intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo chiến tranh du kích trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1946- 1954)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:128

40
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận văn là: Làm sáng tỏ sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng bộ Thái Bình trong việc phát động, tổ chức lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích ở địa phương và những đóng góp xứng đáng của Đảng bộ, quân dân Thái Bình trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo chiến tranh du kích trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1946- 1954)

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------ PHẠM THỊ HƢƠNG ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI BÌNH LÃNH ĐẠO CHIẾN TRANH DU KÍCH TRONG THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1946-1954) LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Hà Nội – 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------ PHẠM THỊ HƢƠNG ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI BÌNH LÃNH ĐẠO CHIẾN TRANH DU KÍCH TRONG THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1946-1954) Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Mã số: 60 22 03 15 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Vũ Tang Bồng Hà Nội – 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực. Luận văn có sự kế thừa các công trình nghiên cứu của những người đi trước và có bổ sung thêm những tư liệu mới và những kết luận mới mà chưa được công bố ở bất cứ công trình nào khác. Hà Nội, ngày…tháng…năm 2015 Tác giả luận văn Phạm Thị Hương
  4. LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn này tôi đã nhận được sự quan tâm hướng dẫn, giúp đỡ của nhiều cá nhân, tập thể trong và ngoài trường. Tôi xin chân thành cảm ơn TS. Vũ Tang Bồng đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình viết luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn Tỉnh ủy, Uỷ ban nhân dân, Ban tuyên giáo, Bộ chỉ huy quân sự và Thư viện Tỉnh Thái Bình đã tạo điều kiện thuận lợi, giúp đỡ tôi trong quá trình sưu tầm tài liệu. Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo khoa Lịch sử, và các thầy cô giáo một số chuyên ngành khác của trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân Văn – Đại học Quốc gia Hà Nội đã tận tình truyền đạt kiến thức cho tôi suốt 2 năm học qua. Một lần nữa tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc về sự giúp đỡ quý báu này!
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 1 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ......................................................... 2 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................... 5 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.......................................................................... 5 5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu. ................................ 6 6. Đóng góp của Luận văn ..................................................................................... 6 7. Bố cục của luận văn ........................................................................................... 7 CHƢƠNG 1 ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI BÌNH LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG PHONG TRÀO CHIẾN TRANH DU KÍCH THỜI KỲ ĐẤU KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1946-1950) ........................................... 8 1.1. Đôi nét về địa lý tự nhiên, kinh tế, văn hóa xã hội và truyền thống yêu nước cách mạng của nhân dân Thái Bình ....................................................................... 