intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Thực hành quyền công tố đối với tội cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh Hải Dương

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:71

30
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu pháp luật về THQCT nói chung và thực tiễn áp dụng đối với tội cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Hải Dương nói riêng. Chỉ rõ những thành tựu và những điểm hạn chế còn tồn tại, qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động THQCT đối với các vụ án cướp tài sản. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Thực hành quyền công tố đối với tội cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh Hải Dương

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THANH TÙNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN TỈNH HẢI DƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ HÀ NỘI, 2019
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THANH TÙNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN TỈNH HẢI DƯƠNG Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. TRẦN VĂN ĐỘ HÀ NỘI, 2019
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 Chương 1: CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN ....................................................... 6 1.1. Lý luận về thực hành quyền công tố của viện kiểm sát trong vụ án hình sự................................................................................................................ 6 1.2. Thực hành quyền công tố đối với tội cướp tài sản.............................. 13 Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN Ở TỈNH HẢI DƯƠNG.................................. 26 2.1. Khái quát đặc điểm kinh tế xã hội và tình hình tội phạm cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Hải Dương ............................................................... 26 2.2. Thực tiễn thực hành quyền công tố với tội cướp tài sản ở tỉnh Hải Hương ...................................................................................................... 32 Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN ................. 45 3.1. Sửa đổi một số quy định pháp luật về thực hành quyền công tố ......... 45 3.2. Các giải pháp khác nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố với tội cướp tài sản ................................................................................... 49 KẾT LUẬN ................................................................................................. 61 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 63
  4. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật Hình sự BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT Cơ quan điều tra ĐTV Điều tra viên HĐXX Hội đồng xét xử KSV Kiểm sát viên TAND Tòa án nhân dân TP Thẩm phán VKS Viện kiểm sát THQCT Thực hành quyền công tố VKSND Viện kiểm sát nhân dân n
  5. DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1: Thống kê xử lý tin báo, khởi tố vụ án và xét xử tội phạm Cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Hải Dương từ 2014 đến 2018.......................................................29 Bảng 2.2: Thống kê xử lý tin báo, khởi tố và xét xử các vụ án cướp tài sản ..........33 trên địa bàn thành phố Hải Dương từ 2014 -2018 [31] ...........................................33
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Theo quy định tại Điều 107 Hiến pháp 2013 và Điều 3 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) thì VKSND thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình bằng công tác thực hành quyền công tố (THQCT) và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong đó có hoạt động THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết cac vụ án hình sự nhằm góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, từ đó xây dựng và gìn giữ nền pháp chế xã hội chủ nghĩa. Có thể thấy rằng, vai trò của VKSND là rất quan trọng, được ví như một “đối trọng” trong lĩnh vực tư pháp với các cơ quan nắm quyền tư pháp như Tòa án nhân dân, Công an, nhằm loại trừ nguy cơ áp dụng pháp luật sai sót hoặc thậm chí lợi dụng quyền hạn, chức vụ để thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật hình sự và tố tụng hình sự. Tỉnh Hải Dương nằm trong vùng Đồng bằng sông Hồng, thuộc khu vực trọng điểm kinh tế của Bắc bộ, là nơi kết nối giữa ba trung tâm kinh tế hàng đầu của cả nước (Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh). Với vị trí thuận lợi như vậy, tỉnh Hải Dương đang trên đà phát triển mọi mặt về kinh tế, văn hóa xã hội. Nhưng đi kèm với sự phát triển kinh tế, tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Hải Dương có diễn biến phức tạp, nhiều vụ án xảy ra có tính chất, mức độ nghiêm trọng, gây hoang mang cho quần chung nhân dân (trong giai đoạn từ 2014 đến 2018 chỉ trong vòng 05 năm đã diễn ra tới 118 vụ án Cướp tài sản). Với đặc điểm là nơi kết nối các vùng kinh tế, mật độ dân cư đông đúc, có nhiều tuyến đường huyết mạch, tình hình tội phạm Cướp tài sản có xu hướng gia tăng và trở nên ngày càng phổ biến. Trong quá trình đấu tranh phòng chống loại tội phạm này, cùng với các cơ quan có thẩm quyền, VKSND các cấp của tỉnh Hải Dương đã tích cực, chủ động trong việc thực 1
  7. hiện chức năng THQCT với các tội phạm nói chung và tội phạm cướp tài sản nói riêng. Tuy nhiên, qua thực tiễn, công tác THQCT vẫn bộc lộ nhiều hạn chế. Trong nhiều vụ việc, vì nhiều lý do (chủ yếu liên quan đến năng lực của kiểm sát viên), mà công tác THQCT còn tồn tại nhiều sai phạm, như bỏ lọt tội phạm hoặc không phát hiện và can thiệp kịp thời với các hành vi vi phạm pháp luật tố tụng hình sự của nhiều vụ án. Những sai phạm này được phát hiện trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự nói chung và các vụ án cướp tài sản nói riêng. Tội cướp tài sản được đánh giá là loại tội phạm nguy hiểm cho xã hội, xâm hại trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người dân – là một quyền hiến định. Ngoài ra, loại tội phạm này còn có tác động xấu đến tâm lý người dân, gây hoang mang, bức xúc bởi đặc điểm luôn sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực. Nếu công tác phòng chống loại tội phạm này không hiệu quả rất dễ mất niềm tin của quần chúng nhân dân vào ngành tư pháp và việc đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Từ những phân tích trên, tác giải quyết định chọn đề tài “Thực hành quyền công tố đối với tội cướp tài sản từ thực tiễn tỉnh Hải Dương “ làm đề tài luận văn cao học luật. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Thực hành quyền công tố là một trong những chức năng cơ bản của VKSND. Hoạt động nghiên cứu về lý luận và thực tiễn có liên quan đến công tác THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND đã có nhiều công trình tập trung nghiên cứu như: “Nâng cao chất lượng kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố với vấn đề thông khâu và chuyên khâu trong công tác kiểm sát hình sự” - đề tài nghiên cứu cấp bộ, do Ngô Văn Đọn làm 2
  8. chủ biên, năm 2004; “Quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp”, của Lê Hữu Thể (chủ biên), Đỗ Văn Đương, Nông Xuân Trường, năm 2008; Luận văn thạc sĩ “Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Nam Định” của tác giải Phạm Văn Chủng năm 2012; Luận văn thạc sĩ “Các chức năng của Viện Kiểm sát nhân dân trong giai đoạn điều tra đối với các vụ án cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Hải Dương” của tác giả Chu Minh Long năm 2012… Mặc dù có nhiều công trình khoa học nghiên cứu hoặc tài liệu giảng dạy ở những góc độ, phạm vi khác nhau về THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật ở các giai đoạn khác nhau của tố tụng hình sự trong đó có nghiên cứu về THQCT với một số loại tội phạm. Nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu, khảo sát về THQCT đối với tội phạm cướp tài sản trong tình hình mới, mang tính cập nhật trong bối cảnh loại tội phạm này diễn biến phức tạp và có phạm vi nghiên cứu trên địa bàn cụ thể là tỉnh Hải Dương. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu pháp luật về THQCT nói chung và thực tiễn áp dụng đối với tội cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Hải Dương nói riêng. Chỉ rõ những thành tựu và những điểm hạn chế còn tồn tại, qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động THQCT đối với các vụ án cướp tài sản. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu những quy định cụ thể về vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong hoạt động THQCT, đi sâu vào hoạt động THQCT với tội cướp tài sản. 3
