intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Vận chuyển và giao thương quốc tế của cảng Hải Phòng từ năm 1955 đến năm 1975

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:126

21
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn kế thừa những thành quả của những công trình đã được nghiên cứu và xuất bản, trên cơ sở những nguồn tư liệu mới, luận văn trình bày có hệ thống, phân tích, đánh giá toàn diện, khách quan, theo quan điểm lịch sử của cảng Hải Phòng góp phần làm rõ nhiệm vụ: Vận chuyển và giao thương quốc tế của cảng Hải Phòng trong giai đoạn từ năm 1955 đến năm 1975. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Vận chuyển và giao thương quốc tế của cảng Hải Phòng từ năm 1955 đến năm 1975

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN .................................................................... PHẠM TRUNG TUẤN VẬN CHUYỂN VÀ GIAO THƢƠNG QUỐC TẾ CỦA CẢNG HẢI PHÒNG TỪ NĂM 1955 ĐẾN NĂM 1975 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Hà Nội - 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN .................................................................... PHẠM TRUNG TUẤN VẬN CHUYỂN VÀ GIAO THƢƠNG QUỐC TẾ CỦA CẢNG HẢI PHÒNG TỪ NĂM 1955 ĐẾN NĂM 1975 Chuyên ngành: Lịch sử thế giới Mã số: 60 22 03 11 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS. TS Nguyễn Văn Kim Hà Nội - 2015
  3. MỤC LỤC MỤC LỤC ..................................................................................................................1 DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT ...............................................................3 DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU .............................................................................4 MỞ ĐẦU ....................................................................................................................5 1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................5 2. Lƣợc sử nghiên cứu vấn đề...................................................................................6 3. Đối tƣợng nghiên cứu ............................................................................................9 4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn ....................................................................9 4.1. Mục đích ..........................................................................................................9 4.2. Nhiệm vụ..........................................................................................................9 5. Phạm vi nghiên cứu .............................................................................................10 5.1. Về không gian ................................................................................................10 5.2. Về thời gian....................................................................................................10 6. Cơ sở lý luận, phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tƣ liệu ..............................10 6.1. Cơ sở lý luận ..................................................................................................10 6.2. Phương pháp nghiên cứu ...............................................................................10 6.3. Nguồn tư liệu .................................................................................................11 7. Đóng góp của luận văn ........................................................................................11 8. Kết cấu của luận văn ...........................................................................................12 CHƢƠNG 1..............................................................................................................13 QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CẢNG HẢI PHÒNG TRƢỚC NĂM 1955 ................................................................................................13 1. Vị trí địa lý chiến lƣợc của Hải Phòng ..............................................................13 2. Cảng Hải Phòng trƣớc năm 1955 .........................................................................15 2.1. Quá trình hình thành và hoạt động của cảng Hải Phòng từ năm 1874 đến năm 1918.......................................................................................................................15 2.2. Cảng Hải Phòng trong thời gian từ năm 1918 đến năm 1945 .......................24 2.3. Cảng Hải Phòng trong thời gian từ năm 