intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội cướp giật tài sản từ thực tiễn Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:85

48
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài nghiên cứu này phân tích khái niệm về các dấu hiệu pháp lý, các qui định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp giật tài sản theo Điều 171 BLHS năm 2015 ( Sửa đổi, bổ sung năm 2017). Phân biệt tội cướp giật tài sản với tội trộm cắp tài sản, với tội cưỡng đoạt tài sản, với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản và tội cướp tài sản. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội cướp giật tài sản từ thực tiễn Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN ĐĂNG THÔNG TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN QUẬN 9, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ HÀ NỘI, năm 2020
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN ĐĂNG THÔNG TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN QUẬN 9, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ TƯỜNG VY HÀ NỘI, năm 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn tận tình của TS. Lê Tường Vy. Các số liệu, tài liệu, kết quả được trình bày trong luận văn là hoàn toàn chính xác, khách quan và trung thực không trùng lặp và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Những nội dung trong luận văn có sử dụng tài liệu tham khảo đều được trích dẫn nguồn một cách đầy đủ, chính xác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN NGUYỄN ĐĂNG THÔNG
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ................... 7 1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản ......................... 7 1.2. Lịch sử quy định về tội cướp giật tài sản trong Luật hình sự Việt Nam ..... 12 1.3. Phân biệt tội cướp giật tài sản với một số loại tội khác ............................... 17 Chương 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TẠI QUẬN 9, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ........................................................................ 23 2.1. Tình hình tội cướp giật tài sản tại Quận 9 trong những năm gần đây ......... 23 2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật đối với tội cướp giật tài sản tại Quận 9 ............................................................................................................ 29 2.3. Những khó khăn và nguyên nhân ................................................................ 45 Chương 3. YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TẠI QUẬN 9, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ...................................... 48 3.1. Các yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật đối với tội cướp giật tài sản .................................................................................................. 48 3.2. Một số giải pháp nhằm áp dụng đúng các quy định của pháp luật về tội Cướp giật tài sản.................................................................................................. 52 KẾT LUẬN ........................................................................................................ 75
  5. DANH MỤC VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật hình sự CQĐT : Cơ quan điều tra TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao TNHS : Trách nhiệm hình sự TPHCM : Thành phố Hồ Chí Minh VKS : Viện kiểm sát VKSND : Viện kiểm sát nhân dân XHCN : Xã hội chủ nghĩa
  6. DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Số liệu tình hình khởi tố, truy tố và xét xử tội cướp giật tài sản tại Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh từ 2015 đến 2019 Bảng 2.2: Số vụ án, số bị cáo phạm tội cướp giật tài sản bị Tòa án trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung tại Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh từ 2015 đến 2019 Bảng 2.3: Hình phạt được áp dụng đối với tội cướp giật tài sản tại Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh từ 2015 đến 2019
