intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Lịch sử Việt Nam: Trí thức Nam Kỳ trong tiến trình giải phóng dân tộc (1930 - 1945)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:97

14
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn "Trí thức Nam Kỳ trong tiến trình giải phóng dân tộc (1930 - 1945)" được hoàn thành với mục tiêu nhằm đánh giá những thành tựu, hạn chế và chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế trong phát triển của lực lượng trí thức Nam Kỳ trong giai đoạn 1930 - 1945; đề xuất những định hướng và giải pháp trong việc phát triển nguồn trí thức.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Lịch sử Việt Nam: Trí thức Nam Kỳ trong tiến trình giải phóng dân tộc (1930 - 1945)

  1. UBND TỈNH BÌNH DƯƠNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT NGUYỄN TRÍ THÔNG TRÍ THỨC NAM KỲ TRONG TIẾN TRÌNH GIẢI PHÓNG DÂN TỘC (1930 - 1945) CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ VIỆT NAM MÃ SỐ : 8229013 LUẬN VĂN THẠC SĨ BÌNH DƯƠNG –2022
  2. UBND TỈNH BÌNH DƯƠNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT NGUYỄN TRÍ THÔNG TRÍ THỨC NAM KỲ TRONG TIẾN TRÌNH GIẢI PHÓNG DÂN TỘC (1930 - 1945) CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ VIỆT NAM MÃ SỐ : 8229013 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN VĂN GIÁC BÌNH DƯƠNG – 2022
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn này là kết quả của quá trình nghiên cứu tổng hợp thật sự nghiêm túc của bản thân. Các luận cứ nghiên cứu, dữ liệu, hình ảnh trong luận văn là chính xác và trung thực. Bình Dương, ngày tháng năm 2022 Người viết luận văn Nguyễn Trí Thông i
  4. LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn này, tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Đại học Thủ Dầu Một, Viện Đào tạo Sau Đại học, quý thầy cô Chương trình đào tạo sau đại học ngành Lịch sử Việt Nam, Khoa Khoa học Xã hội & Nhân văn đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn tại trường. Tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Văn Giác - người thầy đã tận tình hướng dẫn cho tôi trong học tập, nghiên cứu và thực hiện luận văn này. Tôi xin kính gửi lời cảm ơn đến quý thầy cô trong Hội đồng chấm luận văn đã dành thời gian, đóng góp ý kiến quý báu để luận văn được hoàn chỉnh hơn. Tôi xin gửi lời cảm ơn đến quý lãnh đạo huyện Bắc Tân Uyên, Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Bắc Tân Uyên, trường THCS Lạc An đã tạo điều kiện để tôi hoàn thành khóa học này. ii
  5. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................. I LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... II MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ....................................................................................... 1 2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ................................................................................. 1 3. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ ....................................................................... 2 4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU .......................................................... 6 5. NGUỒN TƯ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ......................................... 6 6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN............................................................................. 7 7. BỐ CỤC LUẬN VĂN.......................................................................................... 7 CHƯƠNG 1: ......................................................................................................... 8 BỐI CẢNH NAM KỲ NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX VÀ SỰ HÌNH THÀNH TẦNG LỚP TRÍ THỨC NAM KỲ .................................................................... 8 1.1. TÌNH HÌNH THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM CUỐI THẾ KỶ XIX - ĐẦU THẾ KỶ XX ............................................................................................................................ 8 1.1.1. Tình hình thế giới ................................................................................... 8 1.1.2. Tình hình Việt Nam ................................................................................ 9 1.2. CHẾ ĐỘ CAI TRỊ CỦA PHÁP VÀ CHUYỂN BIẾN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở NAM KỲ .......................................................................................................................... 14 1.2.1. Chế độ cai trị ........................................................................................ 