intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Địa vị pháp lý của bị hại theo pháp Luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:92

38
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu về địa vị pháp lý của bị hại trong Bộ luật TTHS năm 2015; khảo sát và đánh giá việc áp dụng các quy định này trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, đưa ra một số giải pháp thực hiện có hiệu quả các quy định về bị hại trong thực tiễn điều tra các vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Hình sự và Tố tụng hình sự: Địa vị pháp lý của bị hại theo pháp Luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ MẠNH HÙNG ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA BỊ HẠI THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ HÀ NỘI, 2019
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ MẠNH HÙNG ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA BỊ HẠI THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH Ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS PHÙNG THẾ VẮC HÀ NỘI, 2019
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, dẫn chứng thực tiễn trong luận văn là hoàn toàn khác quan, trung thực, có nguồn trích dẫn rõ ràng. Kết quả nghiên cứu luận văn không có sự trùng lặp với bất kì công trình nghiên cứu khoa học nào đã được nghiệm thu, công bố./. TÁC GIẢ LUẬN VĂN LÊ MẠNH HÙNG
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1 Chương 1: LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA BỊ HẠI THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN NAY .............. 7 1.1. Nhận thức về địa vị pháp lý của bị hại trong tố tụng hình sự ........ 7 1.2. Nội dung về địa vị pháp lý của bị hại trong tố tụng hình sự........ 14 1.3. Các yếu tố bảo đảm địa vị pháp lý của bị hại trong hoạt động tố tụng hình sự hiện nay .......................................................................... 19 1.4. Đặc điểm, phân loại bị hại trong hoạt động điều tra tội phạm trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh ..................................................................... 24 Chương 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA BỊ HẠI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH ......................................................................................................... 34 2.1. Một số đặc điểm liên quan đến công tác áp dụng các quy định pháp luật về bảo đảm địa vị pháp lý của bị hại trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.. 34 2.2. Tình hình thực hiện áp dụng địa vị pháp lý của bị hại trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh .................................................................................. 39 2.3. Nhận xét, đánh giá chung............................................................. 57 Chương 3: DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN CÓ HIỆU QUẢ CÁC QUY ĐỊNH VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA BỊ HẠI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH ............................................... 64 3.1. Dự báo về tình hình có liên quan công tác bảo đảm thực hiện có hiệu quả các quy định về địa vị pháp lý của bị hại trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh ......................................................................................... 64 3.2. Giải pháp và kiến nghị bảo đảm thực hiện có hiệu quả các quy định về địa vị pháp lý của bị hại trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh ................. 68 KẾT LUẬN .............................................................................................. 80 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................... 82
  5. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN ANTT: An ninh, trật tự BLHS: Bộ luật Hình sự CQĐT: Cơ quan điều tra ĐTV: Điều tra viên ĐVPL: Địa vị pháp lý TAND: Tòa án nhân dân TTHS: Tố tụng hình sự VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trước yêu cầu cải cách tư pháp thì các vấn đề đảm bảo quyền dân chủ và nhân quyền, đặc biệt là các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong TTHS luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Nghị quyết số 48 - NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020” đã tiếp tục xác định: “Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ nhưng thuận tiện, đảm bảo sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp”. Cụ thể hóa quan điểm này