1945 đến năm 1954 .......................27 3. Vận chuyển trong nƣớc sau năm 1955 ..............................................................31 3.1. Với các cảng biển phía Bắc ...........................................................................31 3.2. Với các cảng biển phía Nam ..........................................................................33 CHƢƠNG 2..............................................................................................................50 CẢNG HẢI PHÒNG TRONG CÁC MỐI QUAN HỆ QUỐC TẾ .....................50 1. Với các nƣớc xã hội chủ nghĩa ...........................................................................50 2. Giao thƣơng với các nƣớc khác .........................................................................69 3. Vận chuyển quốc tế .............................................................................................78 1
  4. CHƢƠNG 3..............................................................................................................84 VỊ TRÍ VÀ VAI TRÒ CỦA CẢNG HẢI PHÒNG ...............................................84 1. Vị trí trụ cột về kinh tế .......................................................................................84 2. Cảng Hải Phòng trong mối liên hệ với các cảng trong nƣớc...........................88 3. Cảng Hải Phòng trong các mối quan hệ và liên kết quốc tế ...........................90 KẾT LUẬN ..............................................................................................................92 TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................95 PHỤ LỤC ...............................................................................................................102 2
  5. DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT Chủ nghĩa Xã hội CNXH Chiến dịch vận chuyển nhanh hàng vào khu 4 VT5 Đơn vị đo khối lượng tấn DWT Mã lực CV Vỏ sắt VS Việt Trung 1 VT1 Việt Trung 2 VT2 Việt Trung 3 VT3 Xã hội Chủ nghĩa XHCN Twenty-foot equivalent units TEU 3
  6. DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng biểu Trang Bảng 1. Đội tàu của các nước đến cảng Hải Phòng 25 Bảng 2. Các loại hàng hóa nhập khẩu và xuất khẩu 51 Bảng 3. So sánh xuất - nhập khẩu giữa các nước dân chủ và tư bản 55 Bảng 4. Những mặt hàng chủ yếu xuất khẩu qua các năm 59 Bảng 5: Mặt hàng chủ yếu nhập khẩu và xuất khẩu theo từng năm 60 Biểu đồ số tàu các nước XHCN đến cảng Hải Phòng từ năm 1955 - 1975 67 Bảng 6: Khối lượng hàng hoá các nước xã hội chủ nghĩa và Liên Xô, Trung 68 Quốc viện trợ Biểu đồ so sánh tỷ lệ hàng hoá xuất nhập khẩu năm 1956 - 1957 71 Biểu đồ số lượng tàu các nước khác vào cảng Hải Phòng từ năm 1955 - 1975 76 Biểu đồ số lượng tàu vào cảng Hải Phòng từ năm 1955 - 1975 77 Bảng 7: Khối lượng hàng hóa vận chuyển qua các cảng 80 Biểu đồ khối lượng hàng hoá vận chuyển qua cảng Hải Phòng từ năm 1955 - 83 1975 Bảng 8: Khối lượng hàng hóa chủ yếu bốc xếp qua cảng Hải Phòng (1955- 116 1975) Bảng 9: Một số chỉ tiêu tổng hợp chính của cảng Hải Phòng 117 Bảng 10: Khối lượng hàng hóa vận chuyển qua các cảng 118 Bảng 11: Số lượng tàu vào cảng Hải Phòng 119 Bảng 12: Một số chỉ tiêu tổng hợp của cảng Hải Phòng 120 Bảng 13: Số liệu ghi chép thực tế của ông Bùi Minh Tuấn-nguyên trưởng phòng kế hoạch thống kê cảng Hải Phòng, về kho chứa hàng của cảng Hải 121 Phòng từ năm 1947 - 1979 Bảng 14: Số liệu ghi chép thực tế của ông Bùi Minh Tuấn-nguyên trưởng phòng kế hoạch thống kê cảng Hải Phòng, về tình hình cầu tầu của cảng Hải 122 Phòng năm 1975 4
  7. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Hải Phòng, một vùng đất gắn liền với sự phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam. Nơi đây có vị trí chiến lược quan trọng, là “cửa ngõ đường biển” của miền Bắc. Chính vì vậy, cả hai lần Pháp xâm lược Bắc kỳ (1873 và 1882) đều chọn Hải Phòng là nơi đổ bộ quân [78, tr.23]. Về mặt tự nhiên, Hải Phòng được tạo lập và phát triển thành một thành phố cảng biển là nhờ ở vị trí đối với sông và biển. Sông Cửa Cấm khá rộng và sâu, tàu thuyền có thể ra vào dễ dàng. Nhờ biển, Hải Phòng là một trung tâm luân chuyển hàng hóa của các tuyến giao thông dẫn đến khu vực thị trường châu Á - Thái Bình Dương. Nhờ hệ thống sông Thái bình thông với hệ thống sông Hồng nên từ Hải Phòng có thể đến các trung tâm kinh tế lớn trong nội địa bằng phương tiện vận tải thủy. Hải Phòng cũng là cảng biển gần nhất nối liền với Hà Nội - trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa lớn và lâu đời