  9. - Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn hoạt động THQCT với tội cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Hải Dương và , đồng thời phân tích làm rõ những tồn tại, hạn chế. và nguyên nhân. - Đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong hoạt động THQCT và đặc biệt là trong việc THQCT với tội cướp tài sản. 3.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động THQCT với các vụ án cướp tài sản. Đề tài xác định phạm vi nghiên cứu là hoạt động THQCT các vụ án cướp tài sản trong thời gian từ năm 20145 đến năm 2018 trên địa bàn tỉnh Hải Dương. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu - Phương pháp luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác – xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính sách hình sự, về xây dựng Nhà nước pháp quyền, … - Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp cụ thể như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp, phương pháp thống kê… 5. Những điểm mới đóng góp của luận văn - Luận văn tiến hành khảo cứu chuyên sâu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động THQCT các vụ án cướp tài sản. - Luận văn đánh giá, phân tích những hạn chế trong hoạt động của VKSND khi THQCT các vụ án cướp tài sản, qua đó đề xuất các giải pháp góp 4
  10. phần nâng cao hiệu quả hoạt động của VKSND trong hoạt động THQCT với các vụ án cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Hải Dương, là nguồn ý kiến tham khảo nhằm nâng cao hoạt động của VKSND nói chung. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về hoạt động của VKSND khi THQCT trong các vụ án cướp tài sản, góp phần xây dựng, hoàn thiện các tri thức khoa học Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự và khoa học Điều tra hình sự. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các Cơ quan điều tra (CQĐT), VKS, Tòa án và cơ quan thi hành án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Các vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố đối với tội cướp tài sản. Chương 2: Thực trạng thực hành quyền công tố với tội cướp tài sản ở tỉnh Hải Dương. Chương 3: Các giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố với tội cướp tài sản ở tỉnh Hải Dương. 5
  11. Chương 1 CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN 1.1. Lý luận về thực hành quyền công tố của viện kiểm sát trong vụ án hình sự 1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong vụ án hình sự Trước khi đi vào phân tích khái niệm thực hành quyền công tố, việc tìm hiểu nguồn gốc của cụm từ “công tố” và cụm từ “kiểm sát” là hữu ích để hình dung và từ đó hiểu bản chất của các khái niệm trên dưới góc nhìn pháp lý. Có thể thấy, bản thân “công tố” là một từ Hán – Việt. Theo phần dịch nghĩa tại một số từ điển Hán – Việt [12, Tr.132 ], từ “công” (公 ) mang ý nghĩa “thuộc về nhà nước”; và từ “tố” ( 诉 ) mang ý nghĩa “ vạch tội” và “buộc tội trước tòa án”; từ khái niệm đó, cơ quan nhà nước được ghi nhận phổ biến trong lịch sử thế giới (tại một số nước như Hàn Quốc, Nga, Trung Quốc) thực hiện vai trò công tố (nguyên nghĩa Hán – Việt) được gọi là “công tố viện” (公訴院) [23]. Với cách tìm hiểu tương tự như trên, từ “kiểm” ( 检) mang ý nghĩa “tra xét” hay “xem xét việc làm đúng hay sai”; từ “sát” (察) mang ý nghĩa “xem xét kỹ lưỡng”, từ này thường được sử dụng phổ biến trong các văn bản đề cập đến các cơ quan nhà nước; trong lịch sử phong kiến Trung Quốc, tồn tại một cơ quan nhà nước với chức năng giám sát hoạt động của quan lại và các cơ quan nhà nước khác với tên gọi là “sát viện” (察院) [12, Tr.923]. Trong tiếng Việt, cụm từ “công tố” cũng được nhắc đến và giải thích với ý nghĩa là “điều tra, truy tố và buộc tội kẻ phạm pháp trước tòa án” [14]. Ý nghĩa này hoàn toàn phù hợp với ý nghĩa nguyên gốc của các cụm từ Hán Việt vừa được đề cập mà không có sự thay đổi. 6