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quận 9 là một quận nằm ở vị trí cửa ngõ Đông Bắc của Thành phố, nối liền địa bàn kinh tế trọng điểm của khu vực có diện tích 113,896.200 km2, có 13 phường với dân số 235.268 nhân khẩu. Địa bàn Quận 9 vốn là vùng sâu vùng xa nông thôn của huyện Thủ Đức cũ, là vùng oanh kích tự do của quân đội Mỹ và Sài Gòn trước kia, nên còn yếu kém nhiều về mọi mặt so với các quận, huyện khác của Thành phố. Với điểm xuất phát thấp, kinh tế phát triển không đồng đều, phần lớn là sản xuất nông nghiệp, ngành công nghiệp –tiểu thủ công nghiệp, thương mại - dịch vụ phát triển chậm, đời sống của nhân dân còn nhiều khó khăn, mặt bằng dân trí thấp, cơ sở hạ tầng còn nhiều hạn chế, yếu kém. Tuy nhiên nhờ được sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Thành ủy - UBND Thành phố, sự giúp đỡ của các Sở, ban, ngành Thành phố; sự lãnh đạo sâu sát của Quận ủy, sự chủ động động trong quản lý, điều hành của chính quyền, sự phối hợp có hiệu quả của Mặt trận và các đoàn thể, sự nỗ lực to lớn của nhân dân, công cuộc xây dựng và phát triển của Quận 9 đã đạt được những thành tựu nổi bật, làm thay đổi diện mạo của quận vùng ven một cách toàn diện và sâu sắc. Trên địa bàn Quận có thêm nhiều khu công nghiệp, đặc biệt có Khu công nghệ cao của Thành phố. Đang hình thành nhiều khu đô thị mới, tập trung và thu hút ngày càng đông dân cư đến sinh sống, học tập và làm việc. Do đó tình hình tội phạm trên địa bàn quận cũng có những diễn biến rất phức tạp, ngày một gia tăng cả về số lượng lẫn thủ đoạn phạm tội có thể nói ngày càng tinh vi hơn, trong đó có tội cướp giật tài sản xảy ra khá nhiều trong thời gian gần đây với những thủ đoạn vô cùng manh động và liều lĩnh. Tội cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 9, TPHCM so với tổng số tội phạm hình sự được khởi tố là lớn, từ năm 2015 đến năm 2019 CQĐT đã khởi 1
  8. tố từ nguồn tố giác, từ các tin báo về tội phạm và từ việc bắt quả tang với tổng số 93 vụ/ 139 bị can Trước tình hình đó, công tác đấu tranh phòng chống tội phạm luôn được các cấp có thẩm quyền trên địa bàn Quận 9 quan tâm. Được thể hiện rõ qua chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử được quan tâm chú trọng và hiệu quả nâng lên rõ rệt một phần là có sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan tiến hành tố tụng. Tất cả các vụ cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 9 đều được đưa ra xét xử nghiêm minh theo đúng quy định của pháp luật. Song bên cạnh đó, công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 9 vẫn còn nhiều hạn chế do nhiều nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan. Chính vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài “Tội cướp giật tài sản từ thực tiễn Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh” làm luận văn Thạc sĩ của mình là vấn đề phù hợp cả về lý luận và thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong thời gian qua, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về tội cướp giật tài sản, những công trình này nghiên cứu ở những góc độ và phạm vi khác nhau. Cụ thể như sau: 2.1. Nhóm Các luận án luận văn - Trần Hữu Nghĩa (2014), Tội cướp giật tài sản theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Đại học Quốc Gia Hà Nội; - Nông Anh Vượng (2016), Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên, Luận văn Thạc sĩ, Học viện KHXH; - Trần Văn Đông (2017), Phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ, Học viện KHXH; - Phạm Tuấn Anh (2018),Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Sóc Sơn, Thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ, Học viện KHXH; 2
