intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa

Chia sẻ: ViJensoo ViJensoo | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:98

32
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn trình bày các nội dung về cơ sở lý luận và pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân; Thực trạng pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân và thực tiễn thi hành ở tỉnh Thanh Hóa; Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG MẠNH CHUNG PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH THANH HÓA Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số : 8 38 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN QUÂN HÀ NỘI, năm 2021 1
  2. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền (NNPQ) xã hội chủ nghĩa (XHCN), là một trong những cơ quan trong hệ thống cơ quan nhà nước, trách nhiệm của ngành kiểm sát, người cán bộ kiểm sát là hết sức quan trọng, trong đó có đội ngũ Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân (VKSND), "Người cán bộ Kiểm sát viên phải thấy hết trách nhiệm cao cả và nặng nề của mình, luôn luôn tôn trọng sự thật, phân rõ đúng sai, hết sức giữ thái độ khách quan, thận trọng, công minh, chính trực" (Lê Duẩn). Ngay từ khi giành độc lập, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà đã coi trọng đến công tác cán bộ và những vấn đề pháp lý về công tác cán bộ. Trong đó có lực lượng cán bộ tư pháp các cấp. Ngày 26/7/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh công bố Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân. Đây là cơ sở pháp lý đầu tiên xác lập sự ra đời của VKSND và cũng đánh dấu sự hình thành chức danh Kiểm sát viên VKSND, là chức danh pháp lý quan trọng trong hệ thống cơ quan Viện kiểm sát, trực tiếp thực hiện nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố. Với cơ quan Viện kiểm sát, Kiểm sát viên là lực lượng quan trọng, được bổ nhiệm để trực tiếp thực hiện nhiệm vụ của ngành; trong bộ máy nhà nước, Kiểm sát viên là một chức danh tư pháp, một bộ phận của lực lượng cán bộ, công chức, có nhiệm vụ thực hiện chức năng của Viện kiểm sát, góp phần bảo vệ pháp chế, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo sự thực thi pháp luật nghiêm minh, công bằng, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của công dân. Với những đặc thù về địa lý, lịch sử, kinh tế, xã hội, tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật, VKSND tỉnh Thanh Hóa nói riêng và Kiểm sát viên hai cấp VKSND tỉnh Thanh Hóa đang có những thuận lợi và cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Thanh Hóa nằm khu vực 2
  3. Bắc Trung Bộ, là một trong những tỉnh lớn, diện tích đứng thứ 5 của cả nước, với 11.129,48 km2, dân số đứng thứ 3 cả nước với 3,65 triệu dân, chỉ sau Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Thanh Hóa hiện là tỉnh có nhiều đơn vị hành chính cấp huyện nhất Việt Nam, với tổng số thành phố, thị xã, huyện là 27 đơn vị hành chính. Là tỉnh có vị trí địa lý chiến lược quan trọng, phía Bắc giáp Sơn La, Hòa Bình và Ninh Bình với đường ranh giới dài 175 km; phía Nam và Tây Nam nằm liền kề Nghệ An với đường ranh giới hơn 160 km; phía Tây nối liền sông núi với tỉnh Hủa Phăn của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào với đường biên giới dài 192 km; phía Đông mở ra phần giữa của Vịnh Bắc Bộ thuộc biển Đông với đường bờ biển dài trên 102 km. Địa hình Thanh Hoá khá phức tạp, chia cắt nhiều và thấp dần theo hướng Tây - Đông. Từ phía Tây sang phía Đông có các dải địa hình núi, trung du, đồng bằng và ven biển.Thanh Hóa nằm ở vị trí trung chuyển giữa các tỉnh phía Bắc và phía Nam nước ta, với nhiều tuyến đường giao thông đi qua, đã tạo cho Thanh Hóa cơ hội giao lưu kinh tế - xã hội, xây dựng và phát triển kinh tế biển, kinh tế đối ngoại và mở rộng hợp tác quốc tế. Trong những năm qua, tình hình tội phạm, vi phạm pháp luật và các loại tranh chấp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa có nhiều diễn biến phức tạp, gia tăng về số lượng và phức tạp về tính chất, tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp. Với chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, VKSND tỉnh Thanh Hóa đã góp phần vào công cuộc xây dựng và phát triển tỉnh Thanh Hóa trở thành một cực tăng trưởng ở khu vực phía Bắc. Góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, phát hiện và xử lý nghiêm minh tội phạm và vi phạm pháp luật, giữ vững ổn định chính trị trên địa bàn. Để ngành Kiểm sát nhân dân thực hiện được nhiệm vụ và sứ mệnh chính trị to lớn mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, con người luôn là yếu tố quan trọng, quyết định. VKSND tỉnh Thanh Hóa không thể hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị, nếu thiếu nhân tố có ý nghĩa quyết định đó là đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên 3
