intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:86

12
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ về mặt lý luận đối với việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội; đánh giá thực tiễn áp dụng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật, bảo đảm áp dụng đúng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm từ thực tiễn Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN MINH THẢO ÁP DỤNG HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hà Nội, năm 2019
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN MINH THẢO ÁP DỤNG HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRỊNH TIẾN VIỆT Hà Nội, năm 2019
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn “Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương” là công trình nghiên cứu khoa học do bản thân tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Trịnh Tiến Việt. Các nội dung nghiên cứu và kết quả trong luận văn này là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu nào trước đây. Trong quá trình nghiên cứu, luận văn có kế thừa các quan điểm, ý kiến khoa học của những nhà nghiên cứu đã từng thực hiện về vấn đề tư pháp người chưa thành niên (người dưới 18 tuổi) và những thông tin này khi được sử dụng đến đều được thể hiện một cách trung thực, có trích dẫn nguồn đầy đủ trong luận văn. Học viên Trần Minh Thảo
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI ............................6 1.1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung và ý nghĩa của áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ....................................................................................6 1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ............................................................................17 1.3. Các yếu tố tác động đến áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ...........................................................................................................................35 Chương 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG ........40 2.1. Khái quát tình hình áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương .........................................................................40 2.2. Thực trạng áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương .....................................................................................44 2.3. Kết quả áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, những vướng mắc, bất cập và nguyên nhân .................................................................................58 Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG ........................................................................................................67 3.1. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ..................................................................................67 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn Tòa án nhân tỉnh Bình Dương. ............................................69 KẾT LUẬN ..............................................................................................................75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật Hình sự.
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm gần đây, tình hình người dưới 18 tuổi phạm tội ngày càng tăng không chỉ về mặt số lượng mà tính chất các vụ án cũng ngày càng nghiêm trọng hơn. Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội là một việc khá phức tạp bởi người dưới 18 tuổi khả năng nhận thức pháp luật còn hạn chế, hành vi của họ thường mang tính bộc phát do bị lôi kéo hoặc bị kích động, họ chưa đủ khả năng làm chủ hành động của mình. Hơn nữa, họ còn một tương lai dài phía trước. Do đó, không thể áp dụng các biện pháp xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội giống với những người đã thành niên. Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS năm 2015) đã có những quy định xử lý riêng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Những quy định này thể hiện chính sách pháp luật hình sự của Việt Nam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội với mục đích chính là “cải tạo và giáo dục”. Tuy nhiên, tình hình người dưới 18 tuổi phạm tội không có dấu hiệu giảm đi mà ngày càng tăng về số lượng cũng như mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội. Phạm luật hình sự với chế tài hình phạt là công cụ sắc bén, hữu hiệu trong công cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, duy trì trật tự, an toàn xã hội, giáo dục ý thức chấp hành và tuân theo pháp luật cho các chủ thể trong xã hội. Bên cạnh đó, chính sách hình sự thể hiện rõ bản chất nhân đạo và dân chủ của Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Các quy định của hình phạt mang tính chất răn đe cũng mang tính giáo dục, cải tạo, khoan hồng. Chế định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội đã thể hiện rõ điều này khi các quy định được xây dựng trên cơ sở những đặc thù tâm sinh lý và sự phát triển về nhận thức của chủ thể là người dưới 18 tuổi phạm tội. BLHS năm 2015 là bước phát triển mới so với các quy định của pháp luật hình sự trước đây về trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong đó cụ thể hóa các hình phạt và áp dụng triệt để nguyên tắc nhân đạo của pháp luật hình 1
  7. sự phù hợp với đặc thù của chủ thể phạm tội này. Đặc biệt, khái niệm người dưới 18 tuổi phạm tội là khái niệm mới thay thế cho khái niệm người chưa thành niên phạm tội trước đây. Do đó, rất cần được nghiên cứu về khái niệm cũng như các quy định của BLHS năm 2015 về áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội để có cách hiểu, áp dụng thống nhất và đồng bộ quy định nhằm đảm bảo tính nghiêm minh, công bằng của pháp luật. Về mặt thực tiễn, BLHS năm 2015 có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2018 nên việc tổng kết, đánh giá từ thực tiễn để có những giải pháp phù hợp, góp phần hiệu quả hơn trong việc thực hiện, áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong BLHS năm 2015 nói chung và cụ thể là Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương là cần thiết. Hiện tại, chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu về nội dung này. Do đó, học viên chọn đề tài: “Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương” để nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật hình sự và Tố tụng hình sự. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Liên quan đến vấn đề người chưa thành niên (nay là người dưới 18 tuổi) phạm tội, qua quá trình nghiên cứu, học viên thấy rằng đã có các công trình nghiên cứ như sau: Đào Thị Nga, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học luật Hà Nội, 1997; Trần Văn Dũng, Trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học luật Hà Nội, 2003; Nguyễn Minh Khuê, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006; Trịnh Thị Yến, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm nhiều tội, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014; Đỗ Ngọc Thùy, Hình phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội – Lý luận và thực tiễn áp dụng, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011; Nguyễn Thị Thu Huyền, Hình phạt tù có thời hạn áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012; 2
  8. Tội phạm do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn Thành phố Hà Nội – Thực trạng và giải pháp, Nxb. Công an nhân dân Hà Nội năm 2007; Trường Đại học luật Hà Nội , Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân năm 2000 (GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên); Lương Ngọc Trâm (2014), “Hoàn thiện quy định pháp luật hình sự về hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội”, Tạp chí Tòa án nhân dân; PGS.TS. Trầm Văn Luyện, Những điểm mới về chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 12/2000; Ths. Đặng Thanh Sơn, Pháp luật Việt Nam về tư pháp người chưa thành niên, số chuyên đề của Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, tháng 12/2008; Ths. Đinh Văn Quế, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Tòa án nhân dân số 6/2007; Ths. Đoàn Tấn Minh, Bàn về phạm vi sử dụng thuật ngữ “ Người chưa thành niên phạm tội”,Tạp chí Tòa án nhân dân số 9/2008; TS. Trịnh Tiến Việt, Những khía cạnh pháp lý hình sự về các hình phạt và biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Tòa án nhân dân số 7, 8/2010; TS. Trần Văn Dũng, Quyết định hình phạt trong trường hợp người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí luật học, số 5/2000; PGS.TS Dương Tuyết Miên, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí luật học, số 4/2002; TS. Trương Minh Mạnh, Phân loại tội phạm với việc quy định trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên, Tạp chí Kiểm sát, số 8/2002; Ths. Trương Hồng Sơn, Một số quy định của pháp luật quốc tế và một số quốc gia về vấn đề quyền của người chưa thành niên phạm tội; Tạp chí điện tử ngày 20 tháng 8 năm 2009 (http://hvcsnd.edu.vn/)... Các công trình nghiên cứu trên phần lớn đã xây dựng được cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý đối với trách nhiệm hình sự, quyết định áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên về cơ bản chưa nghiên cứu, cập nhật được các quy định mới trong BLHS năm 2015 về áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Thêm vào đó, không có công trình nào nghiên cứu về thực tiễn áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương. Vì vậy, công trình nghiên cứu: “Áp 3