  9. Các công trình nghiên cứu trên đều nói đến lý luận và pháp luật về tội cướp giật tài sản, đặc điểm của tình hình tội phạm nói chung,phân tích những những đặc điểm của tội phạm cướp giật tài sản ở mỗi thời kỳ, mỗi vùng lãnh thổ - hành chính nhất định. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu khoa học này đều mang tính toàn diện, chỉ ra các phương pháp và trang bị cho học viên có thể hệ thống các khái niệm và phương hướng nghiên cứu tội cướp giật tài. Tuy nhiên đến thời điểm hiện tại thì chưa chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu nào về tội cướp giật tài sản thực tiễn Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh. 2.2. Nhóm Sách chuyên khảo, giáo trình - Võ Khánh Vinh (2014), Luật hình sự Việt Nam phần chung, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội; - Trịnh Tiến Việt (2001) ,“ Một số điểm mới về các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự năm 1999, Pháp lý; - Trương Quang Vinh (2000), Các tội xâm phạm sở hữu trong BLHS năm 1999, Tạp chí Luật học số tháng 4/2000, Đại học Luật Hà Nội; Đây là một số công trình cung cấp lý thuyết cơ bản, nền tảng về tội phạm nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng. Các công trình này mang tính lý thuyết như: Khái niệm tình hình tội phạm, khái niệm phòng ngừa tội phạm, khái niệm các tội xâm phạm sỏe hữu...Những công trình trên cung cấp cơ sở lý luận để học viên vận dụng nghiên cứu đề tài luận văn của mình. 2.3. Nhóm các bài báo - Nguyễn Tuấn Anh, “Tội phạm xâm phạm sở hữu ở nước ta và giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa, đấu tranh trong tình hình mới”, Tạp chí Cảnh sát nhân dân, số 8/2015; - Nguyễn Mai Bộ, “Về các tội xâm phạm sở hữu”, Tạp chí Tòa án nhân dân , Số 7, 8 và 9/2018; Các bài báo trên đều nêu lên những khái niệm về Tội xâm phạm sở hữu 3
  10. nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng, thực trạng các tội này xảy ra trong thực tiễn. Từ đó tác giả bài báo đưa ra những giải pháp để phòng ngừa đấu tranh các loại tội phạm này, đây cũng là những giải pháp mà học viên tham khảo để áp dụng đề xuất những kiến nghị trong luận văn của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Tác giả nghiên cứu luận văn này trên cơ sở nghiên cứu các lý luận, các quy định của pháp luật, cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn từ năm 2015 – 2019. Từ đó tác giả đề ra các biện pháp đảm bảo việc áp dụng đúng các quy định của pháp luật về tội cướp giật tài sản. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Nhằm đạt được hiệu quả tốt nhất mục đích nghiên cứu đã đặt ra, tác giả tập trung: - Phân tích khái niệm về các dấu hiệu pháp lý, các qui định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp giật tài sản theo Điều 171 BLHS năm 2015 ( Sửa đổi, bổ sung năm 2017). - Phân biệt tội cướp giật tài sản với tội trộm cắp tài sản, với tội cưỡng đoạt tài sản, với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản và tội cướp tài sản. - Phân tích thực tiễn xét xử loại tội phạm này trên địa bàn Quận 9 dựa trên thực tiễn định tội danh và thực tiễn quyết định hình phạt. - Đề xuất các biện pháp đảm bảo việc áp dụng đúng các quy định của pháp luật về tội cướp giật tài sản. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tất cả các quan điểm khoa học, các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp giật tài sản. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài 4
  11. sản trên địa bàn Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu trong phạm vi những vấn đề có liên quan đến tội cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian 05 năm ( từ năm 2015 đến năm 2019). Về thực tiễn luận văn chỉ giới hạn ở định tội danh và quyết định hình phạt của Tòa án nhân dân Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận: Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác- Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tội phạm nói chung; các văn kiện của Đảng và văn bản pháp luật của Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm ở Việt Nam nói riêng trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa. 5.2. Phương pháp nghiên cứu: Nhằm thực hiện các mục tiêu đã đề ra, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây: + Phương pháp lịch sử: Tác giả nêu ra và phân tích các quy định của pháp luật trong BLHS của Việt Nam qua các thời kỳ, Từ đó có cái nhìn tổng thể về pháp luật nói