14 1.2.2. Chuyển biến kinh tế - xã hội ở Nam Kỳ .............................................. 16 1.3. SỰ HÌNH THÀNH TẦNG LỚP TRÍ THỨC Ở NAM KỲ ................................... 18 TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 .................................................................................... 21 CHƯƠNG 2: ....................................................................................................... 22 HOẠT ĐỘNG CỦA TRÍ THỨC NAM KỲ TRONG TIẾN TRÌNH ............ 22 GIẢI PHÓNG DÂN TỘC (1930 – 1945) .......................................................... 22 2.1. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG CỦA TRÍ THỨC NAM KỲ ............................................................................................................. 22 2.1.1. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 - 1933 ............................ 22 iii
  6. 2.1.2. Giai đoạn 1936 - 1939 ........................................................................... 25 2.1.3. Giai đoạn 1939 - 1945 ........................................................................... 30 2.2. HOẠT ĐỘNG CỦA TRÍ THỨC NAM KỲ ...................................................... 38 2.2.1. Hoạt động của trí thức Nam kỳ trước năm 1930 ................................ 38 2.2.2. Hoạt động của trí thức Nam Kỳ sau năm 1930 ................................... 42 TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 .................................................................................... 64 CHƯƠNG 3: ....................................................................................................... 65 ĐẶC ĐIỂM VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA TRÍ THỨC NAM KỲ TRONG CÁCH MẠNG DÂN TỘC, DÂN CHỦ (1930 -1945) ...................................... 65 3.1.1. VỀ TƯ TƯỞNG VÀ PHƯƠNG THỨC ĐẤU TRANH ........................................ 65 3.1.1.1. Về tư tưởng......................................................................................... 65 3.1.1.2. Về phương thức hoạt động ............................................................... 66 3.2. ĐẶC ĐIỂM CỦA TRÍ THỨC NAM KỲ (1930 - 1945) ................................... 68 TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 .................................................................................... 73 KẾT LUẬN ......................................................................................................... 76 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 78 iv
  7. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Lịch sử đã chứng minh, trong bất kỳ chế độ xã hội nào, trí thức đều là động lực phát triển, là thước đo văn minh, tiến bộ xã hội của dân tộc và thời đại. Từ giữa thế kỉ XIX, cùng với cả nước, trí thức Việt Nam bước vào một giai đoạn lịch sử mới phải đối đầu với chủ nghĩa thực dân Phương Tây. Trong hơn nửa thế kỷ sống dưới chế độ thuộc địa, giới trí thức vừa phải đối đầu với chủ nghĩa tư bản Pháp vừa phải tiếp xúc với một nền văn hoá mới, đây là giai đoạn đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, cái tiến bộ và cái lỗi thời, tạo nên những chuyển biến sâu sắc trong cả cơ cấu và nhận thức. Trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp, trí thức Nam Kỳ tuy ra đời muộn hơn so với những vùng miền khác của đất nước, song tỏ ra kiên quyết trong đấu tranh và nhạy bén trước thời cuộc. Nửa đầu thế kỷ XX, Nam Kỳ như một môi trường chính trị hấp dẫn, thu hút nhiều trí thức hoạt động sôi nổi. Trí thức Nam kỳ đã có một quá trình vận động chính trị và cách mạng không hề trầm lắng, yên ắng mà ngược lại rất tích cực, sôi nổi. Quá trình này đã góp phần làm bộc lộ thái độ và hoạt động chính trị của trí thức Nam Kỳ. Trong quá trình đó, họ thành lập và gia nhập các đảng phái, tổ chức chính trị, đặt nền tảng cho những lựa chọn con đường cách mạng thời kỳ sau. Nghiên cứu đề tài “Trí thức Nam Kỳ trong tiến trình giải phóng dân tộc (1930 - 1945)” là điều rất cần thiết để có cái nhìn tổng quan những hoạt động và đóng góp của trí thức Nam Bộ trong công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc với thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945. Góp phần vào việc nhận thức đội ngũ trí thức Nam Kỳ nói riêng và trí thức Việt Nam nói chung trong lịch sử để phát huy vai trò của lực lượng trí thức trong thời kỳ hiện nay. 2. Mục tiêu nghiên cứu Đề tài hướng đến các mục tiêu cụ thể sau: Thứ nhất, làm rõ bối cảnh, tình hình kinh tế - xã hội của Nam Kỳ, sự hình thành của lực lượng trí thức Nam Kỳ trong giai đoạn 1930 - 1945. 1
