyền quốc gia. Trên thực tế, “an ninh” và “phòng thủ” có mối quan hệ tương hỗ chặt chẽ với nhau. Đảm bảo tốt vấn đề an ninh sẽ là một biện pháp phòng thủ mạnh, ngược lại, phòng thủ hiệu quả đảm bảo sự yên ổn cho an ninh. Dưới triều Nguyễn, thật khó để phân biệt rạch ròi giữa “an ninh” và “phòng thủ” cả trong chính sách lẫn thực tế 14
  15. thực hiện chính sách. Tính không rạch ròi đó càng rõ nét ở vùng biên giới và vùng biển đảo. Do đó, an ninh, phòng thủ biển phải được hiểu trong một chỉnh thể của khái niệm “an ninh ­ phòng thủ biển”. Vì vậy, tựu chung lại, có thể hiểu, chính sách “an ninh­phòng thủ biển” của nhà Nguyễn ở nửa đầu thế kỷ XIX là những chính sách của Nhà nước nhằm đảm bảo sự yên ổn đường biển trước những nguy cơ đe dọa từ tự nhiên, như các biện pháp khơi thông cửa biển, đo đạc, vẽ bản đồ vùng cửa biển, tế lễ tại các cửa biển, ghi chép hướng dẫn đường biển,... Đó còn là những biện pháp của nhà Nguyễn nhằm đảm bảo sự an toàn, yên ổn trên biển trước những vấn nạn do con người gây ra như chống cướp biển, chống buôn lậu,...; là biện pháp ngăn chặn và đối phó trước những nguy cơ và hoạt động xâm phạm chủ quyền biển đảo, xâm lược chủ quyền quốc gia từ phía biển. Một cách khái quát, đó chính là những biện pháp của nhà Nguyễn nhằm duy trì, bảo vệ sự an toàn, yên ổn trên biển, khẳng định, thực thi và bảo vệ chủ quyền biển đảo, chủ quyền đất nước. * Phạm vi nghiên cứu - Về không gian Trong luật pháp quốc tế hiện hành, biển, đảo, không phận trên biển là những bộ phận quan trọng tạo thành không gian lãnh hải của một quốc gia. Tuy nhiên, trong điều kiện khoa học kỹ thuật của thế giới cũng như Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ XIX, khả năng chinh phục không phận của con người còn hạn chế, những mối nguy hại về an ninh­quốc phòng biển chưa thực sự diễn ra từ không phận trên biển. Vùng duyên hải là vùng đệm chuyển tiếp giữa biển và đất liền, là bộ phận của đất liền song lại chịu sự tác động sâu sắc của các yếu tố biển như nước biển, gió biển, sóng biển. Chỉ những quốc gia có biển mới có duyên hải và duyên hải có ý nghĩa quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh­phòng thủ của đất liền từ phía biển. Vì vậy, phạm vi không gian tìm hiểu của chính sách an ninh­phòng thủ biển ở nửa đầu thế kỷ XIX là tìm hiểu chính sách an ninh­phòng thủ của nhà Nguyễn trên biển ­ đảo và vùng duyên hải; không phận trên biển không nằm trong phạm trù nghiên cứu. - Về thời gian Luận văn tìm hiểu chính sách an ninh ­ phòng thủ biển trong giai đoạn 1802­ 1858, từ thời điểm xác lập quyền thống trị của nhà Nguyễn trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam (1802) đến năm thực dân Pháp bắt đầu xâm lược nước ta, cũng là mốc thời gian 15
  16. các nhà sử học dùng để phân kỳ lịch sử trung đại và cận đại ở Việt Nam (1858). Đây là khoảng thời gian trị vì của 4 triều vua: Gia Long (1802 ­ 1819), Minh Mạng (1820 ­ 1840), Thiệu Trị (1841 ­ 1847), Tự Đức (1848 ­ 1858)1, cũng là thời gian nhà Nguyễn cai trị đất nước và quyết định các chính sách một cách độc lập, tự chủ. Trong phạm vi thời gian 1802­1858, tên gọi nước ta dưới triều Nguyễn có những sự thay đổi. Từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi (1802) đến năm 1804, Đại Việt là tên nước. Năm 1804, Gia Long chính thức đổi tên nước thành Việt Nam. Tên gọi này tồn tại đến năm 1838 khi Minh Mạng đổi tên nước thành Đại Nam. Quốc hiệu Đại Nam kéo dài đến năm 1945, năm chính thức chấm dứt chế độ phong kiến ở Việt Nam. Như vậy, Đại Nam là quốc hiệu chính thức trong một khoảng thời gian dài dưới triều Nguyễn (1838­1945). Để tránh sự nhầm lẫn giữa quốc hiệu Việt Nam dưới triều Nguyễn (1802­1838) với Việt Nam của hiện tại2, luận văn xin sử dụng thuật ngữ Đại Nam như là tên gọi chung dưới triều Nguyễn khi nhìn nhận, đánh giá chính sách của triều đại này trong khoảng thời gian xuyên suốt từ năm 1802 đến năm 1858. 