của Đảng, thời gian qua, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành nhiều đạo luật mới trong đó có Bộ luật TTHS năm 2015 có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 đã có những thay đổi, bổ sung, sửa đổi nhiều nội dung quan trọng, trong đó có những quy định về ĐVPL của bị hại, làm cơ sở để cơ quan tiến hành tố tụng, các tổ chức, cá nhân phát huy quyền và nghĩa vụ trong tham gia hoạt động tố tụng. Thực tiễn thi hành Bộ luật TTHS năm 2003 cho thấy, trong TTHS, tội phạm không chỉ xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân mà còn xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức. Cùng với đó, BLHS quy định xử lý không chỉ đối với các hành vi xâm hại quyên và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức mà trong một số trường hợp xử lí đối với cả hành vi đe dọa xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp. Do Bộ luật TTHS 2003 chưa quy định đầy đủ nên thực tiễn áp dụng chưa thống nhất. Để khắc phục những vướng mắc bất cập này, Bộ luật TTHS năm 2015 đã quy định bị hại là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về vật chất, tinh thần do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra. Về quyền của bị hại hoặc người đại diện của họ, Bộ luật TTHS năm 2015 đã bổ sung các quyền như: Được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ; đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; đề nghị giám định, định giá tài sản theo quy định của pháp luật; được thông báo kết quả điều tra, giải quyết vụ án; đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị hình phạt, mức bồi thường thiệt hại, biện pháp bảo đảm bồi 1
  7. thường; tham gia phiên tòa; trình bày ý kiến, đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo và người khác tham gia phiên tòa; tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; xem biên bản phiên tòa. Do đó, cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình tiến hành các hoạt động tố tụng cần đảm bảo ĐVPL của bị hại trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của cơ quan tiến hành tố tụng và các quy định pháp luật về hoạt động tố tụng liên quan đến quyền và nghĩa vụ của bị hại. Trên phương diện thực tiễn, người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra chỉ trở thành bị hại trong TTHS khi họ được cơ quan có thẩm quyền công nhận là bị hại thông qua hành vi triệu tập họ đến khai báo với tư cách là bị hại. Việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về bị hại trong TTHS ở nước ta hiện nay cũng như thực trạng về bảo đảm ĐVPL của bị hại trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh để đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng chế định này trong thực tế, góp phần xử lý kịp thời, khách quan nhằm bảo vệ tốt hơn các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, lợi ích của Nhà nước và xã hội là một yêu cầu khách quan và cần thiết. Là tỉnh có nền kinh tế phát triển trọng điểm phía Bắc của nước ta, Quảng Ninh đã có những đóng góp quan trọng trong sự phát triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, tuy nhiên, Quảng Ninh cũng là tỉnh có tình hình tội phạm diễn biến phức tạp. Từ năm 2014 đến hết năm 2018, CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh đã khởi tố, điều tra 7.222 vụ án, 10.474 bị can với đa dạng các loại tội phạm, chủ yếu là tội phạm ma túy, tội phạm xâm phạm trật tự an toàn xã hội, tội phạm về kinh tế, môi trường... Trong quá trình tiến hành các hoạt động điều tra tội phạm, CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh đã quán triệt, nghiêm túc thực hiện yêu cầu đảm bảo pháp chế trong thực hiện các quy định về bảo đảm quyền và nghĩa vụ của bị hại. Tuy nhiên, với những quy định mới về ĐVPL của bị hại theo Bộ luật TTHS, việc đảm bảo đúng, đủ các quyền và nghĩa vụ của bị hại còn những khó khăn nhất định đối với CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh như: Vấn đề thực hiện quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; vấn đề tham gia phiên tòa, tranh tụng tại tòa, vấn đề dẫn giải bị hại khi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; trường hợp cố ý vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan…. Trên phương diện lý luận, thời gian qua, vấn đề nghiên cứu lí luận về người bị hại trong TTHS (theo Bộ luật TTHS năm 1998, Bộ luật TTHS năm 2003) đã được 2