  12. Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, việc sử dụng cụm từ “công tố” và “kiểm sát” được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp luật nói chung và pháp luật về tư pháp nói riêng. Trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980, có quy định rõ về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát như sau: “Viện kiểm sát nhân dân Tối cao nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam kiểm sát việc tuân theo pháp luật ..., thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất” [15]. Bằng quy định Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, Hiến pháp 1992 (được sửa đổi năm 2001) và Hiến pháp 2013 khẳng định chức năng chính của Viện kiểm sát là thực hành quyền công tố và thu hẹp phạm vi kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát: “ Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”[16]. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và các văn bản pháp luật tố tụng hình sự khác cụ thể hoá chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát[8]. Như vậy, có thể thấy rằng, khái niệm công tố theo ý nghĩa pháp lý không được quy định, giải thích cụ thể mà chỉ được đề cập đến (được công nhận) trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam. Thông qua ý nghĩa “vạch tội” hay “buộc tội”, có thể thấy khái niệm công tố gắn bó trực tiếp với lĩnh vực tư pháp hình sự. Tuy nhiên, việc pháp luật Việt Nam quy định chức năng và nhiệm vụ của Viện Kiểm sát bao gồm cả lĩnh vực kiểm sát hoạt động tư pháp (nói chung), đã mở rộng phạm vi chức năng nhiệm vụ này sang các lĩnh vực khác như dân sự, kinh tế. Dưới góc độ tư duy lập pháp, có thể thấy cơ quan soạn thảo áp dụng sự phân định rạch ròi quyền công tố và hoạt động kiểm sát tư pháp. Cụ thể là “quyền công tố” gắn với việc điều chỉnh các quan hệ pháp luật hình sự (cụ thể là việc giải quyết các vụ án hình sự) và “kiểm sát tư pháp” gắn với những quan hệ pháp luật khác. Trong khuôn khổ 7
  13. luận văn, tác giả chỉ đề cập và đưa ra khái niệm về quyền công tố gắn với lĩnh vực pháp luật hình sự. Qua những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về quyền công tố trong vụ án hình sự như sau: Quyền công tố trong vụ án hình sự là một quyền của nhà nước, được giao cho (Viện Kiểm sát) thực hiện, nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đưa chủ thể phạm tội ra xét xử trước tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó tại phiên tòa. Trước khi Viện Kiểm sát ra đời, tại Việt Nam đã tồn tại Viện Công tố như một sự áp đặt mô hình tổ chức của Cộng hòa Pháp lên nước ta trong thời kỳ Pháp thuộc (1884-1945). Về mặt tổ chức, Viện Công tố Pháp là một chế định được đặt trong hệ thống Toà án, nhưng không lệ thuộc vào Toà án (những quy định về Viện công tố nằm trong các văn bản quy phạm pháp luật về Tổ chức tòa án). Hệ thống cơ quan Công tố Pháp gồm có: Viện công tố nằm trong các Toà án sơ thẩm thẩm quyền rộng; Viện Công tố tại Toà phúc thẩm; Viện công tố bên cạnh Toà án phá án. Về mặt nhân sự và quản lý hành chính Viện công tố trực thuộc Bộ tư pháp và Viện công tố không phải là mối quan hệ chỉ đạo trực tiếp mà là thông qua giám sát hoạt động của Viện công tố. Các công tố viên là viên chức nhà nước nhưng không phụ thuộc vào cơ quan hành pháp[7]. Để ban hành văn bản pháp luật cho lĩnh vực tư pháp tại Việt Nam thời thuộc pháp, ngày 17 tháng 6 năm 1889, Tổng thống Pháp ký ban hành Sắc lệnh cải tổ tổ chức tư pháp tại Nam Kỳ. Sắc lệnh gồm 8 phần, 146 điều, trong đó có quy định về chế định Viện Công tố như sau: “Chức năng của Viện Công tố do biện lý và thẩm phán thay biện lý đảm nhiệm trước Toà án Sài Gòn và do biện lý đảm nhiệm trước các toà án nằm trong khu vực Nam Kỳ”[24]. 8