8 1.1.1 Đôi nét về địa lý tự nhiên, kinh tế, văn hóa xã hội........................................ 8 1.1.2 Truyền thống yêu nước cách mạng của nhân dân Thái Bình .....................15 1.2. Đảng bộ Thái Bình lãnh đạo tổ chức xây dựng phong trào chiến tranh du kích, góp phần cùng quân dân Liên khu ngăn chặn âm mưu mở rộng phạm vi chiếm đóng của thực dân Pháp (1946 - 2/1950). .................................................21 1.2.1 Khái niệm về chiến tranh du kích, khu du kích, căn cứ du kích, làng kháng chiến. ....................................................................................................................21 1.2.2 Đảng bộ lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang, tổ chức phát động phong trào du kích chiến tranh .......................................................................................22 1.2.3 Đảng bộ lãnh đạo quân dân địa phương xây dựng, bảo vệ vùng tự do, cùng quân dân Liên khu chiến đấu ngăn chặn âm mưu mở rộng phạm vi chiếm đóng của thực dân Pháp................................................................................................29 Tiểu kết chương 1.................................................................................................36 CHƢƠNG 2 ĐẢNG BỘ LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH CHIẾN TRANH DU KÍCH TỪNG BƢỚC ĐÁNH BẠI MỌI ÂM MƢU THỦ ĐOẠN CÀN QUÉT, KHỦNG BỐ, BÌNH ĐỊNH CỦA ĐỊCH, GIẢI PHÓNG QUÊ HƢƠNG (2/1950 –7/1954) ................................................................................................................37
  6. 2.1. Đảng bộ tổ chức phát động chiến tranh du kích đánh bại mọi âm mưu thủ đoạn càn quét, khủng bố, bình định của địch (2/1950 –1951) .............................37 2.1.1 Đảng bộ tổ chức phát động cuộc chiến tranh du kích ngay sau khi Thực dân Pháp đánh chiếm Thái Bình (2/1950) ...........................................................37 2.1.2 Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo củng cố, mở rộng các làng kháng chiến, đẩy mạnh chiến tranh du kích, chống âm mưu càn quét bình định của địch (6/1950- 12/1951).................................................................................................49 2.2. Lãnh đạo đẩy mạnh chiến tranh du kích trên địa bàn, góp phần cùng quân dân cả nước kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến (11/1951–7/1954). .................56 Tiểu kết chương 2.................................................................................................81 CHƢƠNG 3. MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM .........83 3.1 Một số nhận xét ..............................................................................................83 3.1.1 Ưu điểm .......................................................................................................83 3.1.2 Hạn Chế.......................................................................................................89 3.2. Một số bài học kinh nghiệm ..........................................................................91 3.2.1. Chiến tranh du kích muốn giành thắng lợi phải kiên trì bám đất, bám dân, bám đánh địch. .....................................................................................................91 3.2.2 Chiến tranh du kích phải xây dựng được hậu phương tại chỗ ...................96 3.2.3. Chiến tranh du kích cần có sự kết hợp giữa các lực lượng, hình thức và mặt trận đấu tranh................................................................................................98 3.2.4. Cần coi việc chống càn quét là một quy luật của chiến tranh du kích, từ đó chủ động đề ra các biện pháp chống càn...........................................................100 3.2.5. Đảng bộ địa phương phải không ngừng củng cố và hoàn thiện về tổ chức và năng lực lãnh đạo ..........................................................................................102 KẾT LUẬN .......................................................................................................105 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................108 PHỤ LỤC ..........................................................................................................115