  4. hai cấp. Vì vậy, xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên hai cấp có đủ phẩm chất và năng lực, kỹ năng nghề và thái độ tận tâm với công việc là nhiệm vụ có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Để xây dựng được đội ngũ Kiểm sát viên đáp ứng yêu cầu thì phải có một hệ thống pháp luật đồng bộ, khoa học, hiệu quả... Tuy nhiên, pháp luật về Kiểm sát viên hiện nay đã bộc lộ những yếu kém, bất cập như: thiếu tính đồng bộ, tính thống nhất giữa các văn bản pháp luật về Kiểm sát viên; số lượng định biên và cơ cấu chức danh Kiểm sát viên còn gò bó, cứng nhắc, có nơi thiếu, nơi thừa, chưa phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể của từng đơn vị; tiêu chuẩn bổ nhiệm Kiểm sát viên còn nhiều mâu thuẫn, chưa phù hợp với đòi hỏi thực tiễn; công tác đào tạo, bồi dưỡng Kiểm sát viên chậm được đổi mới, nặng về lý thuyết, chưa đa dạng hình thức đào tạo gắn với nhiệm vụ công tác thực tế. Đặc biệt chưa quan tâm đào tạo kỹ năng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa; tiền lương, phụ cấp và các đãi ngộ khác đối với Kiểm sát viên chưa được quan tâm đúng mức, còn nhiều điểm chưa hợp lý; một số chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng về Kiểm sát viên chưa được thể chế hóa thành pháp luật; chính sách thu hút và trọng dụng tài năng chưa được quan tâm; nhiều vấn đề mới phát sinh trong quản lý và xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên chưa được pháp luật điều chỉnh, bổ sung kịp thời, các quy định về Kiểm sát viên còn rời rạc trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau nên thiếu tính thống nhất, thiếu cơ chế bảo đảm thực hiện quyền năng pháp lý của Kiểm sát viên, đặc biệt là thực hiện chức năng thực hành quyền công tố... Những thiếu sót, bất cập nêu trên là một trong những nguyên nhân không nhỏ dẫn đến chất lượng, kỹ năng và tính tận tâm, nhiệt huyết của đội ngũ Kiểm sát viên nói chung và Kiểm sát viên hai cấp tỉnh Thanh Hóa chưa cao. Đặc biệt là hạn chế về kỹ năng nghề như kỹ năng hỏi cung, lấy lời khai, kỹ năng tranh tụng, đối đáp, tác phong khi tranh tụng tại phiên tòa. Một bộ phận không nhỏ Kiểm sát viên chưa toàn tâm, toàn ý với nghề, có biểu hiện tham nhũng, tiêu cực, phiền hà, sách nhiễu khi thực hiện nhiệm vụ; quyền năng 4
  5. pháp lý của Kiểm sát viên và VKSND chưa được thực hiện hiệu quả trên thực tiễn. Để tạo được một hệ thống văn bản pháp luật về Kiểm sát viên VKSND đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới, cần xây dựng hệ thống pháp luật về Kiểm sát viên đồng bộ, có hệ thống, đảm bảo chất lượng, có mục đích pháp lý, nguyên tắc và định hướng rõ ràng. Trước yêu cầu trên, đã đặt ra nhiều vấn đề lý luận, pháp lý cần phải được giải đáp triệt để, có căn cứ khoa học và phù hợp với thực tiễn. Vì vậy, việc chọn và nghiên cứu đề tài: “Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa” là yêu cầu khách quan và tất yếu, cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND đã có nhiều tác giả nghiên cứu. Tuy nhiên, vấn đề pháp luật về Kiểm sát viên thuộc chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính là vấn đề còn khá mới, chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu. Tìm hiểu tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, cho thấy, nội dung này các nhà khoa học tiếp cận theo nhiều cách, với những cấp độ khác nhau, có thể kể đến một số công trình nghiên cứu như: - Tô Tử Hạ (2016), Công chức và vấn đề xây dựng đội ngũ công chức hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; - Thang Văn Phúc và Nguyễn Minh Phương (2018), Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; - TS. Nguyễn Minh Tuấn (2017), Tiếp tục đổi mới đồng bộ công tác cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb. Chính trị quốc gia - sự thật; - Lê Hữu Thể (chủ biên) (2018), Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội; - Lê Tài Triển (1971), Nhiệm vụ của Công tố viên, Nxb Sài Gòn; 5