  9. dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương” của luận văn này đảm bảo tính mới của luận văn Thạc sĩ và không bị trùng với bất kỳ công trình nào đã nghiên cứu trước đây. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ về mặt lý luận đối với việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội; đánh giá thực tiễn áp dụng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật, bảo đảm áp dụng đúng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm từ thực tiễn Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương. Nhiệm vụ của Luận văn là phân tích, làm rõ khái niệm, đặc điểm, nội dung và ý nghĩa của áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi; đánh giá các quy định của BLHS năm 2015 về áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, nêu những kết quả, hạn chế, chỉ ra các nguyên nhân của hạn chế trong áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương; đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định của BLHS. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Từ đối tượng nghiên cứu trên, luận văn có phạm vi nghiên cứu như sau: - Phạm vi nội dung: những vấn đề lý luận và thực tiễn về áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. - Phạm vi không gian: Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương - Phạm vi thời gian: từ năm 2014 đến năm 2018. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về hình phạt và cải tạo con người, về pháp luật nói 4
  10. chung, chính sách hình sự nói riêng, đặc biệt là các quan điểm, tư tưởng về cải tạo, giáo dục, phòng ngừa tội phạm đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, cũng như việc áp dụng hình phạt đối với chủ thể tội phạm này. Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể của khoa học pháp lý như: phân tích, tổng hợp và thống kê, phương pháp so sánh. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Đề tài tìm hiểu về các loại hình phạt được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, căn cứ áp dụng từng loại hình phạt theo quy định của BLHS hiện hành và việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương. Trên cơ sở đó, đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật, bảo đảm áp dụng đúng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm ba chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội Chương 2: Thực trạng áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương. Chương 3: Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương. 5
  11. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI 1.1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung và ý nghĩa của áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm người dưới 18 tuổi phạm tội BLHS năm 2015 sử dụng thuật ngữ “người dưới 18 tuổi”, việc thay đổi từ người chưa thành niên sang người dưới 18 tuổi không có nghĩa là nghĩa của hai thuật ngữ này khác nhau. Thuật ngữ người dưới 18 tuổi và người chưa thành niên đều có ý nghĩa như nhau. Khái niệm người dưới 18 tuổi khác với khái niệm trẻ em, theo quy định tại Điều 1 của Luật Trẻ em năm 2016 thì: “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”. Người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật như là đối với người đã thành niên. Khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mỗi người là khác nhau, được hình thành từ lúc sinh ra và tích lũy dần trong cuộc sống và sinh hoạt. Lứa tuổi dưới 18 là tuổi trong gia đoạn phát triển về tâm sinh lý cũng như thể chất mạnh mẽ nhất. Đây là lứa tuổi cần được sự bảo vệ và che chở đặc biệt nhất. Tâm lý người chưa đủ 18 tuổi nói chung và người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng có sự khác biệt đáng kể, những người đã đủ hoặc trên 18 tuổi thường có nhận thức, trưởng thành hơn người dưới 18 tuổi. Xuất phát từ đặc điểm tâm, sinh lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và yêu cầu của các Công ước quốc tế của Liên Hợp quốc về trẻ em, pháp luật hình sự Việt Nam có những quy định riêng có tính chất khoan hồng khi xử lý trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nhằm bảo vệ quyền và lợi ích tối đa cho họ. Điều 12 của BLHS năm 2015 quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau: 6