  7. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Thái Bình là một địa bàn chiến lược có vị trí, vai trò hết sức quan trọng. Đây là nơi đứng chân của nhiều cơ quan Đảng, chính quyền, đơn vị vũ trang của Liên khu và của Hải Phòng, Kiến An trong những ngày đầu kháng chiến. Đây cũng là nơi các hoạt động đấu tranh của quân dân ta phá các âm mưu, thủ đoạn, thâm độc, xảo quyệt “Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt” của địch diễn ra hết sức quyết liệt và gay gắt. Nằm sâu trong vùng địch tạm chiếm, nhân thức rõ tầm quan trọng của địa bàn đối với cuộc kháng chiến của địa phương cũng như với Liên khu 3, với toàn quốc, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Liên khu ủy, Bộ tư lệnh Liên khu III, Đảng bộ tỉnh Thái Bình đã sớm tổ chức, phát động cuộc chiến tranh nhân dân rộng khắp, xây dựng các làng kháng chiến, các căn cứ du kích, khu du kích liên thôn, liên xã, liên huyện, liên tỉnh, biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta, biến hậu phương địch thành hậu phương của ta, tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch đồng thời ra sức đóng góp sức người, sức của góp phần cùng quân dân cả nước đưa sự nghiệp kháng chiến đến thắng lợi. Nghiên cứu tìm hiểu quá trình lãnh Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo xây dựng và tổ chức phát động chiến tranh du kích, kết hợp giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, xây dựng và tổ chức hậu phương, kết hợp tiến công trên chiến trường chính và tiến công ở vùng sau lưng địch, rút ra một số kinh nghiệm tổ chức tiến hành chiến tranh du kích ở một tỉnh đồng bằng, nằm sâu trong vùng địch tạm chiếm, khẳng định sự lãnh đạo, chỉ đạo kháng chiến đúng đắn sáng tạo của Đảng bộ Thái Bình là việc hết sức cần thiết nhằm góp phần làm phong phú thêm đường lối chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện và 1
  8. trường kỳ của Đảng, góp phần giáo dục truyền thống, đồng thời có thể vận dụng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay. Với lý do trên, tôi chọn “Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo chiến tranh du kích trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1946- 1954)” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học của mình… 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về chiến tranh du kích trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp nói chung, trên địa bàn Thái Bình nói riêng. Theo đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu có thể sắp xếp các công trình trên theo các nhóm sau: 2.1- Các nhóm công trình do các cơ quan, các nhà khoa học cấp trung ƣơng biên soạn: “ Những sự kiện lịch sử Đảng”, tập 1 (Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1979) của Ban nghiên cứu lịch sử Đảng trung ương biên soạn; các công trình “ Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam (1944-1954)”, tập 1 (Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội,1994); “Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945- 1954)” tập 1, tập 2 (Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội,1994) do Viện Lịch sử quân sự Việt Nam biên soạn;“ Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, thắng lợi và bài học” (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996) của Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị; “ Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu III (1945-1955)” (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005) của Bộ Tư lệnh Quân khu III và Viện Lịch sử quân sự Việt Nam; “Quân khu Ba - Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp” (Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1998) của Bộ tư lệnh Quân khu III; “Lịch sử Đảng bộ Quân đội nhân dân Việt Nam tập 1 (1944-1954)” (Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội,2009) của Đảng bộ quân đội nhân dân Việt Nam; “ Trung đoàn 42 trung dũng” ( Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995) của Bộ Tư lệnh Quân khu III; “ Lịch sử kháng chiến chống Pháp khu Tả ngạn 2
  9. sông Hồng (1945 -1955)” ( Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001) của Hội đồng chỉ đạo biên soạn công trình lịch sử kháng chiến chống Pháp khu Tả Ngạn sông Hồng; “Đảng lãnh đạo xây dựng căn cứ du kích ở đồng bằng Bắc Bộ (1946-1954)” (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001) của Vũ Quang Hiển; v.v 2.2 Nhóm công trình do địa phƣơng biên soạn : Công trình Sơ thảo “Tổng kết lịch sử du kích chiến tranh Thái Bình” (Tỉnh đội Thái Bình xuất bản, 1961). Cuốn sách không chỉ đưa ra những điểm tương đồng và khác biệt về chiến tranh du kích của tỉnh Thái Bình với tỉnh khác mà còn đưa ra những nhận định đánh giá về những ưu điểm và hạn chế và rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu để quân và dân Thái