4. Nguồn tư liệu Nghiên cứu chính sách của một triều đại trước hết phải dựa trên nguồn chính sử ghi chép về triều đại đó. Đây chính là cứ liệu lịch sử quan trọng nhất. Dưới triều Nguyễn, một khối lượng tư liệu đồ sộ có giá trị đã được biên chép, lưu giữ và bảo tồn cho đến tận ngày nay như Châu bản triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Đại Nam nhất thống chí, Hoàng Việt luật lệ, Quốc triều chính biên toát yếu, Khâm định tiễu bình lưỡng kỳ nghịch phỉ phương lược chính biên, Minh Mệnh chính yếu, Đại Nam liệt truyện... Trong đó, tư liệu quan trọng nhất phục vụ cho nội dung đề tài là Đại Nam thực lục, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Châu bản triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, Hoàng Việt luật lệ. Đại Nam thực lục là bộ quốc sử lớn, ghi chép đầy đủ, hoàn chỉnh nhất về các triều vua Nguyễn theo thể biên niên. Trong Đại Nam thực lục tiền biên và chính biên (ghi chép từ năm 1778 đến 1888), những nhận thức, những chính sách về biển 1 Thời kỳ trị vì của Tự Đức còn kéo dài đến năm 1883, tức là kết thúc sau khi Pháp xâm lược 25 năm, nhưng chúng tôi chỉ nghiên cứu đến năm 1858 vì những lý do đã trình bày. 2 Như trong tiểu mục 1.1 của chương 1, giới thiệu về biển Việt Nam, các nguồn từ liệu chúng tôi sử dụng chủ yếu là những tư liệu về biển Việt Nam trong hiện tại mà không phải là Việt Nam dưới triều Nguyễn. 16
  17. của triều Nguyễn, nhất là những vị vua đầu triều được khắc họa khá rõ nét. Cũng giống như hạn chế của các bộ quốc sử khác biên soạn dưới thời phong kiến, Đại Nam thực lục viết theo nhãn quan của Nhà nước phong kiến, chưa vượt qua được hạn chế của thời đại. Những hạn chế trong cách biên chép này chỉ cho phép nghiên cứu các chính sách được ban hành và hiệu quả của việc thực hiện chính sách từ phía các cơ quan hành chính mà khó có thể đánh giá một cách đầy đủ, khách quan hiệu quả thực hiện trong dân gian. Tuy còn những hạn chế đó nhưng Đại Nam thực lục đã cung cấp cho đề tài một nguồn tư liệu phong phú và tin cậy. Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ cũng là một công trình lớn và giá trị, được Nội các triều Nguyễn biên soạn theo thể loại hội điển. Mục đích của thể loại này là ghi chép có hệ thống các điển pháp, quy chuẩn và các dữ kiện liên quan đến tính chất và hoạt động của một triều đại, cũng như những chính sách trọng yếu của Nhà nước đã được thi hành. Châu bản triều Nguyễn gồm các loại công văn do các bộ, nha, các địa phương,... gửi đến cho triều đình, do nhà vua trực tiếp xem và dùng bút son phê duyệt, trong các loại công văn được phê duyệt đó có những nội dung trở thành quy định, chính sách của Nhà nước. Đại Nam nhất thống chí được biên soạn dưới triều Tự Đức là bộ sách địa lý học Việt Nam đầy đủ nhất dưới thời phong kiến. Bộ sách không chỉ ghi chép những kiến thức về địa lý của đất nước từ Lạng Sơn đến Hà Tiên mà còn cung cấp những tư liệu quý về lịch sử, kinh tế, chính trị, văn học nghệ thuật. Ngoài ra, những tác phẩm do cá nhân quan lại triều Nguyễn biên soạn, hay những ghi chép của các sứ thần được phái đi công cán bằng đường biển đến các nước cũng cung cấp nhiều thông tin lý thú. Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức (1765­1825) là bộ địa chí lần đầu tiên ghi chép về núi sông, con người, phong tục tập quán, thổ sản,... thuộc vùng đất Nam Bộ vào những năm đầu triều Minh Mạng. Trong đó chứa đựng một nguồn sử liệu phong phú, đa dạng và rất đáng quý về nhiều phương diện: từ diên cách địa lý, thành trì, khí hậu tới văn hóa dân gian, kinh tế­xã hội,... của miền Nam Việt Nam. Từ khi ra đời, Gia Định thành thông chí được người đương thời và đời sau đánh giá cao, cả về độ tin cậy của nguồn. Sử thần triều Nguyễn đã dựa vào bộ sách này để biên soạn các Đại Nam thực lục (Tiền biên), Đại Nam liệt truyện (Tiền biên), Đại Nam nhất thống chí (Phần Lục tỉnh Nam Bộ). Hải trình chí 17
  18. lược của đoàn sứ thần Phan Huy Chú sang Hạ Châu năm 1830 ghi lại cuộc hành trình từ Đà Nẵng đến Batavia, trong đó có những trang viết về biển Việt Nam. Bên cạnh đó, các tác phẩm nghiên cứu lịch sử của học giả Việt Nam như Hệ thống phòng thủ miền Trung dưới triều Nguyễn, Văn hoá Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, Biển với người Việt cổ, Quân thuỷ trong lịch sử chống ngoại xâm, Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; một số tác phẩm địa lý như Thiên nhiên Việt Nam, Địa lý tự nhiên biển Đông, Địa mạo bờ biển Việt Nam là nguồn tài liệu tham khảo giá trị, giúp ích rất nhiều cho đề tài. 5. Phương pháp nghiên cứu và mục đích, nhiệm vụ của luận văn Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn chủ yếu là phương pháp lịch sử và phương pháp lôgích; đồng thời kết hợp một số phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh để trình bày và đánh giá những vấn đề đặt ra. Mục đích, nhiệm vụ đặt ra trong luận văn là trên cơ sở sưu tầm, tập hợp, phân tích tư liệu, so sánh lịch đại để trình bày, phân tích, đánh giá về chính sách an ninh ­ phòng thủ biển của triều Nguyễn và hiệu quả của chính sách đối với việc bảo vệ an ninh, quốc phòng của đất nước trong khoảng thời gian 1802 ­ 1858. Để nghiên cứu chính sách của một triều đại về một vấn đề, yêu cầu quan trọng đầu tiên là phải tìm hiểu được nhận thức của triều đại về vấn đề đó. Nhận thức về đặc điểm vùng biển, về nguồn tài nguyên biển, về những thách thức từ nguồn tài nguyên biển và thách thức từ hoạt động khai thác nguồn tài nguyên là yếu tố quan trọng giúp Nhà nước hoạch định chính sách. Tuy nhiên, từ nhận thức đến chính sách, rồi từ chính sách đến thực tiễn thực hiện còn là cả những khó khăn. Do chịu sự tác động của nhiều yếu tố (chủ quan, khách quan), chính sách đưa ra không phải lúc nào cũng phù hợp với nhận thức, cũng như kết quả của việc thực hiện chính sách không phải bao giờ cũng đạt được mục tiêu mà chính sách đề ra. Vì vậy, luận văn triển khai theo phương pháp nghiên cứu từ nhận thức của triều Nguyễn đối với biển, đối với những thuận lợi và thách thức của nguồn tài nguyên, của hoạt động khai thác nguồn tài nguyên biển đối với nền an ninh­quốc phòng của nhà Nguyễn, sau đó nghiên cứu chính sách an ninh­ phòng thủ của triều đình Huế, bước đầu đưa ra nhận xét về hiệu quả của chính sách. 6. Bố cục của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, Tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được chia thành 4 chương: 18