  8. nghiên cứu, đề cập tại các công trình khoa học ở các cấp độ khác nhau. Tuy nhiên, xuất phát từ quan điểm, nội dung mới về “bị hại” thì đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu trực tiếp. Bên cạnh đó, lý luận tư pháp hình sự của nước ta quan tâm nhiều chứng minh tội phạm và người phạm tội. Việc bảo đảm ĐVPL của bị hại chỉ là nhiệm vụ phát sinh trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, tức là thông qua việc chứng minh tội phạm và người thực hiện hành vị phạm tội thì ĐVPL của bị hại được đảm bảo. Do đó, “khoảng trống” lí luận là ĐVPL của bị hại là điều không tránh khỏi, cần được bổ sung. Với những lý do trên, học viên đã lựa chọn đề tài: “ĐVPL của bị hại theo pháp luật TTHS Việt nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” làm Luận văn thạc sĩ Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đề tài Bị hại là một người tham gia tố tụng được quy định trong luật TTHS năm 2015. Thời gian qua, ở nước ta đã có nhiều bài viết, công trình khoa học nghiên cứu liên quan đến ĐVPL của người bị hại (1 bộ phận quan trọng cấu thành “bị hại”), như: - Luận án tiến sĩ Luật học của tác giả Lê Nguyên Thanh (2012), “Người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong TTHS”, trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh đi sâu nghiên cứu quyền và nghĩa vụ của người bị hại và nguyên đơn dân sự với tư cách là người tham gia tố tụng độc lập. - Luận án tiến sĩ của tác giả Đinh Thị Mai (2014), “Quyền của người bị hại trong TTHS”, Viện khoa học và Xã hội Việt Nam tiếp cận quyền của người bị hại dưới góc độ quyền con người, đồng thời nêu ra cơ chế bảo đảm quyền của người bị hại trong TTHS. - Luận văn thạc sỹ của tác giả Thịnh Quang Thắng (2010): “Người bị hại trong TTHS Việt Nam” đã đề cập tương đối đầy đủ các luận cứ khoa học như: Bản chất, ý nghĩa, mục đích của việc nghiên cứu về người bị hại, tham khảo kinh nghiệm nước ngoài. Tuy nhiên, các dẫn chứng số liệu đều được lấy ở một địa bàn nhỏ hẹp là huyện Đông Anh -một huyện ngoại thành Hà Nội nên việc nghiên cứu đánh giá còn nhiều hạn chế. - Luận văn thạc sỹ của tác giả Đặng Hoàng Phương (2015), “ĐVPL của người bị hại trong TTHS (áp dụng trong thực tiễn TTHS trên địa bàn thành phố Hà Nội)”, trường Đại học quốc gia đã nghiên cứu địa vị pháp lý của người bị hại trong TTHS, 3
  9. việc áp dụng các quy định của Bộ luật TTHS năm 2003 về địa vị pháp lý của người bị hại trên địa bàn thành phố Hà Nội. Ngoài ra còn có các bài báo khoa học có nội dung liên quan đến ĐVPL bị hại (người bị hại) trên các tạp chí khoa học như: “Bàn về việc tòa án cấp phúc thẩm có được thay đổi tư cách của người tham gia tố tụng khi xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm xác định không đúng”, Tạp chí TAND tối cao số 24/2005. “Một số vướng mắc khi giải quyết vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại”, Tạp chí kiểm sát số 7/2008. “Một số vấn đề cần chú ý khi xác định người tham gia tố tụng trong vụ án hình sự”, Tạp chí Toà án nhân dân số 13/2008. “Người bị hại trong TTHS”, Tạp chí khoa học pháp lý số 01/2007. “Quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng tại phiên tòa hình sự phúc thẩm”, Tạp chí Tòa án. TAND tối cao số 5/2004… Các bài viết, công trình nghiên cứu trên đã phân tích, giải quyết và làm rõ một số vấn đề lý luận về chế định quyền và nghĩa vụ của người bị hại trong TTHS Việt Nam nhưng vẫn còn nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn mà các công trình nghiên cứu trên chưa đề cập đến ĐVPL của bị hại theo Bộ luật TTHS năm 2015. Như vậy, đến nay chưa có công trình khoa học nghiên cứu về ĐVPL của bị hại theo Bộ luật TTHS năm 2015 trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, việc nghiên cứu đề tài “ĐVPL của bị hại theo pháp luật TTHS Việt nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” không trùng lặp với bất kì công trình khoa học nào đã được công bố, nghiệm thu. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu về ĐVPL của bị hại trong Bộ luật TTHS năm 2015; khảo sát và đánh giá việc áp dụng các quy định này trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, đưa ra một số giải pháp thực hiện có hiệu quả các quy định về bị hại trong thực tiễn điều tra các vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Để đạt được mục đích trên, luận văn đề ra những nhiệm vụ như sau: - Nêu nhận thức cơ bản về bị hại và ĐVPL của bị hại trong TTHS. - Đánh giá khái quát thực trạng thực hiện các quy định pháp luật về ĐVPL của bị hại trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh; chỉ ra những bất cập, vướng mắc trong quá trình thực hiện và nguyên nhân. - Đề xuất các giải pháp, kiến nghị thực hiện có hiệu quả các quy định pháp luật về ĐVPL của bị hại từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4