Bình tiếp tục góp sức mình vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc. Công trình “ Những sự kiện lịch sử Đảng tỉnh Thái Bình 1945-1954” do Ban tuyên giáo tỉnh ủy Thái Bình xuất bản năm 1989. Cuốn sách đã trình bày khá đầy đủ những sự kiện lịch sử quan trọng của tỉnh trong thời kỳ này. Đặc biệt là những sự kiện về chiến tranh du kích, các đại hội Đảng bộ tỉnh, giúp cho người đọc dễ dàng nắm được các mốc thời gian diễn ra các sự kiện của Đảng bộ trong giai đoạn 1930 – 1945. Cuốn sách “Nhân dân Tán Thuật đánh giặc giữ làng” của Kịch Lịch (Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1963) đã phần nào dựng lại quá khứ hào hùng của quân và dân Tán Thuật. Với lối đánh du kích sáng tạo, linh hoạt, quân và dân Tán Thuật đã lập lên nhiều chiến công góp phần vào thắng lợi chung của chiến tranh du kích ở Thái Bình. Công trình “Thái Bình đánh giặc” (Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng Thái Bình, 1975). Từ nguồn tư liệu của các nhân chứng lịch sử, tác phẩm đã giúp cho người đọc phần nào có thể hình dung về một thời chiến đấu đầy khó khăn, gian khổ, hy sinh nhưng cũng rất anh dũng của quân và dân Thái Bình. 3
  10. Sau khi đất nước thống nhất, chủ đề chiến tranh du kích ở tỉnh Thái Bình (1950 - 1954) vẫn được nhiều cá nhân và tập thể tiếp tục đề cập Năm 1999, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Thái Bình biên soạn và xuất bản công trình “Thái Bình kháng chiến chống Pháp xâm lược 1945 -1954”, cuốn sách đã tái hiện lại bức tranh toàn cảnh tỉnh Thái Bình từ sau Cách mạng tháng Tám cho đến ngày Thái Bình được giải phóng, trong đó giành khá nhiều trang viết về cuộc chiến tranh du kích của quân và dân Thái Bình. Cũng trong năm 1999, Tỉnh ủy Thái Bình biên soạn, xuất bản cuốn “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Bình (1927 – 1954)”. Tác phẩm đã làm nổi bật vai trò lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thái Bình từ khi ra đời cho đến 1954. Với đường lối chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo, linh hoạt, Đảng bộ đã lãnh đạo quân và dân trong tỉnh giành được nhiều thắng lợi to lớn trên mọi lĩnh vực, trong cuộc chiến chống thực dân Pháp. Gần đây nhất là công trình “ Lịch sử quân sự tỉnh Thái Bình 1947- 2007” do Đảng bộ quân sự tỉnh Thái Bình tổ chức biên soạn và xuất bản năm 2010. Cuốn sách phản ánh quá trình hình thành và phát triển của Đảng bộ quân sự và lực lượng vũ trang tỉnh, từ khi thành lập Tỉnh đội ( 1947) đến 2007. Các công trình nghiên cứu trên đã khai thác được nguồn tư liệu rất phong phú và sinh động. Nhưng các công trình do trung ương biên soạn chủ yếu nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trên địa bàn Liên khu 3 mà không thể nghiên cứu sâu về chiến tranh du kích ở Liên khu 3 nói chung, tỉnh Thái Bình nói riêng. Các công trình do địa phương biên soạn chủ yếu trình bày các hoạt động tác chiến, việc đề cập đến vai trò lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh du kích của Đảng bộ còn chưa đầy đủ. Tuy nhiên, tất cả các công trình kể trên đều rất bổ ích, không chỉ cung cấp tư liệu mà còn giúp định hướng, gợi mở cho học viên nhiều vấn đề trong quá trình thực hiện luận văn. 4
  11. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích - Làm sáng tỏ sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng bộ Thái Bình trong việc phát động, tổ chức lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích ở địa phương và những đóng góp xứng đáng của Đảng bộ, quân dân Thái Bình trong kháng chiến chống thực dân Pháp. - Góp phần giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ; rút ra một số bài học kinh nghiệm cần vận dụng trong quá trình xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, xây dựng Thái Bình thành khu vực phòng thủ vững chắc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ - Tập hợp, hệ thống những nghị quyết, chỉ thị, văn kiện phản ánh các chủ trương của Trung ương Đảng, Liên khu ủy III và đảng bộ tỉnh Thái Bình trong trong quá trình lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích thời kỳ 1945-1954. - Góp phần khẳng định vị trí chiến lược quan trọng của tỉnh Thái Bình và những đóng góp to lớn, xứng đáng của chiến tranh du kích tỉnh Thái Bình trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. - Cố gắng phản ánh những sáng tạo của Đảng bộ Thái Bình trong quá trình tổ chức, chỉ đạo,lãnh đạo phong trào chiến tranh du kích, từ đó rút ra một số kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh du kích trên địa bàn. 