chung quy định của pháp luật Việt Nam đối với tội cướp giật tài sản nói riêng. + Phương pháp điều tra, khảo sát, thống kê hình sự: Trong luận văn tác giả đã thu thập số liệu thống kê qua báo cáo tổng kết và tổng hợp các số liệu của VKSND Quận 9; từ đó tác giả phân tích số liệu theo các tiêu chí đánh giá để phù hợp với mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài luận văn. + Phương pháp khảo sát, phân tích, so sánh : Sử dụng phương pháp này trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã khảo sát tình hình chung, lựa chọn những vụ án điển hình để nghiên cứu phân tích; tổng hợp kết quả phân tích từ các điển hình đã lựa chọn để so sánh, rút ra các đánh giá, nhận xét phù hợp phục vụ cho việc nghiên cứu. 5
  12. + Phương pháp phỏng vấn, trao đổi: Để làm rõ hơn các vấn đề nghiên cứu, nhất là những vấn đề chưa được làm rõ bằng các biện pháp khác, tác giả đã trao đổi, phỏng vấn trực tiếp đối với một số chuyên gia và cán bộ làm công tác thực tiễn phụ trách các vấn đề có liên quan đến đề tài, từ đó làm rõ hơn vấn đề nghiên cứu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn - Ý nghĩa lý luận: Đề tài tác giả chọn nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn về tội cướp giật tài sản góp phần hoàn thiện nội dung quy định của pháp luật về tội cướp giật tài sản. - Ý nghĩa thực tiễn: + Các giải pháp đề xuất trong đề tài góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng. + Đề tài góp phần giải quyết những vướng mắc khi xét xử loại tội này trên thực tế xét xử của Tòa án. + Ngoài ra kết quả nghiên cứu của đề tài còn có thể dùng làm tài liệu giảng dạy cho các trường giảng về Luật và làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm về loại tội phạm này. 7. Kết cấu của luận văn Bố cục của luận văn gồm 03 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội cướp giật tài sản trong luật hình sự Việt Nam Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định của luật hình sự Việt Nam đối với tội cướp giật tài sản tại Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh Chương 3 : Yêu cầu và giải pháp bảo đảm việc áp dụng đúng các quy định của pháp luật đối với tội cướp giật tài sản tại Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh. 6
  13. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản 1.1.1. Khái niệm tội cướp giật tài sản Trước khi làm rõ khái niệm của Tội cướp giật tài sản ta cần làm rõ khái niệm của tội phạm: Khái niệm tội phạm: tại Khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.” [1. Điều 8]. Tội cướp giật tài sản quy định tại Điều 171 BLHS năm 2015: “Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”. Như vậy mặc dù Điều luật chỉ nêu tội danh mà không mô tả hành vi cướp giật tài sản, nhưng căn cứ vào lý luận và thực tiễn xét xử thì tội cướp giật tài sản thường xuất hiện với một số hành vi phổ biến sau: Người phạm tội có hành vi công khai giật lấy tài sản trong tay người khác hoặc đang trong sự quản lý của người có trách nhiệm về tài sản rồi nhanh chóng tẩu thoát. Điểm nổi bật của tội cướp giật tài sản khi so sánh với những tội phạm khác là người phạm tội lợi dụng sơ hở của chủ tài sản hoặc người quản lý tài sản để nhanh chóng giật lấy tài sản mà họ khó có thể giữ được hoặc giằng lại được. thông thường tài sản mà người phạm tội cướp giật 7
  14. có thể là loại tài sản gọn nhẹ như: Đồng hồ, dây chuyền vàng, điện thoại... hoặc những tài sản kồng kềnh như xe đạp, xe máy, ôtô...người phạm tội dùng những tài sản sau khi giật được làm phương tiện tẩu thoát. Yếu tố bất ngờ trong Tội cướp giất tài sản cũng là một dấu hiệu đặc trưng của tội phạm. Hành vi công khai chiếm đoạt tài sản tức là người phạm tội không hề giấu diếm hành vi phạm tội của mình và ngay sau khi bị mất tài sản người bị hại biết ngay người giật tài sản của mình. Trong trường hợp này người phạm tội hoàn toàn không dùng vũ lực để chiếm đoạt tài sản cũng không đe doạ dùng vũ lực hoặc không dùng các thủ đoạn khác nhằm uy hiếp tinh thần của chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản. Có