  8. Thứ hai, phân tích quá trình phát triển của lực lượng trí thức Nam Kỳ trong giai đoạn 1930 - 1945. Thứ ba, đánh giá những thành tựu, hạn chế và chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế trong phát triển của lực lượng trí thức Nam Kỳ trong giai đoạn 1930 - 1945. Thứ tư, đề xuất những định hướng và giải pháp trong việc phát triển nguồn trí thức. 3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về lực lượng trí thức Việt Nam nói chung và Nam Kỳ nói riêng, nhất là những năm gần đây, các nhà khoa học lịch sử đã dành rất nhiều thời gian nghiên cứu về trí thức, sự hình thành, phát triển và đóng góp của lực lượng trí thức Nam Kỳ, nhiều công trình khoa học đã thể hiện và khẳng định rõ vai trò và vị thế của người trí thức Nam Kỳ trong quá trình giành độc lập của dân tộc. Tình hình nghiên cứu về trí thức Việt Nam nói chung và Nam Kỳ nói riêng, có các công trình nghiên cứu đã được công bố thông qua tác phẩm sách, đề tài, bài viết tiêu biểu sau: Nguyễn Đình Thống trong cuốn sách “Trí thức Nam bộ tiêu biểu từ cuối thế kỉ XIX đến 1975” do Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 2018 đã phân tích rõ khái niệm trí thức, vai trò và đóng góp của trí thức Nam Bộ trong suốt quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, nêu bật lên các gương mặt tiêu biểu của trí thức Nam bộ trong thời kì này. Nguyễn Đình Thống trong cuốn sách “Trí thức Việt Nam trong tiến trình giải phóng dân tộc nửa đầu thế kỉ XX (1900- 1945)” do nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành năm 2016 đã nêu rõ vai trò của các lực lượng trí thức Nam Bộ trong suốt quá trình về hoạt động chính trị, văn hóa, xã hội và phong trào đấu tranh tiêu biểu của giới sĩ phu, trí thức yêu nước trong cuộc vận động, giải phóng dân tộc từ đầu thế kỉ XX đến cách mạng tháng Tám thành công. Nguyễn Văn Khánh trong cuốn sách “Việt Nam 1919 - 1930, thời kỳ tìm tòi và định hướng” do nhà xuất bản Tri Thức đã trình bày rõ những tiền đề và điều 2
  9. kiện kinh tế xã hội của phong trào dân tộc Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất dưới tác động của các chính sách khai thác thuộc địa của thực dân pháp, sự lớn mạnh của các lực lượng xã hội mới cùng với sự du nhập mạnh mẽ các tư tưởng cách mạng vào Việt Nam. Cuốn sách đi tới khẳng định rằng, sự thắng thế của hệ tư tưởng Cộng sản và khuynh hướng cách mạng vô sản là một tất yếu lịch sử, phù hợp với xu thế vận động và phát triển của phong trào giải phóng dân tộc trong thời đại mới. Nguyễn Văn Khánh trong cuốn sách “Trí thức Việt Nam trong tiến trình lịch sử dân tộc” - Nhà xuất bản chính trị Quốc gia - Sự thật năm 2015 đã trình bày các quan điểm khác nhau về trí thức, sự hình thành và phát triển của đội ngũ trí thức Việt Nam trong thời kì trung đại, cận và hiện đại. cuốn sách tập trung làm rõ những hoạt động đóng góp của trí thức trên - các lĩnh vực kinh tế - xã hội của đất nước, nhất là trong sự nghiệp chống ngoại xâm, bảo vệ tổ quốc cũng như trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước qua các thời kì. Vũ Khiêu trong cuốn sách “Người trí thức Việt Nam qua các chặng đường lịch sử” - Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh năm 1987 đã trình bày cho chúng ta thấy rõ những quan điểm về người trí thức Việt Nam qua các chặng đường lịch sử từ thuở dựng nước và giữ nước, làm rõ vai trò của người trí thức ngày một rõ nét. Trịnh Văn Thảo trong cuốn sách “Ba thế hệ trí thức người Việt (1862 - 1954)” - Nhà xuất bản Tri Thức 2020 đã cho chúng ta thấy được qua các thời kì đầy biến động của đất nước, tầng lớp trí thức Việt Nam đã không ngừng phát triển, linh hoạt sáng tạo trước những chuyển biến của thời đại, từ đó, tìm ra giá trị của tầng lớp trí thức Việt Nam trong giai đoạn này. Đoàn Trường Thụ trong cuốn sách “Tư tưởng chính trị Việt Nam 1930 - 1945”, đã cung cấp cho chúng ta hướng tiếp cận mới về lịch sử tư tưởng, góp phần nâng cao nhận thức của người đọc, người nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy, nghiên cứu lịch sử tư tưởng chính trị ở Việt Nam hiện nay và cũng một lần nữa khẳng định những giá trị tư tưởng chính trị của một giai đoạn lịch sử, mở ra một thời đại 3