  12. 1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. 2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này. Như vậy, theo quy định tại Điều 12 của BLHS năm 2015 thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định trong luật, còn người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Theo quy định tại Điều 12 của BLHS năm 2015 thì độ tuổi bắt đầu chịu trách nhiệm hình sự là từ đủ 14 tuổi. Do đó, người dưới 18 tuổi phạm tội được hiểu là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi vào thời điểm người đó thực hiện tội phạm. * Về căn cứ xác định tuổi của người dưới 18 tuổi: Tuổi của một người được xác định từ thời điểm người đó được sinh ra. Căn cứ vào các loại giấy tờ có giá trị pháp lý gắn với nhân thân của người đó (như giấy chứng sinh, giấy khai sinh, chứng minh nhân dân, các loại văn bằng,…) mà các cơ quan tư pháp xác định độ tuổi của một người. Trên thực tế, có rất nhiều trường hợp không thu thập được, hoặc không xác nhận được cơ sở pháp lý của các loại giấy tờ, thì các cơ quan tư pháp sẽ phải xác định ngày sinh của người phạm tội theo nguyên tắc có lợi cho họ. Theo khoản 2 Điều 417 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, trong trường hợp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã áp dụng mọi biện pháp hợp pháp mà vẫn không xác định được chính xác thì ngày, tháng, năm sinh của người bị buộc tội, người bị hại được xác định trong 5 trường hợp như sau: + Trường hợp xác định được tháng nhưng không xác định được ngày thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh. + Trường hợp xác định được quý nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong quý đó làm ngày, tháng sinh. 7
  13. + Trường hợp xác định được nửa của năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng trong nửa năm đó làm ngày, tháng sinh. + Trường hợp xác định được năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng trong năm đó làm ngày, tháng sinh. + Trường hợp không xác định được năm sinh thì phải tiến hành giám định để xác định tuổi. Về thời điểm tính tuổi: ngày xác định độ tuổi của người phạm tội được tính từ khi thực hiện hành vi phạm tội, bởi về nguyên tắc xác định năng lực của chủ thể là xác định vào thời điểm thực hiện hành vi. Vì vậy, tuổi được xác định vào thời điểm thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Tức là, hành vi phạm tội đã xảy ra vào thời điểm nào thì sẽ xác nhận độ tuổi của người phạm tội ở thời điểm đó. Trong trường hợp hành vi phạm tội kéo dài và liên tục, có nhiều hành vi được thực hiện ở các thời điểm khác nhau, khi xác định độ tuổi thực hiện hành vi phạm tội có thể gặp trường hợp có hành vi thực hiện khi chưa đủ tuổi, có hành vi thực hiện khi đã đủ tuổi. Trong trường hợp này, cơ quan tiến hành tố tụng sẽ lấy độ tuổi ở hành vi cuối để xem xét trách nhiệm của họ. Tóm lại, người dưới 18 tuổi phạm tội được hiểu là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi vào thời điểm người đó thực hiện tội phạm. * Đặc điểm của người dưới 18 tuổi phạm tội: Người dưới 18 tuổi là đối tượng cần được sự quan tâm đúng mực của toàn xã hội. Nghiên cứu đặc điểm người dưới 18 tuổi phạm tội dưới góc độ tâm sinh lý đặt trong mối quan hệ giữa các yếu tố gia đình, nhà trường và xã hội là việc hết sức cần thiết và quan trọng, ảnh hưởng không nhỏ đến vấn đề quyết định hình phạt đối với bản thân họ. - Thứ nhất, về trạng thái cảm xúc, người dưới 18 tuổi là những người chưa phát triển toàn diện cả về thể chất cũng như nhận thức. Sự phát triển không cân bằng của hệ tim mạch, tuyến nội tiết cũng như các bộ phận khác dễ đưa họ tới những cơn xúc động mạnh, nóng nảy vô cớ, sự kích động, dễ bị lôi kéo… dẫn tới những hành vi bất bình thường. Đây là giai đoạn diễn ra những biến đổi đặc biệt, sự 8