nhất của Việt Nam [78, tr.27]. Về mặt quân sự, Hải Phòng chiếm giữ một vị trí tiền tiêu ở vịnh Bắc Bộ có khả năng phát hiện sớm và ngăn chặn mọi hành động xâm lăng từ bên ngoài vào đất liền như đã từng diễn ra trong lịch sử Việt Nam [78, tr.27]. Về mặt hành chính: Năm 1887, nhà Nguyễn thành lập Nha Hải Phòng, nhưng ngay sau đó đổi thành tỉnh Hải Phòng. Năm 1888, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh thành lập thành phố Hải Phòng. Cảng Hải Phòng được xây dựng từ đó [78, tr.28]. Cảng Hải Phòng được xây dựng và mở rộng để đáp ứng yêu cầu xuất nhập khẩu của thực dân Pháp. Trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897-1914), Hải Phòng đã trở thành hải cảng lớn thứ hai của cả nước (sau Sài Gòn), nền kinh tế phát triển nhanh so với các tỉnh thành khác của Việt Nam. Như vậy, thành phố Hải Phòng được thành lập cùng với sự ra đời của cảng Hải Phòng. Cảng Hải Phòng có vị trí địa chiến lược quan trọng về quân sự, kinh tế đối với Pháp, nơi tiếp nhận hàng hóa, vũ khí, phương tiện chiến tranh nhằm phục vụ cho mưu đồ khai thác thuộc địa của Pháp tại Việt Nam và Đông Dương. 5
  8. Sau ngày 13/5/1955, Hải Phòng được giải phóng, nhân dân Hải Phòng lại thực hiện những nhiệm vụ cách mạng mới. Cảng Hải Phòng có vai trò liên kết giao thương quốc tế, tiếp nhận hàng hóa viện trợ từ các nước xã hội chủ nghĩa. Giai đoạn 1955-1975, cảng Hải Phòng thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Một là, lao động sản xuất, phát triển kinh tế góp phần xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Hai là, hậu phương lớn chi viện cho chiến trường miền Nam, góp phần cho công cuộc giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Vì thế, cảng Hải Phòng luôn là điểm nóng, là mục tiêu số một của không quân và Hải quân Mĩ khi phá hoại miền Bắc. Trong thời gian này, mặc dù rất khó khăn nhưng bằng sự lỗ lực vươn lên, cảng Hải Phòng đã mở đường cho thời kỳ liên kết, mở rộng hợp tác giao thương quốc tế với các nước trong khu vực và các châu lục khác. Từ ý nghĩa khoa học và thực tiễn nêu trên, tôi chọn đề tài: “Vận chuyển và giao thương quốc tế của cảng Hải Phòng từ năm 1955 đến năm 1975” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình. 2. Lƣợc sử nghiên cứu vấn đề Cảng Hải Phòng có luồng lạch ra vào thuận lợi cho tàu thuyền cập bến một cách dễ dàng, phù hợp với hướng gió theo chiều Tây - Bắc - Đông - Nam. Nơi có vị trí quan trọng trong các mối quan hệ và liên kết giao thương trong khu vực và quốc tế [78, tr.28]. Sau Hiệp ước Philastre (1874), chính quyền bản xứ phải nhượng cho Pháp một mảnh đất nhỏ ở Cửa Cấm để đặt sở thuế quan và tòa lãnh sự. Về nguyên tắc, lúc này Pháp chưa chiếm Bắc Bộ nên mảnh đất này có quy chế tự trị, trực thuộc thống đốc Pháp ở Nam Kỳ. Mảnh đất nhượng địa này trong Hiệp ước Philastre quy định 5 mẫu, với tên gọi là đất Ninh Hải. Cuộc kiến tạo bắt đầu từ đó, đại úy công binh Espitalier đã xây dựng những cơ sở đầu tiên [28, tr.22]. Các nghiên cứu trong nước và nước ngoài về vùng đất Ninh Hải trước đó chưa được giới học giả quan tâm. Sau cuộc kiến tạo của đại úy công binh Espitalier, triều đình Huế đã cử các công nhân đến đây xây dựng sở thuế và tòa lãnh sự cho Pháp. Khi đó, có nhiều người buôn bán từ các vùng lân cận đến sinh cơ lập nghiệp, 6
  9. chủ yếu là bán hàng cho quân đội viễn chinh trú đóng ở đây. Lần hồi, gia đình binh lính đã tạo nên một loại cư dân đặc biệt - Những xóm người Âu đầu tiên. Hoa kiều cũng đã nhanh chóng nhận thấy sức hấp dẫn của một thị trường đầy triển vọng vì vậy dân số ngày một tăng lên [28, tr.22]. Cùng với sự mở rộng địa bàn tụ cư trên mặt đất, là sự khơi sâu luồng lạch mở rộng cảng. Sự hình thành và phát triển của cảng Hải Phòng song song với quá trình đô thị hóa. Quá trình ấy gắn liền với sự xâm lược và khai thác thuộc địa của Pháp, vì vậy việc xuất nhập khẩu hàng hóa của cảng Hải Phòng cũng do Pháp trực tiếp quản lý, điều hành và ghi số liệu. Giai đoạn từ năm 1874 đến năm 1921, một học giả người Pháp nghiên cứu về quá trình hình thành và phát triển của cảng Hải Phòng. Nhưng từ năm 1921 đến năm 1975, không có công trình nghiên cứu nào về cảng thị này, số liệu ghi chép lại hoạt động của cảng rất ít. Qua nghiên cứu và tìm tài liệu trong giai đoạn hiện đại, đã có một số luận văn và khóa luận tốt nghiệp nghiên cứu về kinh tế cảng Hải Phòng chứ không nghiên cứu về vấn đề vận chuyển và giao thương quốc tế của cảng. Đến nay, có một số công trình nghiên cứu về Hải Phòng và cảng Hải Phòng, đã được công bố trong nước: Dư địa chí