  10. mới trong lịch sử Việt Nam nói chung và lịch sử tư tưởng Việt Nam hiện đại nói riêng. Tác giả Nguyễn Thị Thanh Thủy với bài viết Về đặc điểm của tầng lớp trí thức Tây học ở Việt Nam đầu thế kỷ XX in trong Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia, Khoa học Xã hội và Nhân văn số 28 đã phân tích các đặc điểm của tầng lớp trí thức Tây học và nhấn mạnh các ý nghĩa quan trọng, góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề của lịch sử dân tộc thời cận đại. Bài viết bước đầu đề xuất cách tiếp cận và phân tích bốn đặc điểm cơ bản của tầng lớp trí thức Tây học. Thứ nhất là đặc điểm về nguồn gốc (gồm có nguồn gốc giáo dục và nguồn gốc xuất thân) của trí thức Tây học Việt Nam. Đặc điểm thứ hai là qui mô và cơ cấu của tầng lớp trí thức Tây học. Đặc điểm thứ ba là tính thị dân của tầng lớp trí thức Tây học. Đặc điểm thứ tư của trí thức Tây học là: mặc dù có tính vong bản, mất gốc do là sản phẩm của nền giáo dục thuộc địa nhưng với tinh thần yêu nước truyền thống, trí thức Tây học đã trở về đồng hành và lãnh đạo nhân dân vì mục tiêu giải phóng và phát triển đất nước theo con đường tiến bộ. Luận văn Tiến sĩ Nguyễn Thanh Hóa với đề tài: Trí thức Việt Nam tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), tác giả đã nhấn mạnh trí thức Việt Nam trong bất kỳ giai đoạn nào cũng có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự hưng vong của đất nước. Lịch sử chống giặc ngoại xâm của Việt Nam, đặc biệt là giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1945-1954) in đậm sự đóng góp to lớn của tầng lớp trí thức trong cuộc đấu tranh kiên cường, bất khuất của toàn dân. Đề tài tập trung phân tích một số đặc điểm của trí thức Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp, qua đó rút ra những nhận định bước đầu về tầng lớp này. Nguyễn Công Chánh (2007), Hoạt động yêu nước của trí thức Tiền Giang trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ (từ sau cách mạng 8/1945 đến 30/4/1975), luận văn Thạc sĩ Lịch sử Việt Nam, trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn tập trung phục dựng bức tranh toàn cảnh của lịch sử xã hội tỉnh Tiền Giang từ sau cách mạng tháng Tám đến cuộc kháng chiến chống 4
  11. Mỹ cứu nước, qua đó tìm hiểu các hoạt động yêu nước của trí thức Tiền Giang. Trên nền cụ thể đó, bước đầu phân tích và rút ra đặc điểm của trí thức Tiền Giang. Bài viết Trí thức Nam Kỳ trong các tổ chức cách mạng từ 1927 đến 1929 của Huỳnh Bá Lộc (2016) in trong tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, tập 19, số X4 đã lý giải rất rõ, Nam Kỳ như một môi trường chính trị hấp dẫn, thu hút nhiều trí thức hoạt động từ sau những phong trào của năm 1926. Sau đó, từ năm 1927 đến 1929, bài viết cho thấy trong một thời gian rất ngắn, trí thức Nam Kỳ đã có một quá trình vận động chính trị và cách mạng không hề trầm lắng, yên ắng mà ngược lại rất tích cực, sôi nổi. Quá trình ngắn này đã góp phần làm bộc lộ thái độ và hoạt động chính trị của trí thức Nam Kỳ. Trong quá trình đó, họ thành lập và gia nhập các đảng phái, tổ chức chính trị, đặt nền tảng cho những lựa chọn con đường cách mạng thời kỳ sau. Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng của Đặng Thị Minh Phượng (2015) với đề tài: Đảng vận động trí thức trong đấu tranh giải phóng từ năm 1930 đến năm 1945, Nghiên cứu một cách có hệ thống quan điểm, chủ trương của Đảng và Nguyễn Ái Quốc về trí thức và công tác vận động trí thức. ở Việt Nam thời kỳ 1930 - 1945. Luận giải quá trình các cấp bộ Đảng lãnh đạo thực hiện công tác vận động trí thức, sự ra đời và hoạt động của các tổ chức trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng thời kỳ 1930 - 1945. Đánh giá một cách khoa học, khách quan vị trí, vai trò và những đóng góp của trí thức trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc thời kỳ 1930 - 1945. Khẳng định những thành công, phân tích hạn chế của Đảng trong vận động trí thức thời kỳ 1930 - 1945. Làm sáng tỏ sự lãnh đạo của Đảng trong vận động trí thức thời kỳ 1930 - 1945, từ đó, đúc kết một số kinh nghiệm về công tác vận động trí thức. Nhìn chung, những công trình, tài liệu trên đã nêu lên sự hình thành, phát triển và đóng góp của lực lượng trí thức dân tộc Việt Nam suốt chặng đường dựng nước và giữ nước của dân tộc, các công trình trên đã cho thấy vai trò và vị thế của người trí thức Việt Nam và đóng góp to lớn của họ vào quá trình đấu tranh giải 5
  12. phóng dân tộc. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy ít có công trình nào đi sâu phân tích, tái hiện quá trình hình thành và phát triển của lực lượng trí thức Nam Kỳ trong giai đoạn 1930 - 1945. Vì vậy, chúng tôi muốn tập hợp các nguồn tài liệu từ những công trình và các đề tài nghiên cứu được đề cập ở trên của các tác giả trong thời gian qua, xem đây là những tư liệu tham khảo bổ ích và chủ chốt, có tính gợi mở để triển khai nội dung nghiên cứu đề tài “Trí thức Nam Kỳ trong tiến trình giải phóng dân tộc (1930 - 1945)”. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng là trí thức Nam Kỳ với những nhận thức tư tưởng, hoạt động đấu tranh trong khuôn khổ các tổ chức và phong trào cách mạng đương thời (1930 - 1945). 