  14. phát triển của cơ thể dẫn đến tình trạng mất cân bằng tạm thời trong cảm xúc của người dưới 18 tuổi. Trên thực tế, trạng thái thần kinh, trạng thái cảm xúc không cân bằng có thể là yếu tố gây nên các hành vi lệch chuẩn của các em. Có không ít các trường hợp vì những mâu thuẫn nhỏ nhưng vì không thể kiềm chế, làm chủ được bản thân nên các em đã phạm phải những hành động sai lầm dẫn đến những hành vi phạm tội. - Thứ hai, về các nhu cầu của bản thân như nhu cầu độc lập, nhu cầu khám phá cái mới: Đặc điểm tâm lý dễ nhận thấy ở lứa tuổi này là sự biểu hiện của nhu cầu độc lập, được hiểu là việc cá nhân tự hành động và tự quyết định theo ý kiến riêng của bản thân mà không muốn bị ảnh hưởng bởi người khác, thể hiện trước hết trong các hoạt động học tập, giao tiếp với bạn bè… Các em mong muốn tự quyết định cách thức và thời gian học tập, muốn được mọi người tôn trọng, đặc biệt là về nghệ thuật, thời trang, các em thường chạy theo những xu hướng, trào lưu mới được du nhập từ nước ngoài. Đây là một nhu cầu tất yếu của người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, nó có thể là nguyên nhân dẫn tới các hành vi phạm tội trong một số các trường hợp. Ở người dưới 18 tuổi phạm tội, nhu cầu độc lập của họ trở nên thái quá, thể hiện ra bên ngoài dưới dạng như ngang bướng, cố chấp, bảo thủ, gây gỗ, sử dụng các hành vi bạo lực để chứng tỏ bản thân, không hiếm các bạn trai, khi muốn chứng tỏ bản thân mà không ngại sử dụng bạo lực, thậm chí một va chạm nhỏ có thể dẫn tới những hành vi bạo lực vô cùng nguy hiểm. Mặt khác, người dưới 18 tuổi nói chung và dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng đang dần dần hoàn thiện bản thân, cùng với đó là sự tò mò, mong muốn khám phá, học hỏi từ thế giới xung quanh nhằm nâng cao tri thức, mở rộng khả năng nhận thức về xã hội về cả thế giới quan và nhân sinh quan để có kinh nghiệm sống. Trong thời đại công nghệ thông tin phát triển như vũ bão thì khao khát hiểu biết của các em không chỉ trong phạm vi đất nước mình mà còn cả các quốc gia khác. Khi đó, nếu các em tìm tòi, thử nghiệm những cái thiếu lành mạnh, trái chuẩn mực xã hội thì sẽ dẫn tới hành vi phạm tội của các em. Theo một nghiên cứu về người dưới 18 tuổi phạm tội ma túy thì quá trình phạm tội có thể bắt nguồn từ nhiều lý do, một trong số đó là tò mò, hiếu động, 9
  15. có xu hướng tìm kiếm những cái mới lạ. Nhu cầu bản thân có quyết định rất lớn khi người dưới 18 tuổi tham gia vào các quan hệ xã hội. Nếu không biết cân bằng giữa nhu cầu cá nhân và các chuẩn mực xã hội thì người dưới 18 tuổi thực hiện hành vi phạm tội là một điều tất yếu. - Thứ ba, nhận thức và quan niệm pháp luật của người dưới 18 tuổi phạm tội chưa hình thành đầy đủ hoặc bị lệch lạc theo suy nghĩ chủ quan của họ. Khác với người trưởng thành, người dưới 18 tuổi thường hành động mà không thể lường trước hết hậu quả của hành vi. Chẳng hạn như khi tham gia giao thông thì dàn hàng ba, hàng tư gây ắt tắc giao thông, không đội mũ bảo hiểm hay chạy xe mà không đủ tuổi… Mặt khác, không ít các em cho rằng, những yêu cầu và đòi hỏi của chuẩn mực luật pháp chỉ được quy định trong các văn bản pháp luật và hoàn toàn mang tính hình thức còn hành động thì phải căn cứ vào nhu cầu cụ thể của cá nhân thì mới thể hiện được sự tự do trong cuộc sống. Nhận thức pháp luật không đúng đắn, lệch chuẩn là nguyên nhân dẫn tới hành vi phạm tội của các em. Thực tế cho thấy nhiều người dưới 18 tuổi thực hiện hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng nhưng lại không biết rằng mình phạm tội, không thấy hết tính nguy hiểm và hậu quả của hành vi đó mà cho rằng hành vi của mình là hợp pháp. Trên đây là một số phân tích về đặc điểm tâm sinh lý chung của người dưới 18 tuổi phạm tội. Với những đặc điểm trên, khi quy định về hình phạt và quyết định hình phạt, Đảng và Nhà nước cần có đường lối, chính sách đúng đắn, cân nhắc đến khả năng nhận thức còn hạn chế của họ để có các biện pháp cưỡng chế phù hợp, không được nghiêm khắc hơn người đủ 18 tuổi phạm tội, đặt mục đích giáo dục, cải tạo lên hàng đầu, làm cơ sở để các cơ quan có thẩm quyền thay thế các hình phạt bằng các biện pháp riêng nhằm tạo điều kiện để người dưới 18 tuổi phạm tội tái hòa nhập cộng đồng, tránh tình trạng mặc cảm, tự ti dẫn đến tái phạm tội. Đặc biệt là cân nhắc hơn nữa các biện pháp xử lý chuyển hướng đối với họ. Chỉ có như vậy thì việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội mới phát huy được hết hiệu quả của nó. 10