Hải Phòng, nội dung chú trọng vào việc xác định vị trí địa lý, các đơn vị hành chính và mọi mặt đời sống của nhân dân thành phố Hải Phòng. Các công trình: Đường 5 anh dũng quật khởi (NXB Hải Phòng, 2000), Hải Phòng 50 năm sau ngày giải phóng 1955-2005, Hải Phòng 55 năm xây dựng và phát triển (13/5/1955-13/5/2010). Đối tượng nghiên cứu chủ yếu về quá trình xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng, không đề cập đến hoạt động vận chuyển, giao thương của cảng Hải Phòng. Một số nghiên cứu về lịch sử Đảng của các đơn vị trực thuộc thành phố như: Lịch sử Đảng bộ Quân khu 3, Lịch sử kháng chiến chống Pháp khu tả ngạn sông Hồng (1945-1955), Lịch sử đường Hồ Chí Minh trên biển (1961-2011), Lịch sử địa phương Hải Phòng, Lịch sử Đảng bộ Hải Phòng, Lịch sử Đảng bộ cảng Hải Phòng, Lịch sử Đảng bộ quân sự thành phố Hải Phòng (1945-2010), Lịch sử ngành đường 7
  10. biển Việt Nam, Khúc tráng ca về biển, Cuộc chiến đấu bảo vệ thành phố cảng - Khu công nghiệp Hải Phòng (1965-1972) (Vũ Tang Bồng, Luận án Tiến sĩ quân sự, Hà Nội, 2003). Các công trình khoa học trên nghiên cứu những vấn đề về lịch sử Đảng và vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Gần đây, một số nghiên cứu vấn đề về “Vùng cửa sông Đàng Ngoài thế kỷ XVII-XVIII và hệ thống cảng biển Bắc Bộ thế kỷ XI-XIX” của Tiến sĩ Đỗ Thị Thuỳ Lan, Khoa Lịch sử Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (ĐHQGHN), đã được công bố trong nước. Tác giả đã khái quát được bối cảnh lịch sử tác động đến sự hình thành một hệ thống cảng thị của miền Bắc Việt Nam từ thế kỷ XI-XIX, chưa đề cập đến cảng thị Hải Phòng trong thời kỳ hiện đại. Đây là nguồn tư liệu tham khảo đáng quý, để tôi có thể nhìn lại quá trình hình thành các tiền cảng của miền Bắc Việt Nam từ đó thấy được các mối liên hệ của các cảng biển trong nước thời kỳ hiện đại. Ngoài ra, Luận án Tiến sĩ của Nguyễn Thị Hoài Phương, Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (ĐHQGHN) về “Thành phố Hải Phòng từ năm 1888 đến năm 1945”, tác giả đã khảo cứu và phục dựng được một bức tranh toàn cảnh về lịch sử hình thành và phát triển của thành phố Hải Phòng đã vươn lên trở thành một cảng thị năng động như hiện nay. Đề tài cũng đã làm rõ thêm một số đặc trưng về đời sống, kinh tế, văn hoá, xã hội của Hải Phòng nhưng không đi sâu vào nghiên cứu, phân tích vấn đề hoạt động của cảng Hải Phòng. Cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu nào về lịch sử của cảng Hải Phòng giai đoạn năm 1955 đến năm 1975, đặc biệt là vai trò và vị trí của Hải Phòng trong việc vận chuyển và giao thương quốc tế. Một số công trình nghiên cứu có đề cập đến vấn đề vận chuyển, giao thương và xếp dỡ của cảng Hải Phòng trong giai đoạn này nhưng còn nhiều tài liệu, số liệu chưa được đối chiếu, so sánh, phân tích logic theo phương pháp khoa học, do vậy chưa đảm bảo được tính khách quan, trung thực đúng với bản chất vốn có của nó. Tuy nhiên, tất cả các nghiên cứu kể trên đối với học viên đều rất bổ ích. Các công trình nghiên cứu đó không chỉ 8
  11. cung cấp những tư liệu mà còn gợi mở cho học viên nhiều vấn đề trong quá trình nghiên cứu, từ đó mở ra cho học viên nhìn nhận những vấn đề liên quan mang tính khách quan, sâu rộng và chặt chẽ hơn. 3. Đối tƣợng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề chính là: Tình hình vận chuyển và giao thương của cảng Hải Phòng trong giai đoạn từ năm 1955 đến năm 1975. Ngoài ra, cảng Hải Phòng còn phải thực hiện một số nhiệm vụ khác cũng rất quan trọng như: phải đảm bảo được sản xuất, tổ chức xây dựng lực lượng tại chỗ chống đế quốc Mĩ phá hoại, đảm bảo an toàn hàng hải, tránh thiệt hại về người và của, bảo đảm lưu thông hàng hóa phục vụ việc vận chuyển và giao thương. Mặt khác, góp phần đảm bảo an ninh, văn hóa, xã hội. Luận văn có đề cập đến những vấn đề trên nhưng không đi sâu vào phân tích những vấn đề đó. 4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 4.1. Mục đích Luận văn kế thừa những thành quả của những công trình đã được nghiên cứu và xuất bản, trên cơ sở những nguồn tư liệu mới, luận văn trình bày có hệ thống, phân tích, đánh giá toàn diện, khách quan, theo quan điểm lịch sử của cảng Hải Phòng góp phần làm rõ nhiệm vụ: Vận chuyển và giao thương quốc tế của cảng Hải Phòng trong giai đoạn từ năm 1955 đến năm 1975. Từ đó, đánh giá được vị trí, vai trò và tầm quan trọng của cảng Hải Phòng. Bên cạnh đó, cảng Hải Phòng còn góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, là hậu phương lớn chi viện cho tuyền tuyến miền Nam kháng chiến chống đế quốc Mỹ, bảo vệ Tổ quốc, thống nhất đất nước. 4.2. Nhiệm vụ Làm rõ tình hình hoạt động của cảng Hải Phòng qua phân tích sử liệu về vấn đề: Vận chuyển và giao thương quốc tế của cảng Hải Phòng trong 20 năm (từ năm 1955 đến năm 1975). Bên cạnh việc vận chuyển, giao thương quốc tế, cảng Hải Phòng còn là nơi tiếp nhận hàng viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa giúp miền Bắc Việt Nam 9