4.2. Phạm vi nghiên cứu Về không gian: xứ Nam Kỳ thời thuộc Pháp, trong đó thủ phủ Sài Gòn - Chợ Lớn cùng các đô thị trung tâm là không gian chủ yếu. Về thời gian: từ năm 1930, với sự chuyển hướng trong nhận thức tư tưởng cứu nước của trí thức Nam Kỳ nói riêng theo trào lưu Marxist, đến năm 1945, đánh dấu bởi thắng lợi của Cách mạng tháng Tám và thành lập được Chính quyền Nhân dân. 5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu 5.1. Nguồn tài liệu Để hoàn thành đề tài này, chúng tôi tham khảo và sử dụng những nguồn tài liệu chủ yếu sau: Tư liệu thành văn được thu thập từ các thư viện ở Thành phố Hồ Chí Minh, Thư viện tỉnh Bình Dương. Đây là nguồn sử liệu từ các công trình nghiên cứu, các sách chuyên đề về trí thức, những luận và những bài báo và tạp chí chuyên ngành, những bài báo cáo tham luận trong các hội thảo khoa học,... cũng là nguồn tài liệu mang tính cập nhật cao được sử dụng trong luận văn này. Ngoài ra các trang web uy tín có liên quan đến trí thức Nam Kỳ cũng là một nguồn tài liệu đáng tin cậy 6
  13. 5.2. Phương pháp nghiên cứu 1) Sử dụng phương pháp nghiên cứu của ngành học là phương pháp lịch sử, phương pháp logic để tìm hiểu mối liên hệ giữa các sự kiện lịch sử, nhằm nêu bật nội dung cốt lõi, bản chất của vấn đề, cố gắng trình bày lịch sử như nó đã từng diễn ra. Với đề tài trên, tác giả phải cố gắng tổng hợp, khái quát để nêu được một số nét cơ bản, tổng quát về lịch sử trí thức Nam Kỳ trong giai đoạn 1930 - 1945. 2) Phương pháp liên ngành: tác giả luận văn kết hợp với các tài liệu và kế thừa thành tựu nghiên cứu của các ngành: lịch sử, địa lý, văn học... 6. Đóng góp của luận văn Một là, luận văn trình bày về trí thức Nam Kỳ trong tiến trình giải phóng dân tộc (1930 - 1945), từ đó giúp người đọc hiểu biết thêm về những đặc điểm của vùng đất Nam Kỳ và những biến thiên về sự kiện, thời gian và con người trên vùng đất này Hai là, góp phần làm phong phú thêm nguồn tư liệu lịch sử nói về trí thức Nam Kỳ trong tiến trình giải phóng dân tộc (1930 - 1945). Ba là, đây là nguồn tài liệu phong phú và đáng tin cậy trong hoạt động tuyên truyền về lịch sử vùng đất và con người Nam Bộ trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc (1930 - 1945). Tài liệu còn có thể giúp những ai muốn tìm hiểu về con người trí thức vùng đất Nam Kỳ và ngày càng yêu quý về vùng đất Nam Kỳ hơn. 7. Bố cục luận văn Chương 1: Bối cảnh Nam Kỳ nửa đầu thế kỷ XIX và sự hình thành tầng lớp trí hhức Nam Kỳ Chương 2: Hoạt động của Trí thức Nam Kỳ trong tiến trình giải phóng dân tộc (1930 – 1945) Chương 3: Đặc điểm và những đóng góp của trí thức Nam Kỳ trong cách mạng dân tộc, dân chủ (1930 -1945) 7
  14. CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH NAM KỲ NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX VÀ SỰ HÌNH THÀNH TẦNG LỚP TRÍ THỨC NAM KỲ 1.1. Tình hình thế giới và Việt Nam cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX 1.1.1. Tình hình thế giới Từ nửa sau thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây phát triển mạnh, chủ nghĩa tư bản chuyển nhanh từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền (giai đoạn đế quốc chủ nghĩa). Kéo theo đó là nền kinh tế hàng hóa phát triển mạnh, và yêu cầu bức thiết đặt ra lúc này là về thị trường và thuộc địa. Đó là nguyên nhân chính dẫn tới những cuộc chiến tranh xâm lược đối với các quốc gia phong kiến phương Đông, bởi vì đa số các quốc gia phong kiến phương Đông lúc này đang trong thời kỳ nghèo nàn và lạc hậu, nên mục tiêu của các nước phương Tây muốn xâm lược và biến các quốc gia này thành thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, mua bán nguyên vật liệu, khai thác sức người, sức của và xuất khẩu tư bản của các nước đế quốc. Chủ nghĩa đế quốc xuất khẩu tư bản, đầu tư khai thác thuộc địa triệt để đem lại lợi nhuận tối đa cho tư bản chính quốc, vấn đề này được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc miêu tả trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp: Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa đã cho thầy sự bóc lột cùng cực của chủ nghĩa đế quốc. Và tất nhiên, một khi sự áp bức và thôn tính dân tộc của chủ nghĩa đế quốc càng tăng thì mâu thuẫn giữa dân tộc thuộc địa với thực dân càng gay gắt, sự phản kháng của nhân dân các thuộc địa càng quyết liệt và diễn ra ngày một nhiều hơn và hơn nữa, chính bản thân chủ nghĩa đế quốc xâm lược, thống trị các thuộc địa lại tạo cho các dân tộc bị chinh phục những phương tiện và phương pháp để tự giải phóng chính mình. Đó là, sự thức tỉnh về ý thức dân tộc, lòng tự tôn và các phong trào đấu tranh dân tộc để tự giải phóng chính mình khỏi ách cai trị của thực dân, lập lại hòa bình cho chính dân tộc mình. Vào đầu thế kỷ XX, trên thế giới, sự thức tỉnh về ý thức của các dân tộc thuộc địa nói chung và châu Á nói riêng, Cách mạng 1905 ở Nga đã tạo thành một 8