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tƣợng nghiên cứu - Quá trình lãnh đạo chỉ đạo của Đảng bộ trong tổ chức lãnh đạo các hoạt động chiến tranh du kích tại địa phương trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954). - Những thành tích tiêu biểu của phong trào chiến tranh du kích tỉnh Thái Bình trong kháng chiến chống thực dân Pháp. 5
  12. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: trình bày phong trào chiến tranh du kích tỉnh Thái Bình dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ trong kháng chiến chống thực dân Pháp. - Về thời gian: từ sau cách mạng tháng Tám, chủ yếu từ tháng 12/1946 đến tháng 7/1954. 5. Cơ sở lý luận, phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tƣ liệu. 5.1 Cơ sở lý luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quân sự của Đảng và những chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo phong trào chiến tranh du kích của Đảng bộ tỉnh Thái Bình trong kháng chiến chống Pháp. 5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về chiến tranh, luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp logic, ngoài ra còn sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh... 5.3. Nguồn tƣ liệu Các văn kiện của Trung ương Đảng, Liên khu ủy III, các chỉ thị, nghị quyết, báo cáo của Tỉnh ủy và của các huyện ủy thuộc tỉnh ủy Thái Bình trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp; Các công trình lịch sử, tổng kết của trung ương và địa phương đã xuất bản. Các báo cáo của các cơ quan quân sự tỉnh Thái Bình thời kỳ kháng chiến chống Pháp; Hồi ký của các lão thành cách mạng… 6. Đóng góp của Luận văn - Thông qua việc trình bày các chủ trương, giải pháp của Đảng bộ tỉnh Thái Bình, luận văn làm rõ vai trò lãnh đạo của Đảng bộ trong tổ chức, chỉ đạo phong trào chiến tranh du kích trên địa bàn từ 1946 đến 1954. 6
  13. - Góp phần phản ánh rõ hơn, toàn diện hơn cuộc kháng chiến của Đảng bộ quân dân Thái Bình, làm nổi bật vị trí đặc biệt quan trọng của phong trào chiến tranh du kích trên địa bàn. - Góp thêm nguồn sử liệu phục vụ công tác nghiên cứu về lịch sử cuộc kháng chiến chống Pháp tỉnh Thái Bình. 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương Chương 1: Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo xây dựng phong trào chiến tranh du kích thời kỳ đầu kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1950). Chương 2: Đảng bộ lãnh đạo đẩy mạnh chiến tranh du kích từng bước đánh bại mọi âm mưu thủ đoạn càn quét, khủng bố, bình định của địch, giải phóng quê hương (2/1950 –7/1954) Chương 3. Một số nhận xét và bài học kinh nghiệm. 7
  14. CHƢƠNG 1 ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI BÌNH LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG PHONG TRÀO CHIẾN TRANH DU KÍCH THỜI KỲ ĐẤU KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1946-1950) 1.1. Đôi nét về địa lý tự nhiên, kinh tế, văn hóa xã hội và truyền thống yêu nƣớc cách mạng của nhân dân Thái Bình 1.1.1 Đôi nét về địa lý tự nhiên, kinh tế, văn hóa xã hội Tỉnh Thái Bình nằm ở phía đông nam đồng bằng châu thổ sông Hồng, có diện tích tự nhiên 1546 km2 (số liệu 2003) được bao bọc bởi 3 dòng sông lớn. Phía Tây và Tây Nam là sông Hồng, giáp hai tỉnh Hà Nam và Nam Định. Phía Bắc là sông Luộc giáp hai tỉnh Hưng Yên và Hải Dương. Phía Đông Bắc là sông Hóa giáp với thành phố Hải Phòng. Phía Đông là biển cả mênh mông với trên 54km bờ biển trong Vịnh Bắc Bộ. Cùng với 3 dòng sông lớn bao quanh, trên địa bàn còn có 70 dòng sông lớn nhỏ. Thời nước Văn Lang của các vua Hùng, tỉnh Thái Bình ngày nay thuộc bộ Lục Hải. Thời Bắc thuộc thuộc huyện Chu Diên, quận Giao Chỉ. Sau khi Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng ( năm 938) chấm dứt hơn 1000 năm Bắc thuộc, vùng đất Thái Bình hiện nay thuộc Châu Đông. Năm 1005, thời Tiền Lê, Châu Đông được đổi thành phủ Thái Bình. Tên Thái Bình có từ đây. Đến thời Lý, Trần vùng đất Thái Bình hiện nay thuộc các lộ Kiến Xương, Long Hưng, Tiên Hưng. Phủ Long Hưng có các huyện Ngự Thiên, Duyên Hà, Cổ Lan, Thần Khê. Phủ Kiến Xương có các huyện Bí, Bồng Điền, Kiến Xương, Chân Lợi. Phủ Tiên Hưng có các huyện Thái Bình, A Côi, Đa Dực, Tây Quan. Thời Hậu Lê, theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi, Thái Bình có 3 phủ, 11 huyện, 525 châu, xã, thôn, trang… Thời Nguyễn vùng đất Thái Bình hiện nay thuộc trấn Sơn Nam Hạ chia làm 3 phủ gồm 11 huyện, 82 tổng, 602 xã, thôn, trang, phường. Ngày 21.3.1890, toàn quyền Đông Dương ra nghị định thành lập tỉnh Thái Bình. Tính đến ngày 1.1.1893 8