  12. củng cố, xây dựng và phát triển kinh tế chi viện cho tiền tuyến miền Nam thống nhất đất nước. Phân tích, đánh giá được vị trí, vai trò của cảng Hải Phòng từ năm 1955 đến năm 1975, qua đó thấy được tầm quan trọng của hải cảng này trong việc xây dựng và phát triển kinh tế biển trong các giai đoạn sau. 5. Phạm vi nghiên cứu 5.1. Về không gian Cảng Hải Phòng trong nhiệm vụ góp phần phát triển kinh tế, xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và là hậu phương lớn nhận hàng viện trợ, vận chuyển, giao thương quốc tế. Ngoài mối liên hệ nội vùng, liên vùng, ngoại vùng, cảng Hải Phòng còn đặt trong một bối cảnh chung của Việt Nam. Hải Phòng không hoạt động độc lập, riêng lẻ mà luôn chịu sự chi phối, liên hệ với các cảng sông, biển và cảng cạn khác trong vùng. Vì vậy, luận văn này không đặt cảng Hải Phòng trong một cái nhìn riêng biệt mà luôn nhìn Hải Phòng dưới tác động nhiều chiều của các yếu tố nội sinh, ngoại sinh tác động đến. Từ đó thấy được tầm quan trọng chiến lược của cảng Hải Phòng trong việc thực hiện nhiệm vụ vận chuyển và giao thương quốc tế. 5.2. Về thời gian Thời gian nghiên cứu cụ thể từ năm 1955 đến năm 1975, nhưng có phần liên hệ đến giai đoạn trước và giai đoạn sau. 6. Cơ sở lý luận, phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tƣ liệu 6.1. Cơ sở lý luận Cơ sở lý luận để nghiên cứu và trình bày luận văn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. 6.2. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu lịch sử và phương pháp logic, ngoài ra còn sử dụng các phương pháp thống kê, đối chiếu, so sánh, phân tích, tổng hợp, khảo sát thực địa và phỏng vấn nhân chứng lịch sử, dựa vào những ghi chép cá nhân của các nhân chứng lịch sử để khai thác số liệu. Việc kết hợp và sử 10
  13. dụng các phương pháp trên để tìm ra bản chất của các sự kiện, làm rõ những đặc điểm có tính chất đặc thù của cảng Hải Phòng. Qua nghiên cứu cho thấy được tầm quan trọng về vị trí và vai trò của cảng Hải Phòng trong việc góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc từ năm 1955 đến năm 1975, từ đó làm cơ sở khoa học cho những vấn đề có ý nghĩa thực tiễn để phục vụ cho việc xây dựng, phát triển kinh tế cảng biển, góp phần vào công cuộc xây dựng, đổi mới đất nước hiện nay và sau này về loại hình kinh tế thương mại cảng biển Việt Nam nói chung và Hải Phòng nói riêng. 6.3. Nguồn tƣ liệu Luận văn chủ yếu sử dụng các báo cáo, chỉ thị, nghị quyết, tổng kết chuyên đề của Thành ủy, Ủy ban hành chính (Ủy ban nhân dân) thành phố, ngành giao thông vận tải, ngành đường biển, sách báo về thời kỳ kháng chiến chống Mĩ. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số tư liệu thu thập được qua khảo sát thực tế cùng một số sách, báo, tài liệu đã được xuất bản trong và ngoài nước. 7. Đóng góp của luận văn Luận văn cố gắng làm nổi bật đặc điểm, tính chất, ý nghĩa, vị trí, vai trò của cảng Hải Phòng trong sự nghiệp đấu tranh, xây dựng, bảo vệ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và làm nhiệm vụ cách mạng góp phần giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Thương mại cảng biển là ngành kinh tế trọng điểm để phát triển kinh tế đất nước trong mọi thời kỳ lịch sử. Nó rất quan trọng trong công tác đối nội, đối ngoại và an ninh quốc gia. Kinh tế cảng biển có vị trí, vai trò trong việc xây dựng và giữ gìn an ninh tổ quốc nhất là trong giai đoạn hiện nay. Trong quá trình nghiên cứu, luận văn công bố nhiều tư liệu mới, đồng thời cũng bổ sung, chỉnh lý nhiều tư liệu chưa chuẩn xác trong một số công trình nghiên cứu trước đây. Luận văn góp phần phục vụ công tác nghiên cứu sâu và giảng dạy môn lịch sử kinh tế biển trong các trường đại học và cao đẳng, qua đó có cái nhìn khái quát hơn, toàn diện hơn về một loại hình kinh tế không thể thiếu được trong việc phát triển và xây dựng đất nước trong thời đại mới. Đồng thời góp phần bồi dưỡng, giáo 11