thể thấy tội cướp giật tài sản là một trong những tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt tài sản và người phạm tội thực hiện một cách cố ý. Mục đích chiếm đoạt có trước khi người phạm tội thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Qua nghiên cứu tài liệu, giáo trình Luật hình sự, các bài viết trên tạp chí, bình luận khoa học BLHS và một số tài liệu khác, tác giả có thể khái quát tội cướp giật tài sản như sau: Tội cướp giật tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý bằng cách nhanh chóng giật lấy tài sản của người khác một cách công khai rồi tìm cách tẩu thoát. 1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản 1.1.2.1 Khách thể của tội cướp giật tài sản Tội cướp giật tài sản không chỉ xâm hại đến quyền sở hữu của người khác mà còn xâm hại đến quan hệ nhân thân nhưng trực tiếp vẫn là quan hệ sở hữu đối với tài sản của họ. Điều này đã được thể hiện rất rõ trong điều luật khi quy định Tội cướp giật tài sản đã đưa vào trong cấu thành dấu hiệu về thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ, đây là những tình tiết định khung hình phạt. Hành vi cướp giật tài sản đã gây thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ của 8
  15. người bị hại ví dụ giật tài sản mà gây tai nạn cho người đi đường. Mặc dù việc gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ không phải là đối tượng tác động mà người phạm tội nhằm vào, nhưng vẫn thực hiện, mà bất chấp hậu quả xảy ra. Các tội phạm xâm phạm sở hữu trong chương XVI BLHS năm 2015 đều có chung một khách thể là quan hệ sở hữu chính vì vậy để phân biệt Tội cướp giật tài sản với các tội phạm xâm phạm sở hữu khác, chúng ta phải dựa vào dấu hiệu hành vi khách quan và các dấu hiệu chủ quan khác mà không thể dựa vào yếu tố khách thể. Như vậy có thể khẳng định tội cướp giật tài sản đã đồng thời xâm phạm đến hai quan hệ xã hội là quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân. Đối tượng mà tội phạm tác động đến ở tội cướp giật tài sản là con người cụ thể và tài sản. 1.1.2.2 Mặt khách quan của tội cướp giật tài sản Hành vi khách quan của tội cướp giật tài sản là công khai chiếm đoạt tài sản và nhanh chóng tẩu thoát. Đặc trưng của Tội cướp giật tài sản được chỉ rõ ngay trong tên của điều luật đó là hành vi giật tài sản, tức là giằng lấy, giật lấy tài sản một cách nhanh chóng. Dấu hiệu công khai: Hành vi giật tài sản của người phạm tội được thực hiện một cách công khai khi hình thức thực hiện cho phép chủ tài sản có khả năng biết ngay khi hành vi này xảy ra. Đây cũng là một dấu hiệu đặc trưng để phân biệt với những trường hợp phạm tội có tính lén lút, bí mật, gian dối khác như hành vi trộm cắp, lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tính chất công khai của hành vi cướp giật tài sản chỉ là công khai về hành vi chứ không công khai về nhân thân của người phạm tội. Trong thực tế người phạm tội có che giấu thân phận của mình thì họ vẫn cấu thành tội cướp giật tài sản nếu thực hiện hành hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm. Thực tiễn cho thấy 9
  16. thủ đoạn phạm tội cướp giật tài sản của người phạm tội có thể thực hiện là rất đa dạng như: lợi dụng chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản không chú ý, gặp vướng mắc hoặc các trường hợp khác như lái xe để giật tài sản. Việc phân tích các thủ đoạn mà người phạm tội sử dụng có tác dụng để phân biệt tội cướp giật tài sản với các tội phạm khác ta cũng phải dựa vào thủ đoạn phạm tội này. Dấu hiệu nhanh chóng: Đây là phương thức, thủ đoạn lợi dụng sơ hở hoặc là tạo ra sự sơ hở của chủ tài sản, người phạm tội nhanh chóng tiếp cận, nhanh chóng chiếm đoạt tài sản và nhanh chóng tẩu thoát. Đây là dấu hiệu cơ bản quan trọng, bắt buộc phải có trong mặt khách quan của phạm. Đối với tội cướp giật tài sản thì đa phần tài sản bị chiếm đoạt có đặc điểm là gọn, nhẹ, dễ dịch chuyển hoặc một số trường hợp là tài sản cồng kềnh nhưng sau khi chiếm đoạt người phạm tội lại dùng chính tài sản đó làm phương tiện tẩu