  14. Về mặt lý luận, quyền công tố trong vụ án hình sự được định nghĩa là một quyền cụ thể của nhà nước, thì về mặt thực tiễn, việc thực hành quyền công tố được cụ thể hóa thành chức năng, nhiệm vụ và hoạt động của các cơ quan tố tụng hình sự theo quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật. Xuất phát từ khái niệm quyền công tố trong vụ án hình sự, tác giả luận văn đưa ra khái niệm thực hành quyền công tố trong vụ án hình sự như sau: “Thực hành quyền công tố trong vụ án hình sự là việc Viện Kiểm sát sử dụng các quyền năng pháp lý do pháp luật quy định để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự chủ thể tội phạm và đưa chủ thể tội phạm ra xét xử trước tòa án”. 1.1.2. Đối tượng của việc thực hành quyền công tố trong vụ án hình sự. Luật hình sự là một hệ thống các quy phạm pháp luật xác định những hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là các tội phạm và hình phạt áp dụng cho người (cá nhân) hoặc tổ chức (pháp nhân) phạm tội. Luật hình sự duy trì trật tự xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã hội, của cơ quan, tổ chức, của công dân và của con người. Khi một vụ án hình sự xảy ra, tức là đã có hành vi khách quan xâm phạm vào các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức hoặc của Nhà nước. Để thực thi pháp luật hình sự, Cơ quan điều tra tiến hành điều tra tội phạm khi phát hiện dấu hiệu tội phạm. Một khi tội phạm đã được cấu thành theo quy định của Bộ luật hình sự, Viện kiểm sát sẽ thực hành quyền công tố của mình nhằm xác định một cách chính xác khung hình phạt, mức hình phạt cho người có hành vi phạm tội để tiến hành xét xử tại Tòa án. Như vậy, đối tượng của việc thực hành quyền công tố trong vụ án hình sự là hành vi phạm tội và chủ thể phạm tội. * Việc thực hành quyền công tố đối với hành vi phạm tội 9
  15. Nội dung thực hành quyền công tố đối với hành vi phạm tội của Viện Kiểm sát được tiến hành trên cơ sở các quy định của Điều 16 Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân 2014. Về mặt tổng quát, việc thực hành quyền công tố đối với hành vi phạm tội nhằm các mục đích xác định một hành vi có cấu thành tội phạm hay không dựa trên hồ sơ vụ án và kết luận điều tra của Cơ quan điều tra và hoạt động tự chứng minh của mình để không làm oan người vô tội đồng thời không bỏ lọt tội phạm. Cơ sở pháp lý để Viện Kiểm sát thực hành quyền công tố đối với hành vi phạm tội được quy định tại các Khoản 2; Khoản 3; Khoản 4; Khoản 9 của Điều 16 Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân 2014, bao gồm: - Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu liên quan đến vụ án trong trường hợp cần thiết. - Trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra nhằm kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ để quyết định việc truy tố hoặc khi Tòa án yêu cầu điều tra bổ sung mà xét thấy không cần phải trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra. - Quyết định khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong trường hợp phát hiện vụ án còn có hành vi phạm tội, người phạm tội khác chưa được khởi tố, điều tra và trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung. - Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác để quyết định việc truy tố theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. * Việc thực hành quyền công tố đối với chủ thể phạm tội Ngày 01/01/2018, Bộ luật hình sự (BLHS) số 100/2015/QH13 được sửa đổi bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 (sau đây gọi là Bộ luật hình sự 2015) đã chính thức có hiệu lực thi hành. Đây là lần đầu tiên chế định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại được quy định trong luật 10
  16. hình sự Việt Nam, tạo ra một trong những thay đổi quan trọng nhất của BLHS 2015, do đó, cần thiết phải thay đổi khái niệm người phạm tội trở thành chủ thể phạm tội. Về mặt tổng quát, việc thực hành quyền công tố đối với chủ thể phạm tội nhằm mục đích: Ngăn chặn sự đối phó của chủ thể phạm tội với các hoạt động điều tra, truy tố (thông qua các biện pháp ngăn chặn); Truy tố chủ thể phạm tội về tội danh và đề xuất khung hình phạt đúng quy định của Bộ luật Hình sự. Cơ sở pháp lý để Viện Kiểm sát thực hành quyền công tố đối với chủ thể phạm tội được quy định tại các Khoản 1; Khoản 5; Khoản 6; Khoản 7 và Khoản 8 của Điều 16 Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân 2014, bao gồm : - Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm Formatted: Font: Italic giam, các biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền công dân theo quy định của luật; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can. - Quyết định việc tách, nhập vụ án, chuyển vụ án để truy tố theo thẩm quyền, áp dụng thủ tục rút gọn, áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. - Quyết