  16. 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Để có thể xây dựng được khái niệm áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội chúng ta phải đi từ khái niệm áp dụng pháp luật. Theo lý luận chung về pháp luật thì: “Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, được thực hiện bởi những cơ quan nhà nước, nhà chức trách có thẩm quyền hoặc các tổ chức xã hội được nhà nước ủy quyền, thông qua trình tự thủ tục chặt chẽ mà pháp luật quy định nhằm cá biệt hóa những quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể”[46, tr.188]. Dựa trên khái niệm về áp dụng pháp luật nêu trên và những đặc điểm cơ bản của hình phạt, chúng ta có thể xây dựng khái niệm áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi như sau: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là một hình thức của áp dụng pháp luật do Tòa án tiến hành và áp dụng những quy phạm pháp luật hình sự về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cụ thể để giải quyết các vụ án hình sự theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. * Đặc điểm áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội: - Thứ nhất, chủ thể có thẩm quyền áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là Tòa án. Khoản 1 Điều 102 của Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Do đó, chỉ có Tòa án mới có thẩm quyền áp dụng hình phạt đối với người bị kết án. - Thứ hai, đối tượng bị áp dụng hình phạt là người dưới 18 tuổi phạm tội cụ thể và trong trường hợp phạm tội cụ thể. Mục đích của áp dụng hình phạt là cá biệt hoá các quy định về hình phạt trong những điều kiện cụ thể. Thông qua hoạt động áp dụng hình phạt đối với người dưới 11
  17. 18 tuổi phạm tội, các quy định về hình phạt sẽ được cá biệt hoá cho người dưới 18 tuổi cụ thể cho mỗi trường hợp cụ thể. - Thứ ba, nội dung áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi là áp dụng các quy định về hình phạt đối với người người dưới 18 tuổi phạm tội và áp dụng các quy định về khoan hồng liên quan đến việc hình phạt như: miễn hình phạt, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt .v.v… Tuy nhiên, khi áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cần phải đảm bảo các quy định tại Chương XII của BLHS năm 2015 “Những quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội” như nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội (Điều 91 của BLHS năm 2015), mức hình hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. - Thứ tư, áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội. Đặc điểm này là sự cụ thể hóa nguyên tắc xử lý hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định tại khoản 1 Điều 91 của BLHS năm 2015. Hình phạt là một trong các biện pháp xử lý hình sự được áp dụng đối với người bị kết án phạt tù nói chung và người dưới 18 tuổi nói riêng. Khi áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thì hình phạt phải đảm bảo mục đích xử lý theo quy định tại khoản 1 Điều 91 của BLHS năm 2015. - Thứ năm, áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là hoạt động đòi hỏi tính sáng tạo (sự sáng tạo trong phạm vi quy định của pháp luật hình sự). Khi áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, Tòa án phải nghiên cứu thật kỹ trường hợp phạm tội, xác định chính xác hình phạt của nó để từ đó lựa chọn hình phạt cụ thể và ra quyết định áp dụng hình phạt và tổ chức hình phạt. Trong trường hợp hình phạt được quy định trong BLHS chưa rõ ràng thì phải vận dụng sáng tạo các nguyên tắc của luật hình sự để áp dụng hình phạt. Để thực 12
  18. hiện được điều đó đòi hỏi Hội đồng xét xử phải có ý thức pháp luật cao, có tri thức tổng hợp, có kinh nghiệm phong phú, có đạo đức và có tay nghề cao. - Thứ sáu, trình tự, thủ tục áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phải được tuân thủ trình tự, thủ tục luật định. Việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm không thể tiến hành một cách tùy tiện, không thể tự ý thay đổi hay chấm dứt theo ý chí của Tòa án mà phải được diễn ra trên những cơ sở, trong những điều kiện và phải tuân thủ theo trình tự, thủ tục được quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 nói chung và quy định riêng khi áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Việc thực hiện không đúng, không đầy đủ những trình tự, thủ tục đã được quy định sẽ là nguyên nhân dẫn đến áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội có thể trở nên vô hiệu, vi phạm nguyên tắc pháp chế. 1.1.3. Nội dung của áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Nội dung của áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là các trường hợp áp dụng pháp luật liên quan đến hình phạt và các biện pháp miễn, giảm hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, bao gồm: quyết định hình phạt, quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, tổng hợp hình phạt, áp dụng án treo, tha tù trước thời hạn có điều kiện, miễn hình phạt, miễn chấp hành hình phạt, giảm mức hình phạt đã tuyên. Quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt và mức hình phạt cụ thể được quy định trong