thoát như xe máy, ôtô. Chính vì vậy đặc điểm của tài sản cũng là căn cứ để đánh giá thế nào là dấu hiệu nhanh chóng. Trong các dấu hiệu nhanh chóng tiếp cận, nhanh chóng chiếm đoạt tài sản và nhanh chóng tẩu thoát, thì dấu hiệu nhanh chóng chiếm đoạt là dấu hiệu quan trọng nhất, đây là dấu hiệu bắt buộc, không thể thiếu trong cấu thành tội phạm. Dấu hiệu nhanh chóng là một trong những dấu hiệu giúp chúng ta có thể phân biệt tội cướp giật tài sản với các tội khác trong chương các tội xâm phạm sở hữu. Rõ ràng trong mặt khách quan của một số tội phạm xâm phạm sở hữu ở chương này không cần có dấu hiệu nhanh chóng. Ví dụ như tội cướp tài sản, người phạm tội cũng không chiếm đoạt tài sản một cách nhanh chóng mà thông qua hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc, hoặc dùng các thủ đoạn khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản. Hậu quả tội cướp giật tài sản xâm phạm đồng thời đến hai khách thể đó 10
  17. là quyền sở hữu và quyền nhân thân nên hành vi phạm tội cũng sẽ gây ra hậu quả trước hết là những thiệt hại về tài sản, ngoài ra còn có những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ. Qua nghiên cứu về lý luận tội phạm ta thấy tội cướp giật tài sản là tội phạm có cấu thành vật chất, cho nên, tội phạm hoàn thành khi người phạm tội giật được tài sản, nếu người phạm tội chưa giật được tài sản thì thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. Tội cướp giật tài sản là tội phạm nghiêm trọng nên pháp luật hình sự không quy định mức tài sản bị chiếm đoạt là dấu hiệu cấu thành tội phạm. 1.1.2.3 Mặt chủ quan của tội cướp giật tài sản Mặt chủ quan của tội cướp giật tài sản là những biểu hiện bên trong của tội phạm, bao gồm lỗi, động cơ, mục đích. Lỗi của người phạm tội cướp giật tài sản chỉ có thể là lỗi cố ý trực tiếp mà không thể là lỗi có ý gián tiếp hoặc lỗi vô ý. Người phạm tội nhận thức được hành vi cướp giật tài sản là nguy hiểm cho xã hội thấy trước được hậu quả của tội phạm nhưng vẫn mong muốn thực hiện hành vi đó. Người phạm tội cướp giật tài sản chỉ cấu thành tội phạm này khi họ có mục đích chiếm đoạt tài sản. Nếu như các tội cướp, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản hoặc tội cưỡng đoạt tài sản, thì mục đích chiếm đoạt tài sản có thể xảy ra trước, trong và sau khi thực hiện hành vi phạm tội. Nhưng đối với tội cướp giật tài sản mục đích chiếm đoạt tài sản luôn có trước khi người phạm tội thực hiện hành vi giật tài sản. 1.1.2.4 Chủ thể của tội cướp tài sản Chủ thể của tội cướp giật tài sản được quy định trong bộ luật hình sự là người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Người thực hiện hành vi phạm tội không mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác (được cơ quan y tế xác nhận là mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi). 11
  18. Điều 171 BLHS năm 2015 quy định bốn khung hình phạt. Căn cứ vào quy định tại Điều 9 BLHS phân loại tội phạm, tội cướp giật tài sản bao gồm các loại tội nghiêm trọng (Khung 1), rất nghiêm trọng (Khung 2, 3) và đặc biệt nghiêm trọng (Khung 4) thì chủ thể của tội cướp giật tài sản là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi (đối với khoản 1 điều 171) hoặc từ đủ 14 tuổi trở lên (đối với khoản 2, 3 và 4 Điều 171). 1.2. Lịch sử quy định về tội cướp giật tài sản trong Luật hình sự Việt Nam 1.2.1. Giai đoạn trước Bộ luật hình sự 1985 Để tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt động ổn định an ninh trật tự, an ninh chính trị, bảo vệ đất nước non trẻ, bảo vệ thành quả cách mạng, Quốc hội, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản pháp luật. Một trong những nội dung đặc biệt quan trọng được Hiến pháp ghi nhận “quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được đảm bảo” Điều 12 Hiến pháp 1946. Vào thời điểm đó Chủ tịch Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đã ký Sắc lệnh số 47/SL ngày 10/10/1945 về việc áp dụng những văn bản của pháp luật không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa. Sắc lệnh số 26/SL