  14. dục truyền thống yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là cho thế hệ trẻ Hải Phòng. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, phụ lục, tài liệu tham khảo thì bố cục chính của luận văn gồm 3 chương và kết luận: Chƣơng 1: Quá trình hình thành và hoạt động của cảng Hải Phòng trƣớc năm 1955. Trong chương này, tôi tập trung khái quát lại bối cảnh hình thành và hoạt động của cảng Hải Phòng đặt trong xu thế chung của nền thương mại trong nước, khu vực và quốc tế. Từ đó, khẳng định được vị trí, vai trò của cảng Hải Phòng trong hoạt động thương mại và những mối liên hệ với các cảng biển trong nước sau năm 1955. Chƣơng 2. Cảng Hải Phòng trong các mối quan hệ quốc tế. Dựa trên nền tảng đã phân tích ở chương 1, tại chương 2, tôi muốn nhấn mạnh: Các mối quan hệ và liên kết quốc tế của cảng Hải Phòng trong giai đoạn từ năm 1955 đến năm 1975. Chƣơng 3. Vị trí và vai trò của cảng Hải Phòng. Làm rõ vị trí, vai trò của cảng Hải Phòng trong mối liên hệ với các cảng trong nước và liên kết quốc tế. Với ý nghĩa đó, cảng Hải Phòng có vai trò quan trọng trong hệ thống thương mại trong nước, khu vực và quốc tế. 12
  15. CHƢƠNG 1 QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CẢNG HẢI PHÒNG TRƢỚC NĂM 1955 1. Vị trí địa lý chiến lƣợc của Hải Phòng Thành phố Hải Phòng nằm bên bờ biển Đông thuộc miền duyên hải Bắc Bộ, có diện tích 1.507,6 km2, dân số 1.701.200 người [38, tr.40], phía Đông thành phố là vịnh Bắc Bộ, có bờ biển dài 94km (không kể đảo Cát Bà và Bạch Long Vĩ), phía Bắc giáp tỉnh Quảng Ninh - vùng than lớn của Tổ quốc, phía Tây và phía Nam giáp hai tỉnh Hải Dương và Thái Bình thuộc đồng bằng trù phú của châu thổ sông Hồng. Từ trung tâm thành phố đi sâu vào nội địa 100 km bằng đường bộ (theo quốc lộ số 5) hoặc đường sắt chạy song song với nó đến thủ đô Hà Nội. Từ Hà Nội và các tỉnh phía Bắc đi ra nước ngoài và từ nước ngoài muốn vào miền Bắc, đến thủ đô Hà Nội bằng đường biển đều phải qua cửa ngõ Hải Phòng [93, tr.362]. Điều đó chứng tỏ rằng, Hải Phòng nói chung và cảng biển Hải Phòng nói riêng, có vị trí và vai trò rất quan trọng trong việc vận chuyển, giao thương, đảm bảo quốc phòng - an ninh đối với các tỉnh phía Bắc. Chính vì vậy, trong mọi thời kỳ lịch sử, việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đối với Hải Phòng - “cửa ngõ chiến lược” vô cùng quan trọng trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam. Bao quanh thành phố về các phía Bắc, phía Tây và phía Nam là các sông như: sông Đá Bạc, Bạch Đằng, Kinh Thầy, sông Hàn, sông Vân Dương, sông Luộc, sông Hóa. Các dòng sông này cũng là ranh giới tự nhiên giữa Hải Phòng với các tỉnh khác như tỉnh Quảng Ninh, Hải Dương, Thái Bình. Còn lại các dòng sông Giá, sông Chanh, sông Cấm, sông Lạch Tray, sông Đa Độ, sông Văn Úc, sông Mía, sông Mới, sông Thái Bình chảy qua địa bàn thành phố theo hướng Tây - Bắc - Đông - Nam rồi đổ ra Biển Đông qua các cửa sông Bạch Đằng, Nam Triệu, Cấm, Văn Úc, Thái Bình. Các dòng sông này ngày đêm cung cấp lượng phù sa bồi đắp cho đồng ruộng thêm trù phú, tươi tốt, đồng thời cũng là một hệ thống giao thông thủy vô cùng quan trọng và thuận lợi để tỏa đi các tỉnh phía Bắc và thủ đô Hà Nội. Từ cảng Hải Phòng theo đường thủy dễ dàng đi tới các địa phương thuộc đồng bằng Bắc Bộ, 13
  16. cũng có thể ngược lên vùng trung du và vùng núi rừng Đông Bắc, Việt Bắc, Tây Bắc và vào cả Khu 4 và các tỉnh phía Nam. Đây là cửa ngõ giao thông vô cùng quan trọng của miền Bắc Việt Nam ta không những về đường thủy, mà còn thuận lợi cả với những tuyến đường bộ từ Bắc vào Nam. Vùng biển Hải Phòng nằm trong vịnh Bắc Bộ trên đường hàng hải quốc tế, là một vùng biển quan trọng của Thái Bình Dương, nối liền Đông Bắc Á với Đông Nam Á. Trong vùng biển Hải Phòng có nhiều đảo và quần đảo. Đảo Cát Hải cách trung tâm thành phố 40km và quần đảo Cát Bà cách trung tâm thành phố 60km, án ngữ con đường vào cảng Hải Phòng qua cửa Nam Triệu. Xa hơn về phía đông qua quần đảo Cát Bà là đảo đèn Long Châu. Đảo xa nhất là đảo Bạch Long Vĩ, cách đất liền 170km, “vọng gác tiền tiêu” của Hải Phòng và miền Bắc. Cảng Hải Phòng được xây dựng từ cuối thế kỷ XIX bên bờ sông Cấm. Đây là cảng lớn nhất lúc bấy giờ, đầu mối giao thông quan trọng, cửa ngõ giao thương quốc tế của miền Bắc. Từ thành phố Hải Phòng có thể đi tới các nước bằng đường biển, bằng đường bộ, đường sắt, đường sông, đường hàng không rất thuận lợi. Hải Phòng có vị trí thuận lợi về giao thông, do vậy Hải Phòng sớm trở thành nơi giao thương kinh tế, giao lưu văn hóa Việt Nam với nước ngoài. Trong lịch sử thời kỳ Bắc thuộc, nhiều thuyền buôn của Trung Hoa đã theo đường ven biển qua cửa Cấm, cửa Bạch Đằng để đến buôn bán với Giao Châu. Sau khi giành được