  10. 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu ĐVPL của bị hại trong luật TTHS Việt Nam. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: - Phạm vi về nội dung: ĐVPL của bị hại trong TTHS theo quy định Bộ luật TTHS năm 2015 và công tác áp dụng các quy định của Bộ luật TTHS về địa vị pháp lý của bị hại trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. - Phạm vi chủ thể thực hiện: CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh. - Phạm vi địa bàn: Tỉnh Quảng Ninh. - Phạm vi thời gian: từ năm 2014 đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta về nhà nước, pháp luật và quyền con người. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể: thống kê; phân tích, tổng hợp; phương pháp so sánh, tổng kết thực tiễn; tổ chức tọa đàm khoa học, phỏng vấn chuyên gia và nghiên cứu tài liệu... Những đóng góp về khoa học của luận văn - Trên cơ sở phân tích địa vị pháp lý của bị hại trong tố tụng hình sự, đánh giá một cách có hệ thống, toàn diện các vấn đề về thực trạng áp dụng các quy định về quyền và nghĩa vụ của bị hại trong TTHS trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. - Đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định về bảo đảm quyền và nghĩa vụ của bị hại trong Bộ luật TTHS cũng như các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng trong TTHS trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn - Luận văn góp phần bổ sung lý luận và sáng tỏ ĐVPL bị hại theo pháp luật TTHS hiện nay. - Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác nghiên cứu, tham mưu đối với các cơ quan tiến hành tố tụng và cá nhân có liên quan về bảo đảm quyền và nghĩa vụ của bị hại trong hoạt động liên quan tố tụng. 5
  11. Bên cạnh đó, luận văn cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, các trường, trung tâm nghiên cứu, học tập về khoa học luật hình sự. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, Luận văn gồm 3 chương với kết cấu như sau: Chương 1: Lý luận về ĐVPL của bị hại theo pháp luật TTHS Việt Nam hiện nay. Chương 2: Thực trạng áp dụng các quy định pháp luật về ĐVPL của bị hại trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Chương 3: Dự báo và giải pháp bảo đảm ĐVPL của bị hại trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. 6
  12. Chương 1 LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA BỊ HẠI THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN NAY 1.1. Nhận thức về địa vị pháp lý của bị hại trong tố tụng hình sự 1.1.1. Khái niệm địa vị pháp lý của bị hại trong tố tụng hình sự hiện nay Để làm rõ về khái niệm ĐVPL của bị hại trong TTHS, trước hết chúng ta cần làm rõ khái niệm “ĐVPL”. Theo Từ điển tiếng Việt, “địa vị” đó là vị trí cá nhân trong quan hệ xã hội, do chức vụ, cấp bậc, quyền lực mà có, về mặt được coi trọng ít hay nhiều; vị trí trong quan hệ xã hội, kinh tế, chính trị do vai trò, tác dụng mà có còn pháp lý là căn cứ, cơ sở của pháp luật .Địa vị của cá nhân là vị trí của cá nhân đó trong vai trò xã hội của mình, thể hiện năng lực, trình độ hoặc vai trò của cá nhân trong mối quan hệ tương quan với các cá nhân khác trong xã hội. Địa vị này có thể do cá nhân xây dựng tạo nên hoặc do thừa hưởng từ cá nhân khác (thừa kế chức vụ trong công ty, doanh nghiệp, tổ chức…). Khái niệm “ địa vị” thường được dùng đi kèm bổ ngữ, tạo thành khái niệm mang tính tập hợp, ví dụ: “địa vị xã hội”, “ĐVPL”... Theo Từ điển luật học, “ĐVPL” được hiểu là “vị trí của chủ thể pháp luật trong mối quan hệ với những chủ thể khác trên cơ sở các quy định pháp luật; ĐVPL của chủ thể pháp luật thể hiện thành một tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể, qua đó xác lập cũng như giới hạn khả năng của chủ thể trong các hoạt động của mình. Thông qua ĐVPL có thể phân biệt chủ thể pháp luật này với chủ thể pháp luật khác, đồng thời, cũng có thể xem xét vị trí và tầm quan trọng của chủ thể pháp luật trong các mối quan hệ pháp luật” [39]. Như vậy “ĐVPL” khác với “địa vị xã hội” ở chỗ nó được pháp luật quy định và thể hiện rõ các quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể. Như vậy, ĐVPL có thể hiểu: Là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định cho một chủ thể pháp luật, tạo cho chủ thể đó có khả năng tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập. Đối với khái niệm “bị hại”: Bị hại là khái niệm mới trong TTHS Việt Nam, được công nhận trong Bộ luật TTHS năm 2015. Trước khái niệm “bị hại” được công nhận, Bộ luật TTHS năm 2003 công nhận, sử dụng khái niệm “người bị hại”. Khái niệm người bị hại đã xuất hiện từ rất sớm, khi bắt đầu có thủ tục TTHS. Sau này, khái niệm người bị hại được các nhà nghiên cứu về tội phạm học đưa vào ứng dụng trong 7