  6. - Luận án tiến sĩ luật học, chuyên ngành Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, tác giả Lê Tuấn Phong (2017), “Hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp”; - Luận án tiến sĩ Luật học, chuyên ngành Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự - Đại học Luật Hà Nội, tác giả Đàm Quang Ngọc (2020), “Chức năng công tố trong tố tụng Hình sự Việt Nam và Đức”; - Lê Thị Tuyết Hoa (2001), “Bàn về công tố”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật; - Đỗ Văn Đương (2019), "Cơ quan thực hành quyền công tố trong cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp; - Nguyễn Thị Thu Hà (2018), “Tranh tụng trong tố tụng dân sự - một số vấn đề lý luận cơ bản”, đăng trên trên Cổng thông tin điện tử Chính phủ; - Nguyễn Thị Thu Hà (2019), Về quyền kháng nghị phúc thẩm của VKS nhân dân, Tạp chí Luật học tháng 11/2019; - Phạm Hồng Hải (2019), "Đổi mới mô hình tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan thực hiện chức năng thực hành quyền công tố đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp", Tạp chí Nhà nước và pháp luật… Tuy vậy, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, chuyên biệt về pháp luật Kiểm sát viên VKSND từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa. Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu một cách toàn diện cả về lý luận và thực tiễn về: “Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa” dưới góc độ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính. Với kết quả nghiên cứu của luận văn, chúng tôi hy vọng sẽ làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu, góp phần khắc phục tình trạng nêu trên. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở các quy định của pháp luật về Kiểm 6
  7. sát viên VKSND, từ thực tiễn VKSND tỉnh Thanh Hóa, tôi đặt ra cho mình mục đích nhận thức toàn diện về cơ sở lý luận và thực trạng pháp luật về Kiểm sát viên VKSND từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa và làm rõ những kết quả đã đạt được, hạn chế, vướng mắc, nguyên nhân của hạn chế, vướng mắc làm cơ sở cho việc đề xuất những giải pháp, kiến nghị cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thời gian tới. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích nêu trên, trong luận văn tôi tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau đây: - Luận văn phân tích cơ sở lý luận và pháp luật về Kiểm sát viên VKSND như xây dựng khái niệm, nêu lên đặc điểm, nội dung, vai trò và các yếu tố bảo đảm thực hiện hiện pháp luật Kiểm sát viên VKSND. - Nghiên cứu thực trạng pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa (giai đoạn từ 2015 đến nay), để có những đánh giá khách quan về những kết quả đạt được, hạn chế, vướng mắc, nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc. - Từ những phân tích hình thành cơ sở lý luận và nghiên cứu thực trạng, luận văn hình thành các quan điểm, đề xuất các giải pháp, kiến nghị cơ bản, có tính hệ thống và bảo đảm cơ sở khoa học nhằm hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quy định pháp luật hiện hành của pháp luật về Kiểm sát viên VKSND. Phạm vi nghiên cứu của luận văn được xác định là pháp luật về Kiểm sát viên VKSND ở Việt Nam, được đánh giá thông qua thực tiễn thực hiện trên địa bàn VKSND tỉnh Thanh Hóa, thời gian từ năm 2015 đến nay, dưới góc độ tiếp cận của khoa học Luật Hiến pháp và Luật Hành chính. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn Phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên học thuyết Mác - 7