  15. tỉnh Thái Bình có 2 phủ gồm 10 huyện, 79 tổng, 548 xã. Đến năm 1926 Thái bình có 12 phủ huyện gồm 95 tổng, 814 xã và 1 thị xã. Từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945, chính quyền cách mạng tổ chức lại cấp xã. Xã mới thường gồm một số xã cũ (hoặc một số làng) hoặc là một tổng cũ. Trong kháng chiến chống Pháp, Thái Bình có 1 thị xã và 12 huyện ( Vũ Tiên, Thư Trì, Kiến Xương, Tiền Hải, Thái Ninh, Thụy Anh, Đông Quan, Quỳnh Côi, Phụ Dực, Duyên Hà, Hưng Nhân, Tiên Hưng) và 162 xã. [77. Tr.145-156]. Hiện nay, Thái Bình có 1 thành phố và 7 huyện ( Vũ Thư, Kiến Xương, Tiền Hải, Đông Hưng, Quỳnh Phụ, Hưng Hà, Thái Thụy) với 7 thị trấn và 286 xã, phường. So với các tỉnh đồng bằng Tả Ngạn sông Hồng, Thái Bình có diện tích tự nhiên tương đối rộng. Sông Hồng đoạn chảy qua Thái Bình dài 80km qua các huyện Hưng Nhân, Thư Trì , Vũ Tiên, Kiến Xương, Tiền Hải rồi đổ ra biển theo cửa Ba Lạt chỗ rộng nhất lên tới 1000m, có nhiều đoạn quanh co gấp khúc bên lở bên bồi, sâu từ 15 đến 30m.. Trong kháng chiến, sông Hồng là tuyến giao thông đường thủy chiến lược đối với việc vận chuyển lương thực, quân số, vũ khí của địch từ ngoài biển vào Nam Định, Hà Nội và các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Phía Tây Bắc là sông Luộc (phân lưu của sông Hồng) bắt nguồn từ Hà Xá (Hưng Nhân) chảy qua huyện Hưng Nhân, Quỳnh Côi, Phụ Dực, Vĩnh Bảo (Hải Phòng) dài 40km, chỗ rộng nhất 150m, hẹp nhất 70m. Sông Luộc cũng là con đường thủy vô cùng quan trọng. Phía Đông Bắc là sông Hóa dài 60km, bắt nguồn từ Lộng Khê ( Phụ Dực) chạy theo ven huyện Thụy Anh, Phụ Dực ra biển, quãng rộng nhất là 150m, hẹp nhất 70m. Cả ba con sông này địch đều thiết lập một hệ thống đồn bốt để bảo vệ, gây cho ta nhiều trong bảo quản giao thông liên lạc và tác chiến. Bờ biển Thái Bình dài 54km, có các cửa sông lớn như: cửa Ba Lạt, cửa sông Trà Lý, cửa sông Thái Bình và cửa Lân.[76,tr.8] Ngoài ba con sông lớn bao quanh, nội đia Thái Bình còn có 4 con sông tương đối lớn khác là: Trà Lý, Diêm Hộ, Kiến Giang, Sa Lung. Thái Bình là 9
  16. tỉnh duy nhất của miền Bắc không có núi rừng, đất đai màu mỡ, phì nhiêu, nông nghiệp và ngư nghiệp khá phát triển, là 1 trong những vựa lúa lớn của đồng bằng sông Hồng. Do điều kiện tự nhiên là vùng đất được phù sa bồi đắp, bằng phẳng, các cánh đồng phần lớn có nước quanh năm. Đặc điểm địa hình kể trên khiến cho việc bảo đảm hậu cần, cơ động lực lượng tác chiến của quân dân ta rất khó giữ bí mật,việc phát triển, cất giấu thóc lúa, của cải và đào hầm hào cũng rất khó khăn…Địa hình bằng phẳng còn có lợi thế cho địch đóng cứ điểm, xây lô cốt cao, có thể kiểm soát cả một vùng. Thái Bình còn có hệ thống giao thông đường bộ thuận tiện. Từ Thái Bình theo đường quốc lộ số 10 có thể đi Hải Phòng, Quảng Ninh, cũng theo đường 10 có thể đến Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa vào Khu 4. Đường 39 nối Thái Bình với Hưng Yên, theo đường này có thể xuống Hải Dương, lên Hà Nội và các tỉnh Đông Bắc, Tây Bắc. Cùng với 2 con đường quan trọng này, Thái Bình còn có một hệ thống đường giao thông liên huyện là đường 216, 217,218,219,220… dài tổng cộng 500km. Hệ thống đường giao thông ngang dọc chia cắt địa bàn Thái Bình thành từng khu vực nhỏ từ 3-7km, tuy thuận tiện cho việc giao thông, có lợi phần nào cho cách đánh du kích, nhưng cũng gây trở ngại cho ta khi địch chiếm đóng chốt giữ những đoạn yết hầu với những phương tiện hiện đại của chúng.[76, tr.7] Nhìn chung, địa hình, đất đai, khí hậu… của Thái Bình đối với hoạt động của con người chứa đựng sẵn hai mặt: thuận lợi, ưu đãi và khó khăn, thách thức. Những thuận lợi tạo ra khả năng cho Thái Bình xây dựng một nền kinh tế nông nghiệp tự cấp, tự túc, đảm bảo yêu cầu thiết yếu cho cuộc sống và chiến đấu. Song những khó khăn lại đòi hỏi cư dân ở đây phải cố kết chặt chẽ, phải biết lợi dụng quy luật tự nhiên, và chiến đấu chống lại sự tàn phá của thiên nhiên, tạo điều kiện cho ý thức cộng đồng sớm hình thành và phát triển. 10