  13. việc xác định những mất mát, tổn thương do tội phạm gây ra từ khía cạnh của tội phạm học. Đối với Việt Nam, nguời bị hại là khái niệm quen thuộc trong TTHS. Trong Bộ luật TTHS năm 2003 đưa ra khái niệm “người bị hai” theo đó “người bị hại là người bị thiệt hại về vật chất, tinh thần hoặc tài sản do tội phạm gây ra. Người bị hại chỉ có thể là thể nhân bị người phạm tội làm thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc về tài sản. Nếu người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần thì cha, mẹ, người giám hộ của họ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hợp pháp của người bị hại. Trong trường hợp người bị hại chết thì cha, mẹ, vợ, chồng, con của người bị hại tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hợp pháp của người bị hại và có những quyền của người bị hại.”. Tại Bộ luật TTHS năm 2015 thuật ngữ “người bị hại” trong Bộ luật TTHS 2003 đã được thay thế bằng thuật ngữ “bị hại”, theo đó khái niệm bị hại mở rộng hơn đối tượng bao gồm công dân và pháp nhân, (Bộ luật TTHS năm 2003 quy định người bị hại chỉ có công dân). Thực tiễn thi hành Bộ luật TTHS năm 2003 cho thấy, trong TTHS, tội phạm không chỉ xâm phạm, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân mà con xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của các cơ quan tổ chức. Việc mở rộng khái niệm “bị hại” bao gồm cá nhân và cơ quan, tổ chức là sự phù hợp với thực tiễn hoạt động TTHS, sự thống nhất trong quy định giữa Hiến pháp, BLHS, Bộ luật TTHS và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan khác. Bị hại với tư cách là người tham gia TTHS và được xác định tại Điều 62 Bộ luật TTHS năm 2015 về bị hại: “Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra.”. Như vậy, theo quy định này thì bị hại bao gồm là cá nhân (hoặc người đại diện hợp pháp của cá nhân bị thiệt hại hoặc pháp nhân (hoặc người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín). Theo như quy định của BLTTHS năm 2015 bị hại có các đặc điểm sau đây - Về chủ thể bị hại bao gồm là cá nhân, pháp nhân, tổ chức; - Thiệt hại do tội phạm gây ra được phân chia bao gồm: Cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín. Tuy nhiên, cần lưu ý là hậu quả của sự thiệt hại không phải là điều kiện bắt buộc trong tất cả các trường hợp. 8
  14. - Thiệt hại của bị hại phải là đối tượng tác động của tội phạm, tức là phải có mối liên hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội với hậu quả gây ra cho bị hại. Đây là điều kiện quan trọng để phân biệt giữa bị hại và nguyên đơn dân sự hay các đương sự khác trong vụ án hình sự. - Công dân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại chỉ được tham gia tố tụng với tư cách là bị hại khi và chỉ khi được cơ quan tiến hành tố tụng công nhận. Chúng ta cần phân biệt “bị hại” với các khái niệm có nghĩa tương đồng là nạn nhân của tội phạm. Nội dung khái niệm người bị hại có nội hàm hẹp hơn so với khái niệm nạn nhân của tội phạm. Như đã biết, hành vi phạm tội luôn gây ra hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội được Bộ luật hình sự bảo vệ. Để gây ra những thiệt hại cho những quan hệ này, hành vi phạm tội đã tác động gây thiệt hại cho một số cá nhân, tổ chức. Trong khi đó “Nạn nhân của tội phạm là những cá nhân, tổ chức bị hành vi phạm tội trực tiếp xâm hại, gây ra những thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc các quyền, lợi ích hợp pháp khác”[38, tr8]. Như vậy, nạn nhân của tội phạm ngoài cá nhân còn có thể là tổ chức, pháp nhân; thiệt hại của nạn nhân không chỉ về thể chất, về tinh thần, về tài sản mà còn có thể bao hàm những thiệt hại về các quyền và các lợi ích hợp pháp khác, thiệt hại đó có thể bao gồm cả những thiệt hại gián tiếp; hơn nữa nạn nhân chỉ khi tham gia quan hệ pháp luật TTHS mới được xem là bị hại. Với việc xác nhận “bị hại” bao gồm cá nhân và cơ quan, tổ chức đã thể hiện sự cụ thể nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật được coi là nguyên tắc mang tính hiến định, ghi rõ trong Hiến pháp năm 2013 (khoản 1 Điều 16), được cụ thể hóa trong Bộ luật TTHS: bình đẳng giữa chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng ( ví dụ bị hại), bình đẳng về quyền thu thập, đưa ra chứng cứ, yêu cầu, đề nghị; mọi người tham gia tố tụng đều được hưởng quyền và nghĩa vụ ngang nhau… Với tư cách là người tham gia tố tụng hình sự, ĐVPL của bị hại bị chi phối bởi nhiều yếu tố như: như đặc điểm của mô hình TTHS thẩm vấn hay tranh tụng, kết hợp giữa mô hình thẩm vấn và mô hình tranh tụng; quan niệm về bị hại trong TTHS; mối tương quan giữa bị hại và các chủ thể khác tham gia TTHS; hệ thống quy định pháp luật về TTHS hiện hành... dẫn đến sự khác biệt giữa ĐVPL của bị hại với những người 9