  8. Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Luật Hiến pháp - Luật Hành chính, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chiến lược xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, về đổi mới công tác cán bộ và cải cách tư pháp. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng một số phương pháp tiếp cận đa ngành và liên ngành luật học, sử dụng hợp lý, có hiệu quả từng phương pháp nghiên cứu cụ thể, trong đó luận văn chú trọng các phương pháp như: phân tích, tổng hợp, thống kê, lịch sử, so sánh pháp luật. Đồng thời còn sử dụng các phương pháp khác như: phương pháp nghiên cứu văn bản, các công trình nghiên cứu có liên quan, phương pháp tổng kết kinh nghiệm thực tiễn,... để chọn lọc tri thức khoa học và kinh nghiệm ở trong và ngoài nước. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Đây là công trình khoa học nghiên cứu có hệ thống chuyên sâu và đầy đủ trên một địa bàn cụ thể về pháp luật Kiểm sát viên VKSND từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa trên cả phương diện lý luận, pháp lý và thực tiễn. Ở một mức độ nhất định, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo đối với các các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cũng như những ai quan tâm nhận thức đầy đủ về pháp luật Kiểm sát viên VKSND. Các kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là những bổ sung quan trọng vào hệ thống lý luận về Luật Hiến pháp và Luật Hành chính, góp phần làm sáng tỏ những quan điểm của Đảng, Nhà nước về chiến lược xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về cán bộ, công chức; về đổi mới công tác cán bộ và cải cách tư pháp. Bên cạnh đó, các kết quả nghiên cứu này còn góp phần nâng cao nhận thức về vai trò, giá trị của pháp luật Kiểm sát viên VKSND. Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập tại các cơ sở đào tạo chuyên ngành pháp luật, tư pháp và các khóa bồi dưỡng cán bộ, công chức ngành Kiểm sát nhân dân. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung 8
  9. của luận văn gồm 03 chương sau: Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân Chương 2: Thực trạng pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân và thực tiễn thi hành ở tỉnh Thanh Hóa Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân 9
  10. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN 1.1. Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân 1.1.1. Khái niệm Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân Kiểm sát viên VKSND trước hết là cán bộ, công chức nhà nước. Vì vậy, để xây dựng khái niệm về Kiểm sát viên VKSND, trước hết cần phải làm rõ khái niệm cán bộ, công chức nhà nước. Theo các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành thì ở nước ta sử dụng đồng thời ba thuật ngữ cán bộ, công chức và viên chức. Cán bộ, được hiểu theo nghĩa thông thường nhất là những người được nhà nước tuyển dụng để làm việc trong bộ máy chính quyền các cấp, lực lượng vũ trang (mà không phải là sỹ quan, hạ sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng), các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế… Khoản 1 Điều 4 Luật Cán bộ công chức năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2019 quy định: “Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.” [37] Theo đó, cán bộ là những người đủ các tiêu chí chung của cán bộ theo quy định của pháp luật, công chức theo quy định của pháp luật và được tuyển vào làm việc trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội thông qua bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ chức danh theo nhiệm kỳ. 10
  11. Theo quy định của Hiến pháp thì những người làm việc trong các cơ quan, tổ chức nhà nước bao gồm cán bộ, công chức và viên chức. Điều 8, Hiến pháp năm 2013 quy định: "Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân…" [12]. Công chức, là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi hơn cán bộ, là thuật ngữ mang tính lịch sử và được sử dụng phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới. Nhưng mỗi quốc gia khái niệm công chức lại mang một màu sắc riêng, phản ánh đặc sắc riêng của tổ chức bộ máy nhà nước và nền công vụ ở mỗi quốc gia. Mỗi một giai đoạn lịch sử, mỗi nền công vụ và chế độ chính sách ở mỗi quốc gia, mỗi thời kỳ mà khái niệm công chức được hiểu theo nghĩa khác nhau. Khoản 2, Điều 4, Luật Cán bộ, Công chức năm 2008 sửa đổi bổ sung năm 2019 quy định: “Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh tương ứng với vị trí việc làm trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan phục vụ theo chế độ chuyên nghiệp, công nhân công an, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.” [37]. Là một bộ phận hợp thành của cán bộ, công chức, Kiểm sát viên VKSND là khái niệm được quy định trong Pháp lệnh Kiểm sát viên năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2011), Luật tổ chức VKSND năm 2002 và đến nay là Luật tổ chức VKSND năm 2014. Tại Điều 74 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy định: Kiểm sát viên là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các 11