  17. Trong chiến tranh đây là địa bàn địch có khả năng phát huy ưu thế về phương tiện và vũ khí hiện đại. Thực tế đó đòi hỏi quân dân Thái Bình phải biết lợi dụng và cải biến địa hình địa vật để tổ chức xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, phát động chiến tranh du kích để duy trì và phát triển lực lượng, chủ động đánh địch với những hình thức thích hợp. Dân cư Thái Bình có nguồn gốc từ nhiều nơi. Họ tụ cư và hợp cư ở đây bằng lao động, chinh phục và cải tạo tự nhiên. Sau cách mạng tháng Tám dân số Thái Bình có gần 1 triệu người, mật độ dân số 650 người /km2, xếp hạng thứ 4 của đồng bằng sông Hồng và thứ 5 so với cả nước[66, tr.104, 106]. Vì vậy, Thái Bình được ví như là kho người mà ta và địch đều muốn giành giật. So với các tỉnh khác thuộc châu thổ Bắc Bộ thì Thái Bình có lịch sử hình thành đất đai và cư dân mang tính gối sóng tương đối rõ rệt. Nhiều làng cổ thuộc vùng đất Hưng Hà, Quỳnh Phụ, Đông Hưng, Vũ Thư có lịch sử trên dưới 2000 năm. Tuy nhiên, số làng được khai phá từ thời Trần trở về sau chiếm tỉ lệ cao, những làng coi là mới được xác lập ở Tiền Hải từ cuộc đại khẩn hoang của Nguyễn Công Trứ bắt đầu từ năm 1828 đến nay cũng đã có lịch sử gần 200 năm. Cư dân Thái Bình vốn là sự hội tụ từ các luồng cư dân có gốc từ Sơn Tây, Hà Đông, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Quảng Yên, Hải Dương, Hưng Yên, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Nam, Nam Định,.. và có cả một bộ phận theo đường biển từ Bắc xuống, từ Nam ra vốn làm nghề đánh cá về sau định cư trên đất Thái Bình. Họ mang theo những tập quán sản xuất, những truyền thống văn hóa ở nơi ở cũ đến vùng này và nhanh chóng hòa nhập với sự phát triển chung của nền văn hóa bản địa. Đến nay, ở Thái Bình có 58 dòng họ, cư dân hầu hết là người Kinh. Người dân Thái Bình sống bằng nghề nông là chủ yếu nên làng xã là điểm quần cư của họ. Những xóm làng nhỏ liền nhau được bao bọc bởi những cánh đồng lúa nước mênh mông, có nơi làng nọ áp lưng vào làng kia, hay chỉ cách nhau một con đường hoặc một con sông đào…Trong làng có nhiều ao, 11
  18. ngòi, xen lẫn với những lũy tre, ngăn cách thành từng khu vực nhỏ. Xung quanh làng thường được bao bọc bởi các lũy tre xanh tốt, dày đặc. Nhiều làng còn được bao quanh bởi những con sông hoặc nằm giữa cánh đồng lầy. Làng xóm ở phía bắc tỉnh thường rải rác nhỏ hẹp khó tổ chức chiến đấu chống địch càn quét, dễ bị địch bao vây chia cắt. Các làng xóm ở phía nam tỉnh rộng lớn hơn, gần kề liên tiếp nhau thuận lợi cho việc xây dựng trận địa liên hoàn và rào làng kháng chiến như những khu : Thần Huống (Thái Ninh), Trại Chè ( Kiến Xương), Quang Thẩm (Vũ Tiên)… Nhìn chung, làng xóm ở Thái Bình thường gọn và tập trung, dễ bị phi pháo của địch phá hoại, nhưng cũng là chướng ngại cho địch, chúng không thể dễ dàng triển khai hành quân theo đội hình cũng như không thể giữ vững cự ly của các mũi tiến quân, hoặc hoạt động của cơ giới khi bị ta phá hoại đường xá. Về phía ta, đây là nơi bộ đội địa phương và dân quân du kích có thể tiến hành chiến tranh du kích rộng khắp. Trong kháng chiến ta đã dựa vào những xóm làng tự nhiên này để xây dựng hàng loạt làng chiến đấu các khu căn cứ du kích, đánh bại các cuộc hành quân càn quét, phá âm mưu “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt” của địch. Thái Bình là nơi sắc thái văn hoá được hội tụ và biểu hiện qua tín ngưỡng dân gian, những lễ hội truyền thống của các làng quê trong tỉnh. Các lễ hội với nhiều nội dung phong phú phản ánh truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, tôn vinh các vị anh hùng dân tộc, những người có công với đất nước, quê hương. Thái Bình cũng là một trong những cái nôi của nghệ thuật chèo truyền thống. Đã từ lâu, chiếu chèo sân đình cùng với bến nước, gốc đa là những thành tố văn hoá quan trọng, món ăn tinh thần không thể thiếu của mỗi người dân quê lúa. Qua thống kê cho thấy, trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, ở Thái Bình có 52 gánh hát chèo, trong đó phải kể đến ba làng chèo nổi tiếng là Hà Xá (huyện Hưng Hà), Khuốc (huyện Đông Hưng), Sáo Đền 12