  15. tham gia tố tụng khác như bị can, bị cáo, người có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án, luật sư, người bào chữa, và các chủ thể tham gia tố tụng khác. Từ sự phân tích trên, chúng ta có thể hiểu: ĐVPL của bị hại trong TTHS là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định cho bị hại, tạo cho bị hại có khả năng tham gia quan hệ pháp luật tố tụng một cách độc lập. 1.1.2. Vai trò của bị hại trong tố tụng hình sự 1.1.2.1. Vai trò buộc tội Trước hết, chúng ta cần xác định buộc tội là hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được BLHS quy định là tội phạm. Trong TTHS, buộc tội là chức năng chính của Viện kiểm sát khi thực hiện quyền công tố.Tuy nhiên, hiểu rộng ra, trong quá trình xử lí hành vi phạm tội, bị hại trong trường hợp nhất định cũng thể hiện vai trò “buộc tội”. Trong TTHS một số quốc gia, bên cạnh khái niệm công tố, việc buộc tội nhân danh cá nhân được gọi là tư tố (Liên bang Nga, Trung Quốc, Phần Lan, một số bang của Hoa Kỳ...). thực tế trong quy định Bộ luật TTHS Việt Nam đã có những quy định trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại tạo khả năng và điều kiện cho bị hại được tự do lựa chọn cách giải quyết, hoặc là yêu cầu pháp luật can thiệp hoặc là tự dàn xếp với người đã gây thiệt hại cho mình một cách ổn thoả, đó “là tư tố”. Nội dung này được quy định tại khoản 3 Điều 62 của Bộ luật TTHS năm 2015: “Trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì bị hại hoặc người đại diện của họ trình bày lời buộc tội tại phiên tòa” và tại Điều 155 của Bộ luật TTHS này: Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều: - Điều 134 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); - Điều 135. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh; - Điều 136. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội; - Điều 138. Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; 10
  16. - Điều 139. Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính; - Điều 141. Tội hiếp dâm; - Điều 143. Tội cưỡng dâm; - Điều 155. Tội làm nhục người khác; - Điều 156. Tội vu khống; - Điều 226.Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp của BLHS khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết. Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, CQĐT, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án. Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức. Đây là một quy định vừa mang tính kế thừa của Bộ luật TTHS năm 2003, vừa có sự sửa đổi, bổ sung: Một điểm mới đáng chú ý trong Bộ luật TTHS năm 2015 là quy định cơ chế sử dụng quyền yêu cầu của người bị hại trong khởi tố vụ án hình sự. Khoản 2 Điều 155 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định: “Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ…”. Với nội dung này, so với quy định trong Bộ luật TTHS năm 2003 thì Bộ luật TTHS năm 2015 đã có tiến bộ hơn khi mở rộng quyền rút yêu cầu của bị hại là bị hại được quyền rút yêu cầu bất cứ lúc nào trong suốt quá trình tố tụng từ giai đoạn điều tra, truy tố đến xét xử (Khoản 2 Điều 105 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định người bị hại chỉ được rút yêu cầu trước khi mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án mới được đình chỉ). Trong giai đoạn điều tra, CQĐT ra quyết định đình chỉ điều tra khi có một trong các căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 155… (điểm a khoản 1 Điều 230 Bộ luật TTHS năm 2015); trong giai đoạn truy tố, Viện kiểm sát quyết định không truy tố và ra quyết định đình chỉ vụ án khi có một trong các căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 155… (khoản 1 Điều 248 Bộ luật TTHS năm 2015); trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định đình chỉ vụ án khi có một trong các căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 155… (điểm a, khoản 1 Điều 282 Bộ luật TTHS năm 2015). 11