  12. hoạt động tư pháp [38]. Đồng thời, căn cứ Nghị định số 06/2010/NĐ-CP ngày 25/01/2010 quy định những người là công chức thì xác định “Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh, trong biên chế, hưởng lương từ ngân sách nhà nước hoặc được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật, làm việc trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị quy định tại Nghị định này” [4]. Theo đó, công chức trong hệ thống VKSND là người làm việc trong hệ thống VKSND các cấp, nằm trong biên chế, hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Đối với VKSND tối cao, gồm: Các Phó Viện trưởng VKSND tối cao; kiểm sát viên, kiểm tra viên và người làm việc trong văn phòng, vụ, cục, ban và Viện nghiệp vụ thuộc VKSND tối cao. Đối với VKSND cấp cao, gồm: Viện trưởng, Phó Viện trưởng, kiểm sát viên, kiểm tra viên, người làm việc trong văn phòng, Viện nghiệp vụ thuộc VKSND cấp cao. Đối với VKSND cấp tỉnh, gồm: Viện trưởng, Phó Viện trưởng; kiểm sát viên, kiểm tra viên; người làm việc trong văn phòng, phòng thuộc VKSND cấp tỉnh. Đối với VKSND cấp huyện, gồm: Viện trưởng, Phó Viện trưởng; kiểm sát viên, kiểm tra viên và người làm việc trong VKSND cấp huyện. Qua phân tích các quy định trên đây, có thể khái quát: Kiểm sát viên VKSND là công dân Việt Nam, được tuyển dụng vào ngạch công chức của VKSND, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước, được bổ nhiệm vào vào ngạch Kiểm sát viên theo nhiệm kỳ để làm nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. 12
  13. 1.1.2. Đặc điểm Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân Viện kiểm sát nhân dân là một bộ phận trong bộ máy cơ quan nhà nước. Kiểm sát viên VKSND là những người được bổ nhiệm thực hiện nhiệm vụ của VKSND theo thẩm quyền được pháp luật quy định, phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước nhân dân và Viện trưởng VKSND. Kiểm sát viên là một bộ phận của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước. Do đó, hoạt động của Kiểm sát viên trước hết nhằm thực hiện nhiệm vụ chung của cán bộ, công chức nhà nước. Về vị trí: VKSND là cơ quan trong bộ máy nhà nước ta, Kiểm sát viên VKSND là một bộ phận của cán bộ, công chức nhà nước. Vấn đề này được quy định bởi nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xác lập trong Hiến pháp. Về chức năng, nhiệm vụ: Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Về tổ chức, quyền hạn: VKSND là một hệ thống cơ quan trong bộ máy nhà nước, gồm có bốn cấp: VKSND tối cao, VKSND cấp cao, VKSND cấp tỉnh, VKSND cấp huyện và Viện kiểm sát quân sự được phân cấp đảm nhiệm chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Luật Tổ chức VKSND. Ở mỗi cấp, VKSND được phân bổ số lượng Kiểm sát viên theo ngạch. Có Kiểm sát viên được bổ nhiệm chỉ thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp; một số Kiểm sát viên vừa được bổ nhiệm để thực hiện chức năng trên của Kiểm sát viên, vừa giữ chức danh quản lý theo nhiệm kỳ. Về hoạt động: VKSND thực hiện hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Thực hành quyền công tố là hoạt động của VKSND để thực hiện việc buộc tội của nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị 13