  19. (huyện Vũ Thư). Cùng với nghệ thuật chèo, múa rối nước cũng là một loại hình sân khấu độc đáo, thể hiện sự khéo léo, tài tình của người dân quê lúa. Bên cạnh những giá trị văn hoá phi vật thể, Thái Bình còn là nơi lưu giữ nhiều giá trị văn hoá vật thể đặc sắc với 1.404 công trình kiến trúc cổ như: đình, đền, phủ, chùa, miếu… Mặc dù hiện nay đã thiếu vắng nhiều công trình do chiến tranh do thiên nhiên và cả con người tàn phá, song số còn lại cũng để lại nhiều dấu ấn đặc sắc, đặc biệt là nghệ thuật điêu khắc tinh xảo qua từng mảng kiến trúc tại các di tích: chùa Keo, đền Tiên La, đền Đồng Bằng, đền Trần, đình An Cố, chùa Ký Con, đình Đông Lĩnh... Là địa phương nằm xa các trung tâm văn hoá cổ, với địa hình bị chia cắt bởi sông nước, nhưng Thái Bình lại có truyền thống hiếu học từ khá sớm. Trong tổng số 2.898 trí thức đại khoa Việt Nam, Thái Bình có 111 vị, trong đó có 2 trạng nguyên, 2 bảng nhãn, 3 thám hoa, 26 hoàng giáp, 78 người là tiến sĩ, phó bảng. Ngoài tín ngưỡng dân gian, có hai tôn giáo phát triển ở Thái Bình : Phật giáo, Thiên chúa giáo. Đạo Phật xuất hiện ở Thái Bình cách đây khoảng hơn 2000 năm, thịnh hành nhất vào thời Lý –Trần. Hiện nay có 770 ngôi chùa nằm trên 267 xã phường . Có 109 chùa được công nhận là di tích lịch sử văn hóa, trong đó có 17 chùa được cấp bằng công nhận di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia, 92 chùa được chứng nhận di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Đặc biệt chùa Keo được công nhận là di tích lịch sử đặc biệt cấp quốc gia. Đạo Thiên chúa du nhập vào Thái Bình tương đối sớm. Theo gia phả họ đạo xứ Dương Cước - Hồng Thái - Kiến Xương thì đạo Thiên chúa có mặt ở đây từ năm 1665. Nhà thờ xứ đầu tiên được xây dựng vào năm 1700 là nhà thờ xứ Lai Ổn - xã An Quí - Quỳnh Phụ. Năm 1936 Tòa thánh Vatican cho phép công giáo Thái Bình tách khỏi "Địa phận Bùi Chu" thành lập "Địa phận Thái Bình" gồm tỉnh Thái Bình và Hưng Yên. Từ năm 1936 đến năm 1945, 13
  20. tòa Giám mục Thái Bình đã qua 5 đời Giám mục, trong đó có 2 Giám mục người nước ngoài. Hiện nay Thái Bình có 48 nhà thờ xứ, 300 nhà thờ họ lẻ, và 1 trường tiểu chủng viện ở Cát Đàm (Đông Quan), 1 Giám mục và 26 linh mục với gần 10 vạn giáo dân.. Các nhà thờ thường được xây dựng ở những nơi đầu mối giao thông thủy bộ quan trọng. Thời Pháp thuộc và trong kháng chiến hệ thống tổ chức và thủ đoạn tuyên truyền của bọn giáo sĩ phản động luôn được củng cố và phát triển rộng rãi với nhiều thủ đoạn hết sức thâm độc tinh vi, xảo quyệt. Lợi dụng hoàn cảnh đói khổ của nông dân, chúng ra sức mê hoặc, lôi kéo nhân dân theo đạo bằng cách cho lương thực, đến nay người dân vẫn nhớ câu “ Đi đạo lấy gạo mà ăn”. Vào Việt Nam cùng với chủ nghĩa thực dân, Thiên Chúa giáo đã bị các thế lực đế quốc lợi dụng biến một bộ phận giáo dân thành công cụ phục vụ cho âm mưu xâm lược của chúng. Tuy nhiên đa số giáo dân là nông dân lao động chất phác, cần cù vẫn hướng về tổ tiên, dòng họ, gia đình, do bị thực dân phong kiến áp bức bóc lột nên đều có tinh thần yêu nước thương nòi, căm ghét đế quốc phong kiến. Thái Bình là 1 trong những vựa lúa của đồng bằng Bắc Bộ. Bên cạnh nghề trồng trọt, chăn nuôi và khai thác nguồn lợi biển (muối, cá…), người dân Thái Bình cón có những nghề thủ công truyền thống như dệt lụa, dệt chiếu, rèn, đúc đồng, chạm bạc … Là một tỉnh chủ yếu sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp lại phân tán nhiều ở nông thôn, công nghiệp hầu như không phát triển nên ở Thái Bình có hai giai cấp chủ yếu là nông dân và địa chủ. Nông dân Thái Bình chiếm 93% dân số. Hầu hết họ là những người có rất ít hoặc không có ruộng đất . Họ phải lĩnh canh ruộng đất của địa chủ, hoặc phải làm thuê cho chúng để kiếm sống. Lợi dụng tình hình đó, bọn địa chủ ra sức tăng mức địa tô và các khoản tô phụ, người dân phải nộp hai phần ba hoa lợi trên diện tích lĩnh canh. Ngoài ra nông dân còn phải đóng sưu cao, thuế nặng. Thêm vào đó, bọn cường hào, lý dịch địa phương lại phù thu lạm bổ, 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2