  17. Như vậy, chức năng buộc tội trong TTHS là chức năng của Viện kiểm sát truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, nhưng quyền buộc tội cá nhân vẫn được tôn trọng ở mức độ nhất định. Không giống quyền công tố, với quyền “tư tố”, pháp luật cho phép sự thể hiện ý chí cá nhân của bị hại trong việc tự giải quyết các sự việc gây thiệt hại cho chính mình trong giới hạn nhất định mà xã hội và cộng đồng có thể chấp nhận được. Trong mức độ nhất định, đây đã thiện vai trò “buộc tội” của bị hại trong TTHS. 1.1.2.2. Xác định sự thật vụ án Mục đích cuối cùng của công tác điều tra tội phạm nói riêng, hoạt động tố tụng nói chung là xác định sự thật vụ án. Xác định sự thật của vụ án vừa là nguyên tắc vừa là mục đích quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, và được Bộ luật TTHS năm 2015 quy định về nguyên tắc xác định sự thật của vụ án tại Điều 15 như sau: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội”. Như vậy, theo quy định này, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bao gồm cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, trong đó: Cơ quan tiến hành tố tụng bao gồm CQĐT, Viện kiểm sát và Toà án; cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra bao gồm các cơ quan của Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và Kiểm ngư, các cơ quan của Công an nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra và các cơ quan khác trong Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khi điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chứng minh các nội dung: Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội; những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và đặc điểm về nhân thân của 12
  18. bị can, bị cáo; tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; nguyên nhân và điều kiện phạm tội; những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt và các vấn đề khác có ý nghĩa xác định sự thật vụ án và phục vụ công tác phòng ngừa tội phạm. Để chứng minh tội phạm, xác định sự thật vụ án, cơ quan có thẩm quyền tiến hành hoạt động thu tập chứng cứ theo quy định của Bộ luật TTHS; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án. Với vị trí là người tham gia tố tụng, bị hại có vai trò quan trọng trong việc xác định sự thật vụ án. Điều này thể hiện ở việc cung cấp cho cơ quan tiến hành tố tụng những tình tiết liên quan đến việc giải quyết vụ án hình sự. Theo quy định tại Điều 86, Bộ luật TTHS năm 2015: “Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án”. Như vậy, những thông tin, tài liệu, vật chứng mà bị hại cung cấp, đặc biệt lời khai của bị hại có nội dung trình bày về những tình tiết vụ án, quan hệ giữa bị hại và các đối tượng liên quan; quan hệ giữa bị hại và bị can, bị cáo, được thu thập đúng trình tự, thủ tục TTHS. Với vai trò bảo vệ lợi ích cá nhân trong vụ án hình sự thông qua quyền yêu cầu khởi kiện dân sự trong vụ án hình sự là cơ sở quan trọng để cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là cơ quan điều tra, định hướng điều tra; việc bị hại cung cấp những thông tin, tài liệu, tình tiết liên quan giúp cơ quan tiến hành tố tụng trong việc điều tra, khám phá tội phạm, thu thập chứng cứ để làm sáng tỏ những vấn đề cần chứng minh nhằm giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Trong một số trường hợp thông tin, tài liệu, chứng cư, lời khai của bị hại còn là căn cứ để khởi tố vụ án, khởi tố bị can. 1.1.2.3. Xác định thiệt hại do tội phạm gây ra Bị hại là đối tượng bị hành vi phạm tội của tội phạm gây thiệt hại trực tiếp đến thể chất, tinh thần, tài sản, uy tín, danh dự, nhân phẩm… cho nên mong muốn được bù đắp thiệt hại do tội phạm gây ra của bị hại là “quyền” chính đáng của bị hại trên cả phương diện tình cảm và pháp luật. Trên thực tế “quyền” này của bị hại không giống nhau: có bị hại mong muốn được bù đắp, bồi thường thiệt hại trên mức thiệt hại thực tế; có bị hại mong muốn bồi thường thiệt hại bằng mức độ thiệt hại thực tế; cá biệt có 13