  14. khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự; kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của VKSND kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia các quan hệ pháp luật trong hoạt động tư pháp. Kiểm sát viên VKSND có các đặc điểm cụ thể sau: Kiểm sát viên là công chức ngành kiểm sát, là một chức danh pháp lý được bổ nhiệm để thực hiện nhiệm vụ của VKSND là thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Với đặc thù là người thực thi pháp luật và thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật trong hoạt động tư pháp, hoạt động của Kiểm sát viên nhằm bảo vệ Hiến pháp, bảo đảm pháp luật, đảm bảo pháp luật được thực thi một cách nghiêm chỉnh và thống nhất, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân. Kiểm sát viên VKSND phải đảm bảo tiêu chuẩn: Là công dân Việt Nam; về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, tận tụy phục vụ nhân dân; có tinh thần đấu tranh không khoan nhượng với mọi tội phạm và vi phạm pháp luật nhằm mục tiêu bảo vệ Hiến pháp, pháp luật, lẽ phải và công bằng xã hội; Kiểm sát viên VKSND phải không ngừng phấn đấu, học tập và làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cán bộ ngành Kiêm sát “Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn”; có ý thức tổ chức kỷ luật, chấp hành nguyên tắc tổ chức của VKSND. Với chức năng, nhiệm vụ được Hiến pháp và pháp luật quy định, Kiểm sát viên là những người trực tiếp thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND nên có điều kiện gần dân, thông qua thực hiện nhiệm vụ dễ làm dân tin, dân mến. Từ đó tuyên truyền, phổ biến và vận động nhân dân tuân thủ pháp luật, thực hiện đường lối, chính sách của Đảng. Cùng với sự phát triển của đất nước, Kiểm sát viên VKSND là lực lượng quan trọng, tiên phong góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Tuy nhiên, trên 14
  15. thực tế cơ chế để đảm bảo thực thi quyền của VKSND nói chung và Kiểm sát viên VKSND còn chưa đảm bảo, chế độ chính sách đối với Kiểm sát viên chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ. Nên, còn không ít Kiểm sát viên chưa toàn tâm, toàn ý với công việc, chưa tâm huyết với nhiệm vụ được giao. Ngoài phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, Kiểm sát viên VKSND phải bảo đảm tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Theo quy định tại Điều 75 Luật Tổ chức VKSND: Kiểm sát viên phải có trình độ cử nhân Luật trở lên, đã được đào tạo về nghiệm vụ kiểm sát. Xuất phát từ yêu cầu hiện nay, đòi hỏi mỗi Kiểm sát viên phải “Tinh thông về pháp luật”, nắm vững và áp dụng đúng các quy định của pháp luật Việt Nam, các Điều ước quốc tế, các quy chế nghiệp vụ của ngành. Nhất là các quy định pháp luật trong lĩnh vực công tác được giao để thực hiện chức năng hiệu quả. Đồng thời góp phần nâng cao tính đúng đắn của việc áp dụng pháp luật của các cơ quan tư pháp. Ngoài ra, Kiểm sát viên còn có các kỹ năng đặc thù như: kỹ năng hỏi; kỹ năng xử lý tình huống; kỹ năng phân loại và giải quyết vấn đề một cách quyết đoán; kỹ năng thu thập, phân tích thông tin và tổng hợp báo cáo; kỹ năng tranh tụng tại phiên tòa, thuyết phục, hùng biện trước đám đông. Các kỹ năng đó được hình thành và hoàn thiện từ thực tiễn công tác. Với tính chất và yêu cầu công việc được giao, Kiểm sát viên phải tham gia quan hệ pháp luật với nhiều chủ thể khác nhau: Bị can, bị cáo, các đương sự, Điều tra viên, Thẩm phán, Chấp hành viên… nên tính chủ động, phối hợp với các ban ngành, các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật là một trong những đòi hỏi để Kiểm sát viên hoàn thành tốt nhiệm vụ. Đồng thời hình thành nhiều kỹ năng nghề nghiệp đặc thù. Xuất pháp từ nguyên tắc tập trung thống nhất, lãnh đạo trong ngành 15
  16. Kiểm sát nhân dân, khi thực hiện nhiệm vụ, Kiểm sát viên tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp mình. Đồng thời chịu sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Viện trưởng VKSND tối cao về hành vi, quyết định của mình trong việc thực hành quyền công tố, tranh tụng tại phiên tòa và kiểm sát hoạt động tư pháp. Đây cũng là những đặc điểm khác biệt của Kiểm sát viên so với các đối tượng công chức nhà nước khác. Kiểm sát viên là công chức nhà nước, làm việc trong bộ máy nhà nước theo định biên, các chế độ làm việc, tuổi nghỉ hưu giống công chức nhà nước khác nhưng chức danh Kiểm sát viên là một chức danh pháp lý, được thi tuyển và bổ nhiệm theo nhiệm kỳ (trước đây mỗi nhiệm kỳ Kiểm sát viên là 05 năm, hiện nay tăng lên 10 năm trong trường hợp bổ nhiệm lại), nếu hết nhiệm kỳ không được bổ nhiệm lại thì không còn giữ chức danh Kiểm sát viên nữa. Về quyền lợi, vì là một chức danh pháp