ngày 25/02/1946 quy định các hành vi phá hoại công sản. Khi chưa ban hành được các văn bản pháp luật mới nhà nước ta đã vận dụng pháp luật của chế độ cũ để quản lý xã hội theo tinh thần của nhà nước dân chủ mới và Nhà nước ta cũng đã từng bước ban hành những văn bản pháp luật mới thay thế, góp phần bảo vệ các quan hệ xã hội tiến bộ trong xã hội mới. Ngày 21/10/1970 ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua 2 pháp lệnh mới đó là: Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN tại điều 5 quy định “kẻ nào cướp giật tài sản XHCN thì bị phạt tù từ 1 năm đến 7 năm”, còn tại điều 4 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân có quy định “kẻ nào cướp giật tài sản riêng của công dân thì bị phạt tù từ 3 tháng 12
  19. đến 5 năm” . Đến giai đoạn này có thể nói pháp luật về sở hữu nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng cơ bản đã được thể hiện đầy đủ, toàn diện, độc lập trong một văn bản riêng. Ngoài ra tại thông tư liên bộ của TANDTC – VKSNDTC – BCA ngày 16/03/1973 hướng dẫn cụ thể 2 pháp lệnh kể trên trong đó tội cướp giật tài sản được hiểu là “trường hợp kẻ phạm tội lợi dụng sơ hở vướng mắc của người giữ tài sản, bất thần giằng lấy tài sản trên tay người giữ tài sản” đây là hướng dẫn mà sau nay BLHS đã tách 2 hành vi này thành 2 tội độc lập, với hướng dẫn lợi dụng “vướng mắc” sau này được tách thành tội công nhiên chiếm đoạt tài sản. Còn hướng dẫn “bất thần giằng lấy tài sản trên tay người giữ tài sản” sau này được tách thành tội cướp giật tài sản. Năm1976 chính phủ đã ban hành sắc lênh quy định tội phạm và hình phạt SL/03. Tại đây tội cướp giật tài sản được quy định chung với các tội xâm phạm sở hữu khác tại điều 4. Như vậy các văn bản nói trên là cơ sở pháp lý quan trọng để đấu tranh với các đối tượng phạm tội cướp giật tài sản trong giai đoạn này. 1.2.2. Quy định của bộ luật hình sự 1985 Đảng và Nhà nước ta coi PLHS là công cụ không thể thiếu để bảo vệ chế độ nên Nhà nước ta pháp điển hóa pháp luật hình sự được đẩy mạnh trong giai đoạn 1982 - 1986 mà đỉnh cao của nó là sự ra đời của một bộ luật thống nhất, duy nhất xác định tội pham, và hình phạt. BLHS năm 1985 được quy định rõ Phần chung và Phần riêng gồm 12 chương được chia thành 280 điều. BLHS năm 1985 là bản tổng kết sâu sắc thực tiễn phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm của nước ta thời kỳ đó, để theo kịp sự phát triển của đất nước, cũng như điều chỉnh pháp lý hình sự các quan hệ xã hội đang tồn tại và đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh chống tội phạm nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều đạo luật hình sự để sửa đổi bổ sung các quy định của BLHS năm 1985, ban hành vào các năm 1991,1992 và 13
  20. 1997 Để phù hợp với tình hình mới, quy định về tội cướp giật tài sản như sau: Điều 131 quy định: 1. Người nào cướp giật hoặc công nhiên chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa, nếu không thuộc trường hợp quy định ở Điều 129, thì bị phạt tù từ 1 năm đến 5 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 3 năm đến 12 năm: a. Có tổ chức hoặc có tính chuyên nghiệp b. Dùng thủ đoạn nguy hiểm; hành hung để tẩu thoát c. Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác d. Tái phạm nguy hiểm 3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 10 đến 20 năm. Điều 154 quy định: 1. Người nào cướp giật hoặc công nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác, nếu không thuộc trường hợp quy định ở Điều 151, thì bị phạt tù từ ba 3 tháng đến 3 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 2 năm đến 10 năm: a. Có tổ chức hoặc có tính chuyên nghiệp b. Dùng thủ đoạn nguy hiểm; hành hung để tẩu thoát c. Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác d. Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 7 năm đến 15 năm. - Về hình phạt: Trong giai đoạn này pháp luật hình sự có tư tưởng chủ đạo là chú trọng bảo vệ tài sản chung (tài sản XHCN) hơn tài sản riêng (tài 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2