  15. cao trào thức tỉnh của các dân tộc phương Đông. Hàng trăm triệu người hướng về một cuộc sống mới với ánh sáng của tự do và hạnh phúc. Đặc biệt, vào năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thành công. Đối với nước Nga, đó là cuộc cách mạng vô sản, nhưng đối với các dân tộc thuộc địa trong đế quốc Nga thì đó còn là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, là con đường mà các dân tộc thuộc địa mong chờ, bởi vì trước cách mạng "nước Nga là nhà tù của các dân tộc". Khi cuộc cách mạng Tháng Mười ở nước Nga thành công, các dân tộc thuộc địa của đế quốc Nga được giải phóng và được hưởng quyền dân tộc tự quyết của chính mình, hình thành nên các quốc gia độc lập và quyền liên hợp, dẫn đến sự ra đời của Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô Viết (1922). Cách mạng Tháng Mười là ngọn đèn, là kim chỉ nam đã nêu tấm gương sáng về sự giải phóng dân tộc bị áp bức đã mở ra một thời kỳ mới, một con đường mới, là con đường cách mạng vô sản, chống đế quốc, mở ra thời kỳ giải phóng dân tộc, giành lại tự do cho bản thân mình. Cách mạng tháng Mười Nga làm cho phong trào cách mạng vô sản ở các nước tư bản chủ nghĩa ở phương Tây và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa phương Đông có quan hệ chặt chẽ với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung của dân tộc mình, đó là chủ nghĩa đế quốc. Tháng 3-1919, Quốc tế Cộng sản được thành lập. Tại Đại hội II của Quốc tế Cộng sản (1920), “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I. Lénin được công bố. Luận cương vô cùng nổi tiếng này đã chỉ ra phương hướng đúng đắn trong việc đấu tranh giải phóng các dân tộc bị áp bức. Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga và sự ra đời của Quốc tế Cộng sản đã ảnh hưởng to lớn đến phong trào cộng sản, phong trào giải phóng dân tộc cũng như hệ thống Xã hội chủ nghĩa trên toàn thế giới, đã động viên nhân dân các quốc gia thuộc địa đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc, Việt Nam cũng không ngoại lệ. 1.1.2. Tình hình Việt Nam Do nhu cầu thị trường và thuộc địa, từ giữa thế kỉ XIX các nước phương Tây đẩy mạnh xâm lược thuộc địa. Trong khi đó, Việt Nam có vị trí địa lý quan trọng, giàu tài nguyên thiên nhiên, chế độ phong kiến lúc bấy giờ đang rơi vào tình 9
  16. trạng khủng hoảng suy yếu. Lấy cớ bảo vệ đạo Gia Tô, chiều 31/8/1858 liên quân Pháp - Tây Ban Nha dàn trận trước cửa biển Đà Nẵng. Ngày 1/9/1858, quân Pháp nổ súng mở đầu cuộc xâm lược. Sau khi ép triều đình nhà Nguyễn đầu hàng và đàn áp các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta trong biển máu, hoàn thành quá trình xâm lược thuộc địa, Pháp thiết lập bộ máy thống trị thực dân và tiến hành những cuộc khai thác nhằm cướp đoạt tài nguyên, bóc lột nhân công rẻ mạt và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa. Đến năm 1897, thực dân Pháp tiến hành chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất và sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918), chúng tiến hành chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai ở Đông Dương với số vốn đầu tư trên quy mô lớn, tốc độ nhanh. Do sự du nhập của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tình hình kinh tế Việt Nam có sự biến đổi: quan hệ kinh tế nông thôn bị phá vỡ, hình thành nên những đô thị mới, những trung tâm kinh tế và tụ điểm cư dân mới. Nhưng thực dân Pháp không du nhập một cách hoàn chỉnh phương thức tư bản chủ nghĩa vào nước ta, thay vào đó, vẫn duy trì quan hệ kinh tế phong kiến. Chúng kết hợp hai phương thức bóc lột tư bản và phong kiến để thu lợi nhuận siêu ngạch. Chính vì thế, Việt Nam không thể phát triển lên chủ nghĩa tư bản một cách bình thường được, nền kinh tế Việt Nam bị kìm hãm trong vòng lạc hậu và phụ thuộc nặng nề vào kinh tế Pháp. Về chính trị, chúng tiếp tục thi hành chính sách chuyên chế với bộ máy đàn áp nặng nề. Mọi quyền hành đều thâu tóm trong tay các viên quan cai trị người Pháp, từ toàn quyền Đông Dương, thống đốc Nam Kỳ, khâm sứ Trung Kỳ, thống sứ Bắc Kỳ, công sứ các tỉnh, đến các bộ máy quân đội, cảnh sát, toà án...; biến vua quan Nam triều thành bù nhìn, tay sai. Chúng bóp nghẹt tự do, dân chủ, thẳng tay đàn áp, khủng bố, dìm các cuộc đấu tranh của dân ta trong biển máu. Chúng tiếp tục thi hành chính sách chia để trị rất thâm độc, chia nước ta làm ba kỳ, mỗi kỳ đặt một chế độ cai trị riêng và nhập ba kỳ với Lào và Campuchia để lập ra liên bang Đông Dương thuộc Pháp, xóa tên nước ta trên bản đồ thế giới. Chúng gây chia rẽ và thù hận giữa Bắc, Trung, Nam, giữa các tôn giáo, các dân tộc, các địa phương, 10