  19. Chương 1 tìm hiểu về những yếu tố tác động đến chính sách an ninh­phòng thủ biển của nhà Nguyễn. Ở chương này, sau khi tìm hiểu khái quát về biển Việt Nam và vấn đề đặt ra của an ninh ­ phòng thủ biển đối với nền độc lập, an ninh quốc gia, luận văn tìm hiểu chính sách an ninh­phòng thủ biển của các Nhà nước phong kiến Việt Nam trước Nguyễn; những thuận lợi và thách thức về an ninh ­ phòng thủ biển đặt ra đối với nhà Nguyễn ở nửa đầu thế kỷ XIX cũng như khả năng nhận thức của triều đình về những thuận lợi và thách thức này. Chương 2 tập trung tìm hiểu các biện pháp xây dựng lực lượng thủy quân chuyên trách an ninh­phòng thủ biển dưới triều Nguyễn. Đó là các biện pháp nhằm xây dựng một đội thủy quân mạnh về số lượng và chất lượng. Bên cạnh đó, việc tìm hiểu khái lược các cơ quan quản lý an ninh­phòng thủ biển ở trung ương và địa phương cũng được chương 2 quan tâm để giúp luận văn có cái nhìn bao quát và toàn diện hơn khi đánh giá chính sách an ninh - phòng thủ biển của nhà Nguyễn. Đặc điểm tự nhiên của vùng duyên hải, vùng biển ­ đảo đều có những nét đặc trưng riêng. Bên cạnh đó, vai trò đối với nền an ninh ­ phòng thủ biển và mức độ tác động lên đời sống dân cư miền biển của mỗi vùng lại mang những nét đặc thù khác nhau. Vì vậy, để hiểu chính sách an ninh­phòng thủ biển của nhà Nguyễn một cách sâu sắc, toàn diện, việc tìm hiểu chính sách an ninh­phòng thủ biển trên mỗi vùng cụ thể và tìm hiểu mối liên hệ của chính sách trên hai vùng đó là hướng tiếp cận hợp lý và cần thiết. Trên thực tế, để đạt được hiệu quả cao nhất trong việc đảm bảo an ninh­phòng thủ biển, nhà Nguyễn đã có những chính sách, biện pháp cụ thể, phù hợp với đặc điểm của từng vùng và vẫn đảm bảo sợi dây liên kết chặt chẽ trong chính sách của cả hai vùng. Do đó, nội dung chương 3 và chương 4 được triển khai theo hướng: chương 3 đi sâu tìm hiểu những chính sách an ninh ­ phòng thủ biển của nhà Nguyễn ở vùng duyên hải, chương 4 tập trung tìm hiểu những biện pháp an ninh ­ phòng thủ trên biển và hải đảo. 19
  20. Chương 1: NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CHÍNH SÁCH AN NINH - PHÒNG THỦ BIỂN CỦA NHÀ NGUYỄN Một yếu tố quan trọng định hình nên chính sách chính là tính mục đích. Khi ban hành chính sách, chủ thể ban hành sẽ đặt ra một mục đích nhất định của chính sách. Vì vậy, muốn đạt hiệu quả của mục đích, thông thường các chính sách đều được xây dựng trên cơ sở những nhận thức và hiểu biết nhất định của chủ thể ban hành về các đối tượng của chính sách. Do đó, để hiểu và lý giải một cách sâu sắc chính sách an ninh­phòng thủ biển của nhà Nguyễn ở nửa đầu thế kỷ XIX (1802­ 1858) thì vấn đề quan trọng đầu tiên là tìm hiểu những cơ sở nền tảng, những yếu tố tác động đến sự hình thành của chính sách. 1.1. Biển và vấn đề an ninh-phòng thủ biển đối với an ninh và chủ quyền quốc gia Là một quốc gia nằm trên bán đảo Đông Dương, chiều dài lớn gấp bốn lần chiều rộng nên không có nơi nào trên đất nước Việt Nam xa biển hơn 500 km theo đường chim bay. Trong tổng số chiều dài khoảng 7.760 km đường biên giới thì Việt Nam đã có đến 3.260 km đường biên trên biển cần bảo vệ, 2.773 đảo trên vùng biển rộng lớn, đó là chưa kể những đảo trong hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa [77, tr.4]. Một không gian rộng khoảng 1 triệu km2 với thềm lục địa rộng lớn bao gồm toàn bộ vịnh Bắc Bộ và một phần vịnh Thái Lan, vùng biển Đông (một biển phụ của Thái Bình Dương) được xếp vào hàng thứ ba về diện tích so với các biển kín khác, tương đương với 3/4 Địa Trung Hải. Đó là một biển nóng, nằm gần như hoàn toàn 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2