độc lập, nhất là trong thời kỳ thịnh đạt của Đại Việt dưới thời các vương triều nhà Lý (1010-1225), nhà Trần (1225-1400), nhà Lê sơ (1428-1527), vùng cửa biển và các dòng sông lớn thuộc Hải Phòng là một trong những tuyến giao thương quốc tế quan trọng cung cấp nguồn hàng cho thương cảng Vân Đồn (thế kỷ XII-XVIII) và Phố Hiến (thế kỷ XVII-XVIII). Trong lịch sử Việt Nam, các học giả phương Bắc luôn coi Hải Phòng là “cửa ngõ đường biển” của Đại Việt [98, tr.15]. Các nhà địa lý, lịch sử Việt Nam thời xưa cũng nhận định nơi đây “có tiếng thứ nhất trong những chỗ xung yếu, các đời phần nhiều lập chiến công ở chỗ này” [34, tr.109] và “Đại Việt khống chế người Bắc, chỗ này là cổ họng” [76, tr.25]. 14
  17. Hải Phòng có truyền thống lịch sử văn hóa lâu đời, gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước oanh liệt của dân tộc Việt Nam. Như vậy, vị trí địa lý của vùng đất cho Hải Phòng trở thành đầu mối giao thông quan trọng. Xa xưa, nơi đây là cửa ngõ xâm nhập của các đội quân xâm lược, là nơi qua lại buôn bán giữa nước ngoài với Kinh kỳ, phố Hiến [52, tr.8]. 2. Cảng Hải Phòng trƣớc năm 1955 2.1. Quá trình hình thành và hoạt động của cảng Hải Phòng từ năm 1874 đến năm 1918 Cảng Hải Phòng nằm trên hữu ngạn sông Cửa Cấm, cách biển 20 hải lý (37 km) về phía Đông Bắc nằm trong vùng tam giác sông Hồng (delta du Fleuve Rouge). Tây Bắc cách thủ đô Hà Nội 103 km và Hải Dương 46 cây số, cách Quảng Yên 30 km và cách biên giới Trung Hoa chừng 200 km [30, tr.1]. Sau cuộc khảo sát của Senez năm 1873 đến năm 1874, thực dân Pháp ký với triều Nguyễn, Hiệp ước Philastre (15-3-1874) [28, tr.22], (Hiệp ước được ký giữa triều đình Huế đại diện là Nguyễn Văn Tường với Pháp đại diệnlà Philastre [70, tr.13]), với nhiều điều khoản nặng nề, trong đó có các điều khoản liên quan đến Hải Phòng như: mở cửa biển Ninh Hải thuộc tỉnh Hải Dương (tức Hải Phòng ngày nay) cho người nước ngoài tới buôn bán, làm ăn (điều khoản 11): cùng với một viên lãnh sự và một đội quân bảo vệ đóng tại Hải Phòng để phụ trách trật tự trị an (điều khoản 13). Theo Hiệp ước, triều đình nhà Nguyễn còn dâng toàn bộ đất Hải Phòng và quyền kiểm soát hải cảng. Từ đấy, Pháp bắt tay vào việc xây dựng cảng nhằm biến bến thuyền làng Cấm thành một quân cảng và thương cảng lớn phục vụ cho ý đồ xâm lược và vơ vét tài nguyên của Pháp [60, tr.3]. Các đồn ải của Pháp là nơi có thể bán hàng. Tuyến đường lên Vân Nam là nơi có thể mua hàng và chở hàng theo sông Hồng ra cửa biển Hải Phòng và đến các nơi vì vậy cuộc tụ cư được thúc đẩy khá nhanh tại Hải Phòng [28, tr.22]. Vào cuối thế kỷ XIX, khu dân cư người Việt và người Hoa tập trung chủ yếu ở làng An Biên thuộc hữu ngạn sông Tam Bạc dần trở nên đông đúc. Nhà Nguyễn 15
  18. đã cho thi hành một kế hoạch chiêu tập các thương nhân đến đây mở của hiệu làm ăn, buôn bán, lập phố xá ở Hải Phòng để cầm chân quân Pháp, làm giảm bớt sự chú ý của chúng tới Hà Nội [78, tr.27-28]. Ngay từ những ngày đầu chiếm được Hải phòng, tư bản Pháp đã tranh thủ vơ vét, tước đoạt nhân dân ta ráo riết bằng biện pháp thuế khóa. Năm 1874, năm đầu tiên, chúng đã thu được 75.000 đồng bạc1 thuế đánh vào các tàu ra vào cảng. Đến năm sau (1875), Pháp đưa ra “Đạo luật quan thuế” bảo đảm độc quyền cảng Hải Phòng. Đồng thời ra sức đẩy mạnh việc buôn bán qua cảng để kiếm lời. Năm 1876, qua cảng Hải Phòng đã nhập 46 vạn frăng/vàng và xuất 28 vạn 5.000 frăng/vàng hàng hóa (chiếm 4/5 tổng số xuất nhập khẩu của toàn xứ Bắc Kỳ) [69, tr.7]. Đến năm 1877, mảnh đất 5 mẫu trở nên chật hẹp. Viên lãnh sự Pháp P. Turc điều đình với tổng đốc Hải Dương Phạm Phú Thứ cho nới rộng tới 20 mẫu. Sau thập niên 80 của thế kỷ XIX, Pháp tiến hành đánh chiếm Bắc Kỳ. Cuộc đổ quân vào xâm chiếm Bắc Kỳ đến đâu thì Hải Phòng sầm uất đến đấy. Lúc đó, giá tiêu thụ các loại hàng hoá trở nên đắt đỏ tới mức người Việt Nam bị tước đoạt dần những quyền tiêu dùng sản phẩm của chính nước mình[28, tr.22-23]. Công trình đầu tiên mà thực dân Pháp xây dựng là một hệ thống nhà kho gồm 6 kho lớn (gọi là bến 6 kho). Mỗi kho có kích thước 81,5m x 24,5m. Công trình xây dựng 6 kho được khởi công năm 1883 và hoàn thành vào năm 1888. Hệ thống nhà kho được tiếp tục mở rộng vào những năm sau đó. Khi phát xít Nhật chiếm cảng, tổng cộng hệ thống nhà kho có diện tích 40.000 m2 và 15.000 m2 sân bãi lộ thiên để chứa những mặt hàng lớn. Việc xây dựng hệ thống nhà kho được tiến hành đồng thời với hệ thống cầu nổi. Năm 1888, hệ thống cầu nổi hoàn thành. Về sau, do sự phát triển giao thương hàng hóa ngày càng lớn, hệ thống cầu nổi xây dựng theo kết cấu cũ trở nên không phù hợp. Vì vậy, đến năm 1891, Pháp cho xây dựng một hệ thống cầu sắt để thay thế cho hệ thống cầu nổi. Tới năm 1923, toàn 1 Đồng bạc Mễ Tây Cơ mang hình vẽ 1 cái cân (Piastre à balance) có kim lượng 0,9027 và nặng 27 grammes. 16