lý nên Kiểm sát viên được hưởng phụ cấp. Đồng thời, nghĩa vụ, trách nhiệm cao, phải chịu trách nhiệm pháp lý nặng nề nếu để xảy ra oan sai, thậm chí phải bồi thường hoặc phải truy cứu trách nhiệm hình sự. Kiểm sát viên phải làm việc với áp lực công việc lớn nhưng chế độ đãi ngộ chưa tương xứng, dẫn đến một bộ phận không nhỏ Kiểm sát viên không tâm huyết với nghề, không giành thời gian nâng cao năng lực chuyên môn, do đó chưa nắm vững các quy định pháp luật và các quy định có liên quan nên chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm. 1.1.3. Vị trí, vai trò của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân VKSND là một cơ quan trong bộ máy nhà nước, là một thiết chế Hiến định được quy định trong Hiến pháp và Luật tổ chức VKSND, có chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp, bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Hệ 16
  17. thống cơ quan VKSND gồm: VKSND tối cao, VKSND cấp cao, VKSND cấp tỉnh, VKSND cấp huyện và các Viện kiểm sát quân sự. VKSND tối cao là cơ quan cao nhất của VKSND, có nhiệm vụ của VKSND là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Ngoài ra còn có chức năng quản lý chung đối với VKSND các cấp; VKSND cấp cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp đối với các vụ án, vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp cao. VKSND cấp tỉnh và VKSND cấp huyện thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong phạm vi địa phương mình. Đối với các trường hợp theo quy định thì VKSND cấp trên thực hành quyền công tố đối với những vụ án thuộc thẩm quyền của VKSND cấp dưới. Các Viện kiểm sát quân sự thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong quân đội. 1.2. Pháp luật về kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân 1.2.1. Khái niệm pháp luật về kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân Kiểm sát viên là một bộ phận của cán bộ, công chức nhà nước. Vì vậy, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND vừa được quy định trong các văn bản pháp lý riêng đối với cán bộ, công chức của VKSND, vừa được quy định trong các văn bản về cán bộ, công chức nhà nước nói chung. Do đó, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau như Hiến pháp, các luật, bộ luật, pháp lệnh, các nghị định… Là lĩnh vực khoa học pháp lý rộng, mang tính liên ngành. Trong đó, Luật cán bộ, công chức và Luật tổ chức VKSND là hai văn bản chủ yếu, với ý nghĩa là những văn bản quy định chung. Hiến pháp là đạo luật khung, có hiệu lực pháp lý tối cao, là cơ sở để làm hình thành Luật tổ chức VKSND và pháp luật về Kiểm sát viên VKSND. Hiến pháp điều chỉnh các mối quan hệ cơ bản, quan trọng nhất 17
  18. trong một quốc gia, đặc biệt là các mối quan hệ liên quan tới cách thức tổ chức quyền lực nhà nước, cách thức vận hành của các cơ quan nhà nước, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của công chức trong bộ máy nhà nước. Các quy định nói chung và quy định về cán bộ, công chức nói riêng trong Hiến pháp là cơ sở định hướng cho việc xây dựng các quy phạm pháp luật về cán bộ, công chức nói chung và Kiểm sát viên VKSND nói riêng. Luật cán bộ, công chức là văn bản pháp luật quy định một cách tổng hợp mọi mặt liên quan đến cán bộ, công chức dưới góc độ đời sống công vụ, gồm: phạm vi, các quyền, nghĩa vụ công vụ; các quy tắc chung về tuyển dụng, sử dụng, quản lý, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật... của cán bộ, công chức nói chung và Kiểm sát viên VKSND là một trong số đó. Luật tổ chức VKSND năm 2014 là văn bản hợp nhất Luật tổ chức VKSND năm 2002 và Pháp lệnh Kiểm sát viên VKSND năm 2011, là văn bản trực tiếp, cơ bản và quan trọng nhất quy định về cơ cấu tổ chức của VKSND và Kiểm sát viên VKSND. Đối với những quy định về Kiểm sát viên VKSND, Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định các nội dung cụ thể của Kiểm sát viên như: tuyển dụng, bổ niệm, các ngạch Kiểm sát viên, chế độ sử dụng, quản lý, khen thưởng, kỷ luật, trách nhiệm bồi thường, bồi hoàn, trách nhiệm khi thực hiện nhiệm vụ của Kiểm sát viên VKSND… Tóm lại, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là một nhóm những văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh liên quan tới mọi mặt đời sống công vụ, chức năng, nhiệm vụ của Kiểm sát viên VKSND từ tiêu chuẩn bổ nhiệm, trách nhiệm, quản lý… và chế độ công vụ đối với họ. Những văn bản này do cơ quan nhà nước ở Trung ương ban hành. Phạm vi điều chỉnh của pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tuyển dụng, sử dụng, thực hiện nhiệm vụ và chế độ chính sách của đội ngũ Kiểm sát viên. 18