BLHS để áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Đây là hình thức áp dụng hình phạt chủ yếu đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Trong luật hình sự Việt Nam, việc quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi dựa vào các căn cứ quyết định hình phạt (Điều 50 BLHS) và nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội (Điều 91 BLHS). Quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội bao gồm: quyết định các hình phạt được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội như: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn (Điều 98 BLHS); quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm 13
  19. tội, phạm tội chưa đạt (Điều 102 BLHS); các trường hợp quyết định hình phạt khác chung cho cả người trên 18 tuổi và dưới 18 tuổi phạm tội như: quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (Điều 54 BLHS), quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm (Điều 58 BLHS). Tổng hợp hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là việc Tòa án xác định hình phạt chung cho người dưới 18 tuổi phạm tội bị kết án. Việc tổng hợp hình phạt phải tuân thủ theo những nguyên tắc nhất định. Đó là nguyên tắc thu hút, nguyên tắc cộng hình phạt và nguyên tắc cùng tồn tại. Việc tổng hợp hình phạt đối với người dưới 18 tuổi dựa trên ba nguyên tắc: nguyên tắc thu hút, nguyên tắc cộng hình phạt và nguyên tắc cùng tồn tại. Các trường hợp tổng hợp hình phạt đối với người dưới 18 tuổi theo luật hình sự Việt Nam bao gồm: tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội (Điều 103 BLHS); tổng hợp hình phạt của nhiều bản án (Điều 104 BLHS). Án treo, là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được Tòa án áp dụng đối với người phạm tội bị phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù. Với tư cách là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, người dưới 18 tuổi nếu bị phạt tù không quá 3 năm có thể được tòa án lựa chọn cách thức chấp hành là tự cải tạo giáo dục theo quy định về chế độ thi hành án treo thay vì buộc họ phải chấp hành hình phạt tù tại cơ sở giam giữ. Việc tòa án lựa chọn cách thức chấp hành trong trường hợp này là hoạt động áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Trong luật hình sự Việt Nam, án treo được quy định áp dụng chung đối với trên 18 tuổi và người dưới 18 tuổi phạm tội (Điều 65 BLHS). Tha tù trước thời hạn có điều kiện là biện pháp được Tòa án áp dụng đối với người đang chấp hành án phạt tù khi có đủ các điều kiện theo quy định của BLHS, xét thấy không cần buộc họ phải tiếp tục chấp hành án phạt tù tại cơ sở giam giữ. 14
  20. Về bản chất, tha tù trước thời hạn có điều kiện là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có thời hạn có điều kiện. Tương tự như với án treo, áp dụng biện pháp này cũng là một hình thức áp dụng hình phạt. Trong luật hình sự Việt Nam, biện pháp tha tù trước hạn có điều kiện áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội quy định tại Điều 106 BLHS. Miễn hình phạt là trường hợp không buộc người phạm tội phải chịu hình phạt về tội phạm mà người đó đã thực hiện. BLHS năm 2015 quy định biện pháp miễn hình phạt chung đối với cả người trên 18 tuổi và người dưới 18 tuổi phạm tội tại Điều 59 BLHS. Miễn chấp hành hình phạt là không buộc người bị kết án phải chấp hành toàn bộ hoặc phần hình phạt còn lại đã tuyên. BLHS năm 2015 quy định biện pháp miễn chấp hành hình phạt áp dụng riêng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại Điều 106 BLHS. - Giảm hình phạt là giảm một phần hình phạt đã tuyên cho người bị kết án. BLHS năm 2015 quy định biện pháp giảm mức hình phạt đã tuyên áp dụng riêng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại Điều 106 BLHS. Tóm lại, các trường hợp áp dụng hình phạt với người dưới 18 tuổi phạm tội bao gồm không chỉ quyết định hình phạt mà nó còn áp dụng các biện pháp khoan hồng liên quan đến hình phạt áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Hệ thống các trường hợp này tạo nên sự đa dạng về biện pháp xử lý hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân hóa và cá thể hóa hình phạt đối họ, đảm bảo nguyên tắc xử lý hình sự khi áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là “Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội” (khoản 1 Điều 91 BLHS.) 1.1.4. Ý nghĩa của áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi là hoạt động quan trọng cụ thể hóa nguyên tắc của Luật hình sự và chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2