  19. trường hợp vì cho rằng thiệt hại không đáng kể, “ái ngại” trước hoàn cảnh khó khăn của tội phạm hoặc vì động cơ có tính chất vụ lợi khác, mà bị hại không yêu cầu việc bồi thường thiệt hại. Vì vậy, những thông tin, tài liệu, vật chứng do bị hại cung cấp là căn cứ quan trọng đề xác định thiệt hại do tội phạm gây ra. Tuy nhiên, trên thực tế, do bị hại trong vụ án hình sự bị hành vi phạm tội gây thiệt hại trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại nên sẽ tác động đến tâm lí bị hại ở những mức độ khác nhau, chi phối, điều khiển hành vi của bị hại. Đối với những bị hại bị hành vi xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm (như trong vụ án hiếp dâm, cưỡng dâm..) hoặc bị hại có những hành vi sai trái về mặt đạo đức, có hành vi vi phạm pháp luật; tâm lí lo sợ bị ảnh hưởng đến địa vị chính trị, hạnh phúc, danh dự của bản thân, gia đình, người thân hoặc của cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức khác có liên quan đã làm cho bị hại không thể khai báo, cung cấp thông tin, tài liệu, vật chứng một cách khách quan, đúng đắn, chính xác, toàn diện. Từ thực tiễn trên, để xác định thiệt hại do tội phạm gây ra, thì bị hại có vai trò quan trọng, nhưng không quyết định đến việc xác định thiệt hại. Cơ quan tiến hành tố tụng cần thu thập thông tin, tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau, đánh giá cẩn trọng, chính xác các thông tin, tài liệu, vật chứng từ bị hại cung cấp để xác định tính đúng đắn, khách quan, phù hợp với các tình tiết, tài liệu liên quan vụ án hình sự. 1.2. Nội dung về địa vị pháp lý của bị hại trong tố tụng hình sự Địa vị pháp lý của chủ thể pháp luật là tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể, qua đó xác lập cũng như giới hạn khả năng của các chủ thể trong các hoạt động của mình. Ví dụ: Địa vị pháp lý cơ bản của công dân được thể hiện thành tổng thể các quyền và nghĩa vụ của công dân được Hiến pháp và pháp luật quy định. Thông qua địa vị pháp lý có thể phân biệt chủ thể pháp luật này với chủ thể pháp luật khác, đồng thời, cũng có thể xem xét vị trí và tầm quan trọng của chủ thể pháp luật trong các mối quan hệ pháp luật Theo Từ điển Luật học thì địa vị pháp lý của chủ thể pháp luật là vị trí của chủ thể pháp luật trong mối quan hệ với chủ thể pháp luật khác trên cơ sở các quy định của pháp luật thể hiện thành một tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể, qua đó xác lập cũng như giới hạn khả năng của chủ thể trong các hoạt động của mình. Thông qua địa vị pháp lý có thể phân biệt chủ thể pháp luật này với chủ thể pháp luật 14
  20. khác, đồng thời xem xét vị trí và tầm quan trọng của chủ thể pháp luật trong các mối quan hệ pháp luật. Một người có địa vị pháp lý là Bị hại (tham gia tố tụng với tư cách là bị hại: một chủ thể tham gia tố tụng) thì sẽ có các quyền và nghĩa vụ nhất định theo quy định của PLTTHS. Tuy nhiên, địa vị pháp lý của bị hại không chỉ là quyền và nghĩa vụ của bị hại. Hiểu một cách đầy đủ và theo nghĩa rộng nhất, địa vị pháp lý của Bị hại không chỉ bao gồm quyền và nghĩa vụ của Bị hại mà còn được quyết định bởi mô hình TTHS, chức năng của TTHS, các nguyên tắc của TTHS, vai trò, vị trí của Bị hại trong các hoạt động tố tụng và đặc biệt là các địa vị pháp lý của các chủ thể khác (như điều tra viên, hay địa vị của bị can bị cáo, đặc biệt là địa vị của luật sư bảo vệ quyền của bị hại...) cũng ảnh hưởng trực tiếp đến địa vị pháp lý của bị hại. Tức là quyền và nghĩa vụ của Bị hại chỉ là 2 yếu tố, 2 nội dung chính quyết định địa vị pháp lý của bị hại. Ví dụ: Địa vị pháp lý của bị hại trong mô hình tố tụng thẩm vấn khác với địa vị của bị hại trong mô hình tranh tụng. Nguyên tắc Do giới hạn luận văn và khả năng nghiên cứu của học viên cũng như do giới hạn của đề tài chỉ nghiên cứu địa vị pháp lý của bị hại theo PLTTHS Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh, nên đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu địa vị pháp lý của bị hại theo nghĩa hẹp, chỉ bao gồm 2 nội dung cơ bản quyết định địa vị pháp lý của chủ thể này là quyền và nghĩa vụ bị hại (theo PLTTHS Việt Nam) mà không nghiên cứu về sự ảnh hưởng của mô hình tố tụng, các nguyên tắc và các chức năng của tố tụng ảnh hưởng đến địa vị pháp lý của bị hại. 1.2.1. Quyền của bị hại Trong vụ án hình sự, bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra. Do đó để bảo vệ những quyền lợi chính đáng của bị hại thì phải được thực hiện một số quyền nhất định. Khác với quyền con người nói chung, quyền của người bị hại (bị hại theo quy định Bộ luật TTHS năm 2015) trong TTHS là “Quyền có điều kiện chỉ phát sinh khi cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức bị hành vi phạm tội trực tiếp gây thiệt hại và họ tham gia chủ động hay bị động vào quá trình tố tụng” [27, Tr54]. Là người bị tội phạm trực 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2