định gia hạn, không gia hạn thời hạn truy tố, thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn. - Quyết định truy tố, không truy tố bị can. - Quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án, bị can; quyết định phục hồi vụ án, bị can. 1.1.3. Phạm vi của việc thực hành quyền công tố trong vụ án hình sự. Xét về phạm vi thực hành quyền công tố, khi Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 chưa có hiệu lực, tồn tại quan điểm cho rằng phạm vi thực hành quyền công tố trong vụ án hình sự chỉ bắt đầu từ giai đoạn điều tra (từ khi tiếp nhận tin báo về tội phạm) cho đến khi ra quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Cơ sở của quan điểm này xuất phát 11
  17. bản chất của khái niệm “công tố” đó là buộc tội. Việc thực hành công tố do đó chỉ bó hẹp trong phạm vi từ khi Cơ quan điều tra có kết luận điều tra và Viện kiểm sát quyết định việc truy tố bị can (thể hiện quan điểm buộc tội trong bản cáo trạng). Theo đó, tại Quy chế Thực hành quyền công tố và Kiểm sát điều tra vụ án hình sự ban hành kèm theo Quyết định số 07/2008/QĐ-VKSTC ngày 02/1/2008 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (gọi tắt là quy chế THQCT & KSĐT), phạm vi của việc thực hành quyền công tố trong vụ án hình sự có phạm vi bắt đầu từ khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm xảy ra đến khi kết thúc việc điều tra, Viện kiểm sát ra quyết định truy tố hoặc đình chỉ vụ án theo quy định của pháp luật [27]. Tuy nhiên, sau khi Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 có hiệu lực thi hành, phạm vi thực hành quyền công tố đã được mở rộng, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự [17]. Theo đó, việc thực hành quyền công tố được tiến hành theo hai giai đoạn được điều chỉnh bởi hai văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Thứ nhất, khi có tin báo về tội phạm, việc thực hiện quyền công tố của Viện kiểm sát được tiến hành căn cứ vào quy định tại Quy chế tạm thời công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố [28]. Thứ hai, sau khi kết thúc giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố, căn cứ vào Quy chế công tác Thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vụ án hình sự, ban hành kem theo Quyết định 505/QĐ- VKSTC ngày 18/12/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao, phạm vi thực hành quyền công tố trong vụ án hình sự bắt đầu từ khi Viện kiểm sát chuyển bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn cùng hồ sơ 12
  18. vụ án đến Tòa án để xét xử và kết thúc khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo, kháng nghị hoặc không bị yêu cầu, kiến nghị, đề nghị xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. 1.2. Thực hành quyền công tố đối với tội cướp tài sản 1.2.1. Khái niệm và các đặc điểm pháp lý của tội cướp tài sản 1.2.1.1. Khái niệm pháp lý của tội cướp tài sản Trong luật hình sự Việt Nam, tội cướp tài sản là một trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt được quy định và xét xử theo luật hình sự. Tội cướp tài sản quy định tại Điều 168 Bộ luật hình sự năm 2015. Trước đó hành vi cướp tài sản được quy định tại Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1999. Trên cơ sở Điều 133 BLHS và các quy định khác trong BLHS thì Theo quy Formatted: Font: Italic định của điều luật thìội cướp tài sản là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ Formatted: Font: Italic lực ngay tức khắc vũ lực hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm Formatted: Font: Italic vào tình trạng không thể tự vệ được, do người từ đủ 14 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự cố ý thực hiện nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác dùng thủ đoạn khác làm cho người bị tấn công không thể chống trả Formatted: Font: Italic được nhằm chiếm đoạt tài sản. So với các quy định cũ đã có nhiều sửa đổi bổ sung, nhất là đối với các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt, quy định cụ thể hơn, dễ áp dụng hơn và đã bỏ hình phạt tử hình đối với tội danh này. 1.2.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội cướp tài sản Dấu hiệu thuộc khách thể của tội cướp tài sản; đối tượng của tội phạm Về khách thể mà tội phạm hướng tới, khách thể của tội phạm bao gồm cả quan hệ về tài sản và quan hệ nhân thân. Một người phạm tội cướp tài sản đã trực tiếp xâm hại quyền sở hữu tài sản của cá nhân được pháp luật bảo vệ, và thông qua các hành vi phạm tội (hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực 13