  19. Từ những phân tích trên đây, có thể rút ra khái niệm: Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là tổng thể các văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, chứa đựng các quy định liên quan đến Kiểm sát viên như: các nguyên tắc của chế độ công vụ, điều chỉnh các quan hệ về công vụ trong thiết lập các chức danh công chức của VKSND; các quyền, nghĩa vụ của Kiểm sát viên VKSND trong quá trình thực thi nhiệm vụ, công vụ; việc bổ nhiệm, tuyển dụng, sử dụng, quản lý, khen thưởng, kỷ luật và các vấn đề khác trong chính sách Kiểm sát viên VKSND. 1.2.2. Nội dung pháp luật về Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân Như đã nêu ở trên, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND được quy định ở nhiều văn bản khác nhau, là một vấn đề nghiên cứu rộng lớn. Nghiên cứu pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là nghiên cứu một cách tổng thể tất cả các quy định về Kiểm sát viên VKSND. Dưới góc độ Luật Hiến pháp - Luật Hành chính, dựa vào các quan hệ được điều chỉnh bởi pháp luật về Kiểm sát viên VKSND, trên cơ sở thực tiễn pháp luật, có thể xác định được nội dung của pháp luật về Kiểm sát viên VKSND gồm những vấn đề cơ bản sau: - Địa vị pháp lý của chức danh Kiểm sát viên, Kiểm sát viên có phải là cán bộ, công chức và có được điều chỉnh bởi Luật cán bộ, công chức không và nằm ở đâu trong nền công vụ nước ta. - Tiêu chuẩn Kiểm sát viên, thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Kiểm sát viên. - Nhiệm kỳ Kiểm sát viên, các ngạch Kiểm sát viên. - Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên. - Chế độ chính sách đối với Kiểm sát viên. Dựa trên những quy định của pháp luật hiện hành, có thể thấy, hiện nay có hai nhóm nội dung cơ bản của pháp luật về Kiểm sát viên là: Thứ nhất, nhóm các quy định về chế độ hoạt động của Kiểm sát viên, là những 19
  20. quy định chung nhất về Kiểm sát viên trong bộ máy Nhà nước, bao gồm các quy định về địa vị pháp lý, quyền hạn, trách nhiệm và nghĩa vụ pháp lý của Kiểm sát viên khi thực thi công vụ; thứ hai, nhóm các quy định về quản lý (hành chính), chế độ độ đãi ngộ, sử dụng đối với Kiểm sát viên như: tuyển chọn, bổ nhiệm, sử dụng, quản lý, đào tạo, chế độ đãi ngộ, luân chuyển, điều động, khen thưởng, kỷ luật, miễn nhiệm, cách chức, trách nhiệm khi thực thi công vụ. Luận văn chủ yếu tập trung vào một số nội dung về: nhiệm vụ, quyền hạn, tiêu chuẩn, thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhhiệm, cách chức Kiểm sát viên; mối quan hệ công vụ với các cơ quan, các thủ thể tham gia tố tụng có liên quan như: Điều tra viên, Thẩm phán, Chấp hành viên và mối quan hệ công vụ của Kiểm sát viên với Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND trong quá trình thực thi công vụ. 1.2.3. Vai trò của pháp luật về kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là một bộ phận của pháp luật nói chung. Vai trò của pháp luật trong quản lý xã hội và vận hành bộ máy nhà nước là vấn đề được tất cả các quốc gia ghi nhận. Ở nước ta, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ ràng nhất ở mục tiêu của Đảng là xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thượng tôn pháp luật, nhà nước của dân, do dân, vì dân; quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Muốn xây dựng nhà nước pháp quyền, đòi hỏi pháp luật phải là công cụ hữu hiệu của nhà nước, để pháp luật phát huy được vai trò của mình, trước hết phải xây dựng được một hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn thiện, trong đó có pháp luật về Kiểm sát viên VKSND. Do đó, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là một trong những phương tiện có vai trò quan trọng để xây dựng NNPQ XHCN. Đồng thời là bức tranh phản ánh tính đúng đắn của đường lối, chính 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2