  19. cảng có 6 hệ thống cầu tàu biển, 1 cầu tàu sông và một số cầu nhỏ phụ trợ khác đã xây dựng xong. Về mặt trang bị kỹ thuật, trong thời kỳ Pháp thuộc cảng Hải Phòng chỉ có vài chiếc cần cẩu cũ. Ngoài ra, phần lớn việc bốc vác hàng hóa là dựa vào sức người [60, tr.10-11]. Năm 1880, thực dân Pháp chính thức đặt lãnh sự quán ở Hải Phòng. De Champeaux được cử làm lãnh sự. Trong báo cáo của lãnh sự Pháp ở Hà Nội De Kecgaradec, năm 1880, dưới nhan đề “Le commerce du Port de Hai Phong”, năm đó đã có 253 tàu châu Âu ra vào với trọng tải 114.194 tấn và 205 tàu Trung Quốc với trọng tải 9.616 tấn, tăng hơn năm 1879 là 4.500 tấn: Tổng giá trị nhập khẩu là 5.467.315 frăng và xuất khẩu là 7.507.528 frăng. Cũng theo De Kecgaradec: người Pháp đã xuất một số gạo sang Hồng Kông là 500.000 tạ [70, tr.16]. Trước năm 1874, tàu các nước đến cảng Hải Phòng chủ yếu là tàu Trung Quốc, Nhật Bản. Từ năm 1800 trở đi, tàu các nước như: Pháp, Anh, Mĩ, Đức, Hà Lan thường xuyên đến đây giao thương [78, tr.29]. Năm 1880, trị giá hàng nhập khẩu qua cảng Hải Phòng là 5,5 triệu frăng, xuất là 7,5 triệu frăng (theo thống kê của cơ quan liên hiệp thuế quan Pháp-Việt được lập tại cảng Hải Phòng theo Hiệp ước ngày 15 - 3 - 1874). Căn cứ vào các con số trên, ta thấy cảng Hải Phòng từ rất sớm đã giữ vai trò quan trọng, việc xuất nhập hàng hóa trong những năm cuối thập kỷ 70 sang đầu thập kỷ 80 là rất lớn. Thông qua việc xuất nhập hàng hóa, tư bản Pháp đã thu được rất nhiều lợi nhuận. Nhưng nếu phân tích những con số xuất nhập trên, đặc biệt là số hàng nhập thì thấy có nhiều điểm đáng chú ý. Trong tổng số hàng hóa nhập khẩu ở cửa biển Hải Phòng năm 1880 trị giá là 5,5 triệu frăng có tới 3 triệu frăng về chế tạo phẩm, chủ yếu là hàng của các nước khác chứ không phải của Pháp, như sợi vải, len dạ của Anh, tơ lụa của Trung Quốc, đồ đồng của Nhật Bản,...(theo Báo cáo thương nghiệp của lãnh sự Pháp tại Hải Phòng năm 1880 do P. Gourou dẫn trong “Những người nông dân đồng bằng Bắc Kỳ”, Paris, 1936) [69, tr.8]. 17
  20. Theo ghi chép của sở quan thuế: Năm 1884 đã có đến trên 110 mặt hàng nhập và khoảng 30 mặt hàng xuất. Thực dân Pháp đã nhận thấy gạo là món hàng xuất khẩu có lãi nhất qua cảng Hải Phòng. De Kecgaradec vui vẻ kết luận rằng: “Nếu so với các cảng ở Nam Trung Quốc thì Hải Phòng chỉ thua Thượng Hải mà thôi” [70, tr.16-17]. Theo báo cáo của A. Bléton ngày 22 - 10 - 1885, số nhà của người châu Âu ở Hải Phòng chưa nhiều, khoảng 15-20 hộ. Báo cáo của phòng thương nghiệp: năm 1887 có 417 tàu vào cảng với trọng tải 126.446 tấn và 342 tàu xuất cảng có trọng tải 122.923 tấn. Một vài đoạn mô tả thành phố Hải Phòng, do người Pháp ghi lại: Theo C. Imbert, năm 1885 dân số Hải Phòng đã lên tới 15.000 người, trước đó có khoảng 2.000-3.000 người. Hải phòng được xây dựng trên hai bờ một vùng hẹp của sông Cửa Cấm, dài 3km. Trừ mấy công ty vận chuyển đường biển, một vài thương điếm của một số lái buôn lớn và kho hàng của người Hoa. Giữa thành phố có một vài nhà buôn nằm rải ra giữa khu nhà ở của nhân dân địa phương. Có hai đường phố chính: vùng ngoại vi thành phố có một số ngôi nhà đẹp, xung quanh có vườn. Nhân dân vẫn phải mua nước uống được đưa từ Quảng Yên về, cách 40km, bằng thuyền với giá 2 lít/xu[70, tr. 16-17] Theo một báo cáo khác năm 1886, “Hải Phòng gợi cho ta hình ảnh của các khu buôn bán ở Sài Gòn-Chợ Lớn năm 1861. Tàu đậu ở những dãy cọc gỗ cắm giữa sông. Phía sau những ao hồ nước đọng và đầm lầy là mấy đường phố hẹp. Nhà cửa thưa thớt, cái thì lợp ngói, cái thì lợp tranh. Cư dân đông đúc, hoạt bát, hàng hóa nhiều. Dọc sông Tam Bạc là một đường phố buôn bán sầm uất, dài khoảng 1km. Ở đây có nhà ở, kho hàng của các thương nhân châu Âu, Hoa kiều. Trên bờ sông Cửa Cấm chạy dọc Hải Phòng có một số ngôi nhà đơn sơ, một số nhà của sở quản lý cảng, bệnh viện...”[70, tr. 16-17] Như vậy, những năm đầu thập kỷ 80, Hải Phòng là một thành phố cảng lớn vào loại bậc nhất nước ta, có ý nghĩa quốc tế ngày càng cao. Thời gian này thực dân Pháp chưa cho phép tư bản Pháp độc chiếm thị trường Bắc Kỳ và tung hàng hóa do chính nước Pháp sản xuất vào thị trường này. Hoạt động chính của Pháp là mở rộng 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2