  17. thậm chí là giữa các dòng họ; giữa dân tộc Việt Nam với các dân tộc trên bán đảo Đông Dương. Về văn hóa, chúng thi hành triệt để chính sách văn hóa nô dịch, gây tâm lý tự ti, vong bản, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan, đồi phong bại tục. Mọi hoạt động yêu nước của nhân dân ta đều bị cấm đoán. Chúng tìm mọi cách bưng bít và ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam và thi hành chính sách ngu dân để dễ bề thống trị. Các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ảnh hưởng mạnh mẽ đến tình hình xã hội Việt Nam. Sự phân hoá giai cấp diễn ra ngày càng sâu sắc hơn. Giai cấp địa chủ phong kiến đã tồn tại hơn ngàn năm. Chủ nghĩa tư bản thực dân được đưa vào Việt Nam và trở thành yếu tố bao trùm, song vẫn không xóa bỏ mà vẫn bảo tồn và duy trì giai cấp địa chủ để làm cơ sở cho chế độ thuộc địa. Tuy nhiên, do chính sách kinh tế và chính trị phản động của thực dân Pháp, giai cấp địa chủ bị phân hóa thành ba bộ phận khá rõ rệt: tiểu, trung và đại địa chủ. Có một số địa chủ bị phá sản. Vốn sinh ra và lớn lên trong một quốc gia dân tộc có truyền thống yêu nước chống ngoại xâm, bị chính sách thống trị tàn bạo về chính trị, chèn ép về kinh tế, nên một bộ phận không nhỏ tiểu và trung địa chủ không chịu nỗi nhục mất nước, có mâu thuẫn với đế quốc về quyền lợi dân tộc nên đã tham gia đấu tranh chống thực dân và bọn phản động tay sai. Giai cấp nông dân chiếm khoảng 90% dân số. Họ bị đế quốc, phong kiến địa chủ và tư sản áp bức, bóc lột rất nặng nề. Ruộng đất của nông dân đã bị tư bản thực dân chiếm đoạt. Chính sách độc quyền kinh tế, mua rẻ bán đắt, tô cao, thuế nặng, chế độ cho vay nặng lãi... của đế quốc và phong kiến đã đẩy nông dân vào con đường bần cùng hóa không lối thoát. Một số ít bán sức lao động, làm thuê trong các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền hoặc bị bắt đi làm phu tại các thuộc địa khác của đế quốc Pháp. Còn số đông vẫn phải gắn vào đồng ruộng và gánh chịu sự bóc lột vô cùng nặng nề ngay trên mảnh đất mà trước đây là sở hữu của chính họ. Vì bị mất nước và mất ruộng đất nên nông dân có mâu thuẫn với đế quốc và phong kiến, đặc biệt sâu sắc nhất với đế quốc và bọn tay sai phản động. Họ vừa có yêu cầu độc lập dân tộc, lại vừa có yêu cầu ruộng đất, song yêu cầu về độc lập 11
  18. dân tộc là bức thiết nhất. Giai cấp nông dân có truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất là lực lượng to lớn nhất, một động lực cách mạng mạnh mẽ. Giai cấp nông dân khi được tổ chức lại và có sự lãnh đạo của một đội tiên phong cách mạng, sẽ phát huy vai trò cực kỳ quan trọng của mình trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc Việt Nam. Giai cấp tư sản hình thành trong quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, tư sản Việt Nam mới chỉ là một tầng lớp nhỏ bé. Sau chiến tranh, tư sản Việt Nam đã hình thành giai cấp rõ rệt. Ra đời trong điều kiện bị tư bản Pháp chèn ép, cạnh tranh rất gay gắt, nên số lượng tư sản Việt Nam không nhiều, thế lực kinh tế nhỏ bé, thế lực chính trị yếu đuối. Trong quá trình phát triển, giai cấp tư sản Việt Nam phân thành hai bộ phận: Tư sản mại bản là những tư sản lớn, hợp tác kinh doanh với đế quốc, bao thầu những công trình xây dựng của chúng ở nước ta. Nhiều tư sản mại bản có đồn điền lớn hoặc có nhiều ruộng đất cho phát canh, thu tô. Vì có quyền lợi kinh tế và chính trị gắn liền với đế quốc thực dân, nên tư sản mại bản là tầng lớp đối lập với dân tộc. Tư sản dân tộc là bộ phận đông nhất trong giai cấp tư sản, bao gồm những tư sản loại vừa và nhỏ, thường hoạt động trong các ngành thương nghiệp, công nghiệp và cả tiểu thủ công nghiệp. Họ muốn phát triển chủ nghĩa tư bản của dân tộc Việt Nam, nhưng do chính sách độc quyền và chèn ép của tư bản Pháp nên không thể phát triển được. Xét về mặt quan hệ với đế quốc Pháp, tư sản dân tộc phải chịu số phận mất nước, có mâu thuẫn về quyền lợi với bọn đế quốc thực dân và phong kiến, nên họ có tinh thần chống đế quốc và phong kiến. Giai cấp tư sản dân tộc là một lực lượng cách mạng không thể thiếu trong phong trào cách mạng giải phóng dân tộc. Tầng lớp tiểu tư sản bao gồm nhiều bộ phận khác nhau: tiểu thương, tiểu chủ, thợ thủ công, viên chức, trí thức, học sinh, sinh viên và những người làm nghề tự do. Giữa những bộ phận đó có sự khác nhau về kinh tế và cách sinh hoạt, nhưng nhìn chung, địa vị kinh tế của họ rất bấp bênh, luôn luôn bị đe dọa phá sản, thất nghiệp. Họ có tinh thần yêu nước nồng nàn, lại bị đế quốc và phong kiến áp bức, 12
  19. bóc lột và khinh rẻ nên rất hăng hái tham gia cách mạng. Đặc biệt là tầng lớp trí thức, họ là tầng lớp rất nhạy cảm với thời cuộc, dễ tiếp xúc với những tư tưởng tiến bộ và canh tân đất nước, tha thiết bảo vệ những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc. Khi phong trào quần chúng công nông đã thức tỉnh, họ bước vào trận chiến đấu giải phóng dân tộc ngày một đông đảo và đóng một vai trò quan trọng trong phong trào đấu tranh của quần chúng, nhất là ở đô thị. Tầng lớp tiểu tư sản là một lực lượng cách mạng quan trọng trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc. Giai cấp công nhân là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của Pháp và nằm trong những mạch máu kinh tế quan trọng do chúng nắm giữ. Lớp công nhân đầu tiên xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xây dựng một số cơ sở công nghiệp và thành phố phục vụ cho việc xâm lược và bình định của chúng ở nước ta. Trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của đế quốc Pháp, giai cấp công nhân đã hình thành. Đến cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, giai cấp công nhân đã phát triển nhanh chóng về số lượng, từ 10 vạn (năm 1914) tăng lên hơn 22 vạn (năm 1929), trong đó có hơn 53.000 công nhân mỏ (60% là công nhân mỏ than) và 81.200 công nhân đồn điền. Giai cấp công nhân Việt Nam tuy còn non trẻ, số lượng chỉ chiếm khoảng 1% số dân, trình độ học vấn, kỹ thuật thấp, nhưng sống khá tập trung tại các thành phố, các trung tâm công nghiệp và các đồn điền. Giai cấp công nhân Việt Nam có những đặc điểm chung của giai cấp công nhân quốc tế, đồng thời còn có những điểm riêng như: chịu ba tầng lớp áp bức bóc lột (đế quốc, phong kiến và tư sản bản xứ); phần lớn vừa mới từ nông dân bị bần cùng hóa mà ra, nên có mối quan hệ gần gũi nhiều mặt với nông dân. Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, nên nội bộ thuần nhất, không bị phân tán về lực lượng và sức mạnh. Sinh ra và lớn lên ở một đất nước có nhiều truyền thống văn hóa tốt đẹp, nhất là truyền thống yêu nước chống ngoại xâm, sớm tiếp thu được tinh hoa văn hóa tiên tiến trong trào lưu tư tưởng của thời đại cách mạng vô sản để bồi dưỡng bản chất cách mạng của mình. 13
  20. Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội tiên tiến, đại diện cho phương thức sản xuất mới, tiến bộ, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, có tinh thần cách mạng triệt để, lại mang bản chất quốc tế. Họ là động lực cách mạng mạnh mẽ và khi liên minh được với giai cấp nông dân và tiểu tư sản sẽ trở thành cơ sở vững chắc cho khối đại đoàn kết dân tộc trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do. Khi được tổ chức lại và hình thành được một đảng tiên phong cách mạng được vũ trang bằng một học thuyết cách mạng triệt để là chủ nghĩa Mác - Lênin thì giai cấp công nhân trở thành người lãnh đạo cuộc đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc. Tóm lại, chính sách thống trị của thực dân Pháp đối với Việt Nam nói riêng và cả Đông Dương nói chung là một chính sách thống trị chuyên chế về chính trị, bóc lột nặng nề về kinh tế nhằm đem lại lợi nhuận tối đa về kinh tế, kìm hãm và nô dịch về văn hóa, giáo dục, chứ không phải đem đến cho nhân dân một sự "khai hoá văn minh" - một sự khai hoá và cải tạo thực sự theo kiểu phương Tây. Bản chất của "sứ mạng khai hoá" đó chính là sự khai thác thuộc địa tận diệt diễn ra dưới lưỡi lê, họng súng, máy chém, v.v.. Việt Nam đã có những biến chuyển sâu sắc về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Việt Nam từ một xã hội phong kiến thuần tuý đã biến thành một xã hội thuộc địa. Mặc dù thực dân còn duy trì một phần tính chất phong kiến, song khi đã thành thuộc địa thì tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và giai cấp ở Việt Nam đều bị đặt trong quỹ đạo chuyển động của xã hội đó. Trong lòng chế độ thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam đã hình thành những mâu thuẫn đan xen nhau, song mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai phản động. Sự thống trị, áp bức và bóc lột càng tăng thì mâu thuẫn đó càng sâu sắc, sự phản kháng và đấu tranh vì sự tồn vong của dân tộc càng phát triển mạnh mẽ, gay gắt về tính chất, đa dạng về nội dung và hình thức. Trái lại, sự xung đột, đấu tranh về quyền lợi riêng của mỗi giai cấp trong nội bộ dân tộc được giảm thiểu và không quyết liệt như cuộc đấu tranh dân tộc. 1.2. Chế độ cai trị của Pháp và chuyển biến kinh tế - xã hội ở Nam Kỳ 1.2.1. Chế độ cai trị 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2