  19. ngay tức khắc; thủ đoạn khác làm cho nạn nhân lâm vào tình trạng không thể chống cự được) người phạm tội cũng xâm hại đến sức khỏe, tính mạng của nạn nhân. Đây cũng là đặc trưng cơ bản của tội cướp tài sản, nếu chỉ xâm phạm đến một trong hai quan hệ xã hội thì chưa phản ảnh đầy đủ bản chất của tội cướp tài sản, đây cũng là dấu hiệu để phân biệt tội cướp tài sản với các tội khác xâm phạm sở hữu và các tội mà người phạm tội có hành vi dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc nhưng không nhằm chiếm đoạt tài sản. Do tội cướp tài sản cùng một lúc xâm phạm đến hai khách thể, nên trong cùng một vụ án có thể có thể có một người bị hại, nhưng cũng có thể có nhiều người bị hại, có người bị hại chỉ bị xâm phạm đến tài sản; có người bị hại bị xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự; có người bị hại bị xâm phạm đến cả tài sản, tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự. Dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội cướp tài sản Thứ nhất, mặt khách quan của tội cướp tài sản thể hiện qua hành vi dùng vũ lực để phạm tội. Đây là điểm đặc trưng trong cấu thành tội danh Cướp tài sản, dù căn cứ theo quy định tại BLHS năm 1999 hay BLHS hiện hành. Theo đó, người phạm tội dùng vũ lực tác động vào nạn nhân như: Đấm, đá, bóp cổ, bắn, đâm, chém… nhằm chiếm đoạt tài sản. Hậu quả của hành vi sử dụng vũ lực lên cơ thể nạn nhân (gây thương tích hay không gây thương tích) không thay đổi tội danh của người phạm tội. Do đó, tội danh Cướp tài sản là loại tội phạm có cấu thành hình thức. Thứ hai, mặt khách quan của tội cướp tài sản thể hiện qua hành vi đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc. Hành vi đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc được hiểu theo nghĩa: mặc dù chưa sử dụng vũ lực, nhưng người phạm tội dùng lời nói hoặc hành động nhằm đe doạ người bị hại nếu không đưa tài sản thì vũ lực sẽ được thực hiện ngay. Ví dụ: dí dao vào cổ, dí súng vào bụng yêu 14
  20. cầu người bị hại giao ngay tài sản nếu không sẽ bị đâm, bị bắn ...ngay lập tức. Trong trường hợp này, nạn nhân có thể nhận thấy tính mạng, sức khỏe của mình bị đe dọa một cách tức thời và về mặt ý chí, người phạm tội khiến cho nạn nhân hiểu rằng nếu không giao tài sản thì hậu quả xấu xảy ra cho mình là tất yếu. Đây là dấu hiệu rất quan trong để phân biệt tội cướp tài sản với tội cưỡng đoạt tài sản, nếu đe doạ dùng vũ lực nhưng không ngay tức khắc thì đó là là dấu hiệu của tội cưỡng đoạt tài sản. Thứ ba, mặt khách quan của tội cướp tài sản thể hiện ở những hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được. Hai dấu hiệu quan trọng nhất của hành vi này là: Hành vi có mục đích tấn công và Tình trạng không thể chống cự được của nạn nhân. Đây là cách quy định tổng quát và tối ưu vì trên thực tế, người phạm tội cướp tài sản có thể có rất nhiều thủ đoạn nhằm chiếm đoạt tài sản mà không hề sử dụng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc. Với dạng hành vi này, người phạm tội sử dụng các phương thức làm nạn nhân bị ngất, bị choáng váng tức thời do đó không thể bảo vệ tài sản, ví dụ: bỏ thuốc mê vào đồ ăn, đồ uống của nạn nhân làm nạn nhân bất tỉnh; dùng các loại công cụ chích điện làm nạn nhân tê liệt; dùng bình xịt hơi cay để làm nạn nhân choáng váng; đặt các loại bẫy trên đường để nạn nhân bị ngã xe rồi chiếm đoạt tài sản... Về hậu quả và mối quan hệ nhân quả, theo khoa học pháp lý thì tội cướp tài sản là tội phạm có cấu thành hình thức, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành. Người phạm tội có thể đã chiếm đoạt hoặc chưa chiếm đoạt được tài sản, nạn nhân có thể có thiệt hại về tính mạng, sức khỏe hoặc không, nhưng tội danh Cướp tài sản vẫn cấu thành. Hậu quả của tội phạm chỉ là dấu hiệu định khung hình phạt hoặc chỉ là tình